PHẢN BIỆN HỌC THUYẾT CỦA MÁC
*
(Tác giả Nguyễn Đình Cống) |
1- Giới thiệu
Những người tôn sùng Mác được gọi
là Macxit. Họ đánh giá rất cao học thuyết của ông, tôn ông là lãnh tụ thiên tài
của giai cấp vô sản và các Đảng Cộng sản, người lỗi lạc nhất trong những người
lỗi lạc, người trọn đời đấu tranh chống áp bức bóc lột, vì hạnh phúc của giai
cấp vô sản và nhân loại.
Số người Macxit tuy đông, nhưng
chỉ chiếm một phần rất nhỏ của thế giới. Số đông hơn nhiều đánh giá Mác là kẻ
hồ đồ, xảo trá, là tội phạm lớn của nhân loại, đánh già học thuyết của Mác là
phản khoa học.
Mác là người giỏi ngụy biện, đã
dùng hình ảnh vô cùng tốt đẹp của một xã hội tương lai do ông tưởng tượng ra để
đánh lừa nhiều triệu người. Họ phần lớn là ít học hoặc dễ tin nên bị mắc lừa,
bị nhồi sọ từ lúc còn bé, trở thành cuồng tín. Một số người trong các Đảng Cộng
sản cầm quyền, tuy biết những cái sai của Mác, nhưng vẫn cố bám víu vào ông,
nhằm bảo vệ quyền và lợi đã chiếm được nhờ những thủ đoạn.
Một số biết suy nghĩ, ban đầu bị
nhầm mà tôn sùng Mác, nhưng rồi tỉnh ngộ ra và chống lại khi phát hiện thấy
rằng thế giới đại đồng chỉ là bánh vẽ, rằng đấu tranh giai cấp và cách mạng vô
sản là những sự phá hoại, rằng xóa bỏ tư hữu về sản xuất là sai lầm. Cứ đem áp
dụng học thuyết của Mác vào thực tế thì chủ yếu gặp thất bại. Đại diện cho
những nhà trí thức lớn trước theo, sau bỏ Mác có Bertrand Russell (1872-1970
người Anh), ở Việt Nam có Giáo sư Trần Đức Thảo (1917-1993).
Theo sách của Phan Ngọc Khuê thì
lúc trẻ ông Thảo say mê Mác, nhưng dần dần ông phát hiện nhiều sai lầm của Mác.
Trần Đức Thảo đang viết một quyển sách vạch ra những sai lầm đó thì bị đột tử.
Trong sách của ông Khuê có chương 14, nhan đề “Nêu đích danh thủ phạm”, ông
Thảo cho rằng chính Mác là thủ phạm, đã lừa dối nhân loại.
Người chống lại học thuyết của
Mác có hiệu quả là Bernstein (1850-1932-người Đức). Ông là người chủ trương xây
dựng chế độ Xã hội dân chủ bằng con đường đấu tranh nghị trường, phản đối cách
mạng vô sản. Mô hình này đã thành công ở các nước Bắc Âu.
Số người theo Mác là rất ít so
với số người phản đối Mác nhưng số bài viết ca ngợi Mác lại khá nhiều. Vì sao
vậy?. Vì rằng tuy ít nhưng họ có tổ chức, đó là các đảng cộng sản, đặc biệt là
các Đảng Cộng sản cầm quyền, họ có những cơ quan tuyên truyền hùng hậu, họ ra
sức truyền bá và đề cao Mác để lôi kéo quần chúng.
Những Đảng Cộng sản cầm quyền
tuyên truyền rằng họ kiên trì theo Mác, nhưng thực ra không hoàn toàn đúng như
vậy. Họ chỉ giữ sự độc tài toàn trị về chính quyền để áp đặt nền thống trị, còn
về kinh tế thì họ đã làm ngược với quan điểm của Mác trong nhiều vấn đề. Làm
ngược nghĩa là phản lại, nhưng họ ngụy biện là vận dụng sáng tạo và phát triển
ý tưởng của Mác. Đây là lập luận dối trá vô cùng lộ liễu. Những kẻ nghe theo là
bọn cuồng tín, đã bị nhồi sọ đến nỗi không còn biết suy nghĩ.
Tại sao Mác có thể dùng ngụy biện
để đánh lừa và có một số người bị mắc lừa như vậy. Vấn đề này xin để lại sau.
Dưới đây tôi chỉ phân tích một số sai lầm và ngụy biện trong học thuyết của
Mác.
Ghi chú: Về Tuyên ngôn Đảng
Cộng sản và Đấu tranh giai cấp đã có bài riêng.
2- Sai về triết học
Mác cho rằng vật chất có trước và
toàn bộ vũ trụ là vật chất. Ý thức có sau và là sản phẩm bậc cao do hoạt động
vật chất của bộ não con người. Duy tâm cho rằng ý thức có trước. Cuộc đấu giữa
duy vật và duy tâm chưa phân thắng bại.
Mác đã kết hợp duy vật và phép
biện chứng. Điều này đã hấp dẫn một số người thích lối suy luận dựa vào logic,
họ cho rằng duy vật của Mác đã thắng một cách áp đảo triết học duy tâm. Thực ra
Vật chất và Ý thức là hai phạm trù tồn tại song song, chúng có quan hệ qua lại
và không thể nói cái nào có trước. Duy vật và duy tâm đều cực đoan. Hiểu sai,
nghiêng về duy tâm tuy có lệch lạc về nhận thức nhưng không gây nên những tai
họa lớn cho xã hội. Hiểu sai nghiêng về duy vật tạo ra nhiều tai họa hơn.
Những người tôn sùng duy vật
thường coi trọng các nhu cầu vật chất của con người. Trong đấu tranh giai cấp
và cách mạng vô sản Mác cũng nhằm vào mục đích chính là đem lại quyền lợi vật
chất cho vô sản. Trong ảo tưởng về một xã hội cộng sản Mác đưa ra những hưởng
thụ về vật chất để làm mồi nhử.
Tâm linh là một trong hai phần cơ
bản tạo nên Vũ trụ và Con người, là đối tượng của Tôn giáo. Nó là phần quan
trọng trong đời sống tinh thần của nhiều người. Tôn giáo duy trì, cổ vũ đức tin
và đời sống đạo đức. Thế mà Mác bài bác tâm linh, chống tôn giáo. Duy vật làm
gia tăng máu lạnh trong con người, xô đẩy người ta vào cuộc tranh giành quyền
bính và lợi ích vật chất. Nền đạo đức của xã hội Việt Nam gần đây bị xuống cấp
trầm trọng, phần lớn là do nguyên nhân này.
3- Sai ở phương pháp nghiên cứu
Mang danh làm khoa học, nhưng Mác
đã sai phạm trong phương pháp. Những sai phạm này khá tinh vi, không dễ thấy mà
có thể Mác cũng không biết vì không phải do chủ tâm.
Trước tiên là việc rút ra các kết
luận có tính quy luật. Đành rằng các quy luật về xã hội không yêu cầu chặt chẽ
như quy luật tự nhiên, nhưng không thể chỉ căn cứ vào vài suy luận sơ sài rồi
rút ra kết luận chắc nịch. Mác cho rằng xã hội loài người tất yếu xảy ra 5
phương thức sản xuất và sau phương thức tư bản sẽ là phương thức cộng sản mà
quá độ là xã hội chủ nghĩa, rằng phải có sự thống nhất giữa quan hệ sản xuất và
lực lượng sản xuất, rằng đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của xã hội
có giai cấp, rằng giai cấp vô sản sẽ làm chủ xã hội tương lai, rằng nguyên nhân
nghèo khổ của vô sản là vì họ không có tư liệu sản xuất. Những kết luận đó đều
chỉ mới dựa vào một vài hiện tượng đơn lẻ rồi suy diễn ra. Thế mà chúng được tô
vẽ, được ngụy biện để đến nỗi rất nhiều người tin là chân lý. Xin hãy tạm đừng
tuyệt đối tin vào Mác, đừng nhắc lại như vẹt mà hảy lật lại, làm phản biện xem
sao.
Trước hết tạm phân tích về các
phương thức sản xuất. Mác đưa ra 5: nguyên thủy, nô lệ, phong kiến, tư bản,
cộng sản và cho rằng đó là tất yếu. Về phương thức sản xuất nguyên thủy, Mác
cho rằng đó là việc hái lượm, săn bắt và trồng trọt ở thời kỳ đầu. Trồng trọt
được xem là sản xuất, nhưng nó xuất hiện sau, ghép nó vào thời nguyên thủy là
khiên cưỡng. Còn hái lượm và săn bắt thì sản xuất ở chỗ nào?. Về phương thức nô
lệ. Nếu nó thuộc quy luật chung thì ở Việt nam và Trung quốc là thuộc thời kỳ
lịch sử nào. Người ta tìm không thấy nên bịa thêm phương thức sản xuất châu Á.
Sự bịa này gây tranh cãi. Trong lịch sử, nô lệ là một hình thái xã hội thể hiện
quan hệ giữa những con người chứ không phải là một chế độ chính trị, càng không
phải là phương thức sản xuất phổ biến.
Năm phương thức có phải là quy
luật?. Không, hoàn toàn không phải. Quy luật là sự thật khách quan, trước khi
được phát hiện ra thì nó ở dạng ẩn giấu, nhưng vẫn là sự thật tồn tại. Sau khi
được phát hiện nó phải được kiểm chứng chặt chẽ. Có thể dùng quy luật để rút ra
những kết luận theo cách nội suy. Theo đúng phương pháp khoa học không thể dùng
phép ngoại suy để rút ra quy luật. Sau phương thức phong kiến là phương thức tư
bản, đó là sự thật. Sau tư bản là gì thì chưa có, chưa xảy ra, chưa biết. Chỉ
có thể đoán. Cho rằng sau tư bản là cộng sản, đó chỉ là một phỏng đoán, một sự
ngoại suy. Thế mà người ta khẳng định rằng đó là quy luật do Mác phát hiện ra.
Nghĩ như thế, nói như thế là quá láo khoét.
Mác đưa ra kết luận rằng “Lịch sử
tất cả các xã hội tồn tại từ trước đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai
cấp”. Câu này là mở đầu của Tuyên ngôn các đảng Cộng sản, công bố năm 1848. Đó
là một kết luận quá vội vàng, chỉ mới dựa trên một vài hiện tượng riêng lẻ. Tôn
Trung Sơn đã kịch liệt phản bác luận điểm này (1).
Đúng là trong lịch sử có xảy ra
những cuộc đấu tranh của nô lệ chống lại chủ nô, của nông dân chống tập đoàn
phong kiến, đặc biệt trong thời đại của Mác là các cuộc đấu tranh đòi quyền lợi
của công nhân. Không thể nào xem các cuộc đấu tranh như thế là động lực phát
triển lịch sử. Công xã Paris (1889…) Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930) là những cuộc đấu
tranh chống cường quyền và áp bức chứ chứ không hẳn là đấu tranh giai cấp và sự
thất bại của các cuộc đấu tranh đó chẳng tạo nên động lực phát triển.
Tư duy trừu tượng, là giai đoạn
tiếp theo, cao hơn về chất của quá trình nhận thức, diễn ra dưới 3 hình thức:
Khái niệm, phán đoán, suy lý”. Mác đã phạm một số sai lầm trong quá trình này.
Về khái niệm. Mác đưa ra một số
khái niệm mới (so với trước đó) như giai cấp, đấu tranh giai cấp, cách mạng vô
sản, phương thức sản xuất, quan hệ sản xuất, giá trị thặng dư v.v…Những khái
niệm này đã được phổ biến, một số người theo Mác đã công nhận và dùng quen. Tuy
vậy không phải mọi khái niệm đó đều phản ánh đúng thực tế.
Phán đoán là mệnh đề liến kết
giữa các khái niệm. Phán đoán do người nghiên cứu đưa ra, mỗi phán đoán có thể
đúng hoặc sai. Mác đã đưa ra một số phán đoán như là: + Công nhân đại diện cho
nền sản xuất tiên tiến; +Cách mạng vô sản là tất yếu; + Vô sản là giai cấp cách
mạng nhất; +Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội v.v…Phần lớn
các phán đoán của Mác chỉ là những phán đoán bộ phận nhưng đã được đưa thành
khẳng định.
Suy lý (hay suy luận) dựa vào
logic, từ luận cứ, dùng luận chứng để rút ra luận đề, (là kết luận). Một kết
luận chỉ được công nhận khi các luận cứ phải đúng và đầy đủ, luận chứng phải
tuân thủ chặt chẽ các quy tắc của lôgic. Phân tích một số suy luận của Mác tôi
thấy rằng ông đã dùng luận chứng đúng, chặt chẽ, vì thế mà hấp dẫn được nhiều người.
Nhưng phần lớn suy luận là ngụy biện vì dựa vào một số luận cứ chưa đủ tin cậy.
Luận cứ có hai loại: thực tế và
lý thuyết. Khi đọc hoặc học Mác, nếu với lòng tin tuyệt đối vào ông, xem ông là
thánh thì sẽ thấy các luận cứ ông đưa ra là đúng và đủ. Đó là do cuồng tín.
Nhưng chỉ cần có một chút tư duy phản biện thì không khó để phát hiện ra những
thiếu sót trong luận cứ. Tôi sẽ lần lượt trình bày một số phát hiện trong các
mục sau.
4- Sai ở nhận định về con người
Mác cho rằng “Bản chất của con
người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”. Đó là một phán đoán chỉ phản ảnh một
phần nhỏ mà đã bỏ qua phần lớn thuộc tính bản chất. Vì vậy có thể nói rằng Mác
đã sai. Cái sai này đã dẫn ông đi lạc đường trong nhiều vấn đề.
Hoạt động của con người, ngoài
một số ít theo bản năng thì đều xuất phát từ nhận thức. Theo phép biện chứng
của Mác thì nhận thức là do: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và
từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Trực quan sinh động diễn ra dưới 3 hình
thức: cảm giác, tri giác, biểu tượng. Tư duy trừu tượng là giai đoạn tiếp theo,
cao hơn về chất của quá trình nhận thức, diễn ra dưới 3 hình thức: Khái niệm,
phán đoán, suy lý”.
Những nghiên cứu sâu hơn về con
người chỉ ra rằng quan niệm về nhận thức như trên của Mác chỉ đúng một phần
nhỏ. Thực ra nhận thức (hoặc Tâm thức) gồm từ hai nguồn là tiềm thức và ý thức.
Tiềm thức là những thông tin được chứa trong Tàng thức, trong các tầng hào
quang của con người mà khoa học thực nghiệm hiện nay chưa biết rõ (2). Tiềm thức được hình thành từ
trong bào thai do di truyền, do tiếp thu tinh hoa sông núi. Ý thức thuộc hoạt
động của não mà phần lớn được hình thành từ lúc còn rất bé, một phần nữa do các
quan hệ xã hội tạo nên. Mác thấy khá rõ phần quan hệ này, quan trọng hóa nó
lên, rồi vội cho rằng đó là bản chất. Nhầm lẫn này là vô cùng tai hại.
Mác quy kết sai về bản chất con
người như vậy có thể do bị ảnh hưởng bởi thuyết tiến hóa Đac Uyn. Thuyết này đề
cao ảnh hưởng của môi trường và hiện nay đang bị đánh đổ dần dần.
Từ chỗ đề cao các mối quan hệ xã
hội do vị trí của con người trong nền sản xuất và sự thụ hưởng quyền lợi vật
chất mà Mác phân chia loài người thành các giai cấp mà coi nhẹ yếu tố quốc gia
và dân tộc. Trong các giai cấp thì Mác tỏ ra yêu thương giai cấp vô sản vì thấy
họ bị bóc lột, bị áp bức, chịu nhiều sự bất công. Đó là lòng tốt. Nhưng rồi
lòng tốt này đã làm Mác mờ mắt và loạn trí, đã nhìn thấy ở giai cấp vô sản
những đức tính tốt đẹp để có thể làm chủ thế giới trong lúc họ không có đủ phẩm
chất để làm công việc đầy khó khăn đó. Cuối Bản Tuyên ngôn Cộng sản Mác đã kêu
gọi “Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại”. Để làm gì?. Phải chăng để: Quyết phen
này sống chết mà thôi, để mau phá sạch tan tành chế độ xưa, để giành lấy toàn
bộ lợi quyền về tay mình (lời của Quốc tế ca).
Mác cũng có thấy một vài thói xấu
của vô sản và vì không thể bỏ qua nên có nhắc đến ‘tầng lớp vô sản lưu manh’ và
cảnh báo rằng khi nắm được chính quyền một số cá nhân nguyên là vô sản có thể
sẽ thay đổi tính nết mà đi theo vết xe đổ. Mác không chịu nhân ra rằng khi đã
nắm được quyền thì những người nguyên là vô sản sẽ nhanh chóng trở thành thế
lực thống trị tàn độc (những người xuất thân từ trí thức tinh hoa không tàn độc
như thế)
Bản chất của con người được tạo
nên từ giống và điều kiện môi trường. Giống hoặc hạt giống có từ trong bào
thai, chứa trong Tiềm thức. Nó sẽ nảy nở, phát triển hay bị tàn lụi như thế nào
là do môi trường. Như vậy môi trường là rất quan trọng, nhưng chính hạt giống
mới là nhân tố quyết định. Trong môi trường có các quan hệ xã hội. Vì đầu óc bị
vật chất ám ảnh mà Mác không thấy hoặc cố tình bỏ qua vai trò hạt giống, còn
trong môi trường thì Mác thấy rất rõ quan hệ xã hội, không thấy được những thứ
khác như sự giáo dục gia đình từ lúc trẻ còn rất bé và sự tu dưỡng của bản thân.
Với số đông người, hạt giống về
tư hữu là mạnh nhất, nó chi phối nhiều hoạt động. Người vô sản, trong hoàn cảnh
phải bán sức lao động để sinh sống thì hạt giống ấy bị kìm hãm, chưa phát triển
được. Nhưng khi đã nắm được quyền lực thì hầu như toàn bộ mọi người sẽ để cho
hạt giống tư hữu phát triển chứ không phải chỉ vài trường hợp riêng. Nếu có đặc
biệt thì đó là một số rất ít người có sẵn hạt giống tốt về đạo đức nhân bản mà
sức mạnh của nó có thể chiến thắng hạt giống tư hữu vốn có nhưng yếu.
Một nhận định khá sai lầm của
Mác, cho rằng giai cấp công nhân đại diện cho nền sản xuất công nghiệp tiên
tiến và từ đó gán cho họ những đức tính do Mác suy luận ra. Điều này đã được
nhiều học giả vạch ra (3),
được thực tế chứng tỏ, tưởng không cần chứng minh thêm nữa.
5- Xã hội thiên đường Cộng sản
Xã hội cộng sản do Mác vạch ra: “Mọi
tư liệu sản xuất là công hữu, của cải vật chất dồi dào, mọi người tự giác làm
theo năng lực, hưởng theo nhu cầu …”. Đó chỉ mới là sản phẩm của trí tưởng
tượng hoang đường nhưng Mác đã vội khẳng định tính tất yếu của nó. Việc làm này
ngược với phương pháp khoa học. Mác chỉ rõ con đường đi đến xã hội cộng sản
phải trải qua thời kỳ quá độ là xây dựng chế độ Xã hội chủ nghĩa. Thế rồi các
học trò của Lê nin còn thêm vào một thời kỳ quá độ thứ hai là “Quá độ từ xã hội
phong kiến lạc hậu lên thẳng Chủ nghĩa Xã hội”.
Thông thường thầy chỉ dạy cho học
trò công việc mà mình đã từng làm, có kiến thức, có kinh nghiệm. Thế mà Mác dám
dạy cho đệ tử việc mà ông chẳng biết đầu cua tai nheo ở đâu. Mác chỉ mới tưởng
tượng ra một cái bóng rồi xúi dục người khác làm theo nó. Trong việc này có ba
sai lầm rất lớn.
Một là mô hình xã hội Mác đưa ra
hoàn toàn là hoang đường. Việc công hữu toàn bộ tư liệu sản xuất, xóa bỏ mọi tư
hữu về nó là trái với bản chất con người. Sự tự giác của con người là có, nhưng
quá tin vào sự tự giác của tất cả mọi người là ảo tưởng.
Hai là việc tạo lập nên xã hội
tốt đẹp phải được giai cấp vô sản thực hiện dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
là đội tiên phong của họ. Thực ra ban đầu, khi thành lập các Đảng Cộng sản đều
tự cho mình là đội tiên phong của giai cấp vô sản, nhưng khi đã nắm được chính
quyền thì họ đã trở thành một ‘giai cấp mới’. Và quan trọng là giai cấp vô sản
chưa bao giờ và không thể là động lực chính cho một xã hội tiến bộ. Chế độ vô
sản chuyên chính do các Đảng Cộng sản lập nên trong quá trình xây dựng Chủ
nghĩa Xã hội là độc tài toàn trị.
Ba là, chẳng biết rồi xã hội cộng
sản sẽ tốt đẹp như thế nào, nhưng con đường để thiết lập vô sản chuyên chính và
sự thống trị cúa nó là đầy đau thương và tàn bạo.
Nhiều người say mê Mác vì ông cổ
vũ cho việc chống áp bức bóc lột, chống bất công, mong muốn nhân loại được sống
trong no ấm, hạnh phúc. Đây là một sự say mê thiên lệch và mù quáng. Những điều
vừa kể và một số điều tốt đẹp khác không phải do Mác đề xuất đầu tiên hoặc duy
nhất. Trước, ngang và sau Mác có hàng ngàn hàng vạn những thủ lĩnh chính tri,
dù đang cầm quyền hoặc tranh đấu để có quyền đều tuyên bố như thế. Mác chỉ nói
theo và nói thì hay mà làm thì dở. Đó là chống áp bức này nhưng lại tạo ra áp
bức khác trong đấu tranh nhằm tiêu diệt giai cấp bóc lột, đó là Mác hầu như
không quan tâm đến nhân quyền mà chỉ quan tâm đến giai cấp vô sản. Cái riêng
của Mác là xã hội làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu thì làm gì có.
6- Nghèo khổ và bị bóc lột
Quan sát xã hội nước Anh ở thế ký
19 Mác nhận ra sự nghèo khổ của tầng lớp người phải bán sức lao động để kiếm
sống, họ bị bóc lột vì không có tư liệu sản xuất. Mác gọi họ là vô sản. Mác
không thể, không muốn hay không dám thâm nhập sâu vào cuộc sống của vô sản để
biết được bản chất, nguyên nhân sâu xa của sự nghèo khổ. Mác chỉ quan sát từ
xa, quan sát lớt phớt, thấy được điều rõ ràng nhất, dễ thấy nhất là họ không có
tư liệu sản xuất. Đó là cái nhìn phiến diện. Từ đâu sinh ra lớp người không có
tư liệu sản xuất khi mà từ đầu loài người vốn không ai có của riêng.
Có ba nguyên nhân tạo ra những
người vô sản. Một là nguồn gốc từ ông cha, hai là bị tai nạn, ba là tự phá sản.
Từ ông cha, đó là truyền đời,
nhưng ông tổ đầu tiên tại sao lại trở thành vô sản trong khi những người khác
trở thành hữu sản. Phải chăng họ bị khiếm khuyết gì đó về thể chất hoặc tinh
thần, mà một số không ít là do lười nhác hoặc kém trí tuệ. Ông cha là vô sản
nhưng con cháu không phải tất cả sẽ nối nghiệp vô sản mà chỉ những người kém
năng lực mới trở thành vô sản, còn những người trẻ có năng lực đã sớm thoát
khỏi và có người trở thành tư sản. Vậy nguồn gốc chỉ là một phần, nó còn kết
hợp với sự yếu kém phẩm chất tinh thần.
Có những người hữu sản vì gặp
phải tai nạn gì đó mà mất hết, trở thành vô sản. Số này ít thôi, nhưng không
phải tất cả họ đều suốt đời chịu làm vô sản. Một số họ chỉ là vô sản tạm thời
rồi họ sẽ tìm cách đổi đời.
Có một số người mà cha mẹ là hữu
sản nhưng họ trở thành vô sản vì đã rượu chè, cờ bạc, ăn chơi, lười nhác mà phá
nát cơ nghiệp tổ tiên, tự mình làm phá sản.
Mác trông cậy vào vô sản mà quên
rằng đặc trưng nổi bật của phần đông vô sản là kém trí tuệ.
Vì đánh giá không đúng về bản
chất của vô sản nên Mác đã tưởng tượng ra những bản chất tốt đẹp mà họ không có
hoặc có rất ít, gán cho họ những khả năng quản lý và lãnh đạo. Vì điều này mà ở
Việt Nam một thời đã đề lên rất cao thành phần bần cố nông, cho rằng những
người nghèo khổ nhất là đáng tin tưởng nhất, giao cho họ những chức vụ lãnh đạo
và họ đã phá nát nhiều thứ.
Mác chưa hề tham gia vào sản
xuất, chưa làm kinh doanh bao giờ, chỉ biết một số kiến thức qua sách vở, báo
chí và những quan sát từ xa. Từ đó Mác nghĩ ra thuyết giá trị thặng dư, chỉ ra
việc tư bản bóc lột công nhân như thế nào rồi công bố, không hề kiểm nghiệm,
không nghe phản biện. Thuyết giá trị thặng dư ấy đã được nhiều người tung hô,
giảng dạy, tuyên truyền, nhưng chỉ trên giấy và trên cửa miệng, không thấy có
ai vận dụng được gì vào thực tế. Vì sao vậy?. Vì nó sai. Thực ra thì không sai
hoàn toàn mà đã bỏ sót một vài yếu tố quan trọng. Điều này đã có nhiều chứng
minh, để tránh dài dòng tôi không nhắc lại.
7- Quy luật thống nhất giữa lực lượng và quan hệ sản xuất
Theo Mác thì lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành
quy luật, có nội dung: “Quan hệ sản xuất phải phù hợp với lực lượng sản xuất”.
Những người Marxit cho rằng đó là quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát
triển xã hội. Họ giải thích rằng lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất
và phát triển nhanh hơn. Đến một lúc quan hệ sản xuất trở nên lạc hậu so với
lực lượng. Lúc này, để bảo đảm sự phù hợp thì phải làm cách mạng để đổi mới
quan hệ sản xuất nhằm tái lập sự phù hợp.
Đây là một sự bịa đặt rất phản
khoa học. Đã gọi là quy luật thì phải luôn luôn đúng, nếu có cái gì làm cho
lệch lạc thì hệ thống tự động điều chỉnh. Ở đây con người phải can thiệp nhằm
sửa đổi quan hệ sản xuất, uốn nắn cho nó phù hợp. Phải có sự can thiệp của con
người thì còn gi là quy luật. Mà lại can thiệp bằng cách mạng vô sản.
Cho rằng quan hệ và lực lương
phải phù hợp nhưng khái niệm phù hợp ở đây rất tù mù. Quan hệ và lực lượng là
hai đối tượng khác nhau hoàn toàn về bản chất, thành phần và cấu tạo. Vậy sự
phù hợp này được quyết định bới cái gì, đánh giá như thế nào. Tôi chưa nghe ai
nói, chưa thấy tài liệu nào giải thích rõ về sự phù hợp này.
Cho rằng lực lượng sản xuất quyết
định quan hệ sản xuất. Quyết định như thế nào cũng lại là một sự tù mù khác.
Đây là một phán đoán hay kết luận của một suy lý, của một chứng minh. Nếu đây
là phán đoán thì nó nhận giá trị giả dối. Nếu là kết luận thì đây là bịa đặt vì
chẳng thấy quá trình suy lý như thế nào.
Khi Mác đưa ra quy luật này phải
chăng có thâm ý là chuẩn bị tiền đề cho cách mạng vô sản. Nếu quả thật như thế
thì Mác xứng đáng được tôn thành tổ sư của bịp bợm vì đánh lừa được rất nhiều
người tự cho là thông minh, có trí tuệ ở trong các Bộ này, Ban nọ, Hội đồng
kia. Còn việc đánh lừa được hàng triệu người vô sản thì là chuyện bình thường,
chỉ cần đưa ra vài mồi nhử về vật chất.
----------
Tái bút - Tác giả bài viết có mong muốn được
đối thoại trực tiếp với những người Marxit chân chính dù ở bất kỳ cương vị nào
để cùng nhau nhận ra được những sai lầm trong lập luận.
Ghi chú: (1)- Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung
Sơn- Sách lưu hành nội bộ trong Đảng Cộng sản Việt Nam
(2)- Xem sách Bàn tay ánh sáng (Hand of
light), tác giả Barbara Ann Brennan. Lê Trọng Bổng dịch. Nhà xuất bản Văn hóa
thông tin- 1996.
(3)- Xem sách Mao Trạch Đông ngàn năm
công tội, tác giả Tân Tử Lăng. Nhà xuất bản Thư Tác Phương- Hồng Công- 2007.
*.
NGUYỄN ĐÌNH CỐNG
Địa
chỉ: Nhà 7 ngõ 102/23 Hoàng Đạo
Thành
Kim Giang, Thanh Xuân, Hà Nội.
Email: congnd37@yahoo.com.vn
Điện thoại: 038 957 8620
.............................................................................................................
- Cập nhật từ
messenger facebook Vũ Thị Hương Mai ngày 20.12.2021.
- Ảnh dùng minh họa cho bài viết được sưu tầm từ
nguồn: internet.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng
Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi
trích đăng lại.
0 comments:
Đăng nhận xét