KIM LÂN
Tôi quen với Kim Lân là nhờ Nguyễn Tuân. Tác giả Vang Bóng Một Thời, Chùa
Đàn… là người quảng giao, biết nhiều người, chơi với nhiều người, nhưng trong
việc chọn bạn ông rất kỹ tính.
Nguyễn Tuân bảo:
- Kim Lân hả? Viết về nông thôn anh này là số một đấy. Con mắt anh ta trần
đời lạ, vừa lờ đờ vừa hoay hoáy. Lờ đờ là bề ngoài, là giả tảng, hoay hoáy mới
là thật - anh ta nhìn thấy những cái mà chúng mình không thấy. Giỏi!
Cha tôi có một tủ sách đầy ắp – sách tiếng Việt, sách tiếng Pháp, ngă dưới
thì ngồn ngộn tạp chí Tiểu thuyết Thứ Bảy tiếng ta, Illstration tiếng Pháp…
Sách của ông cũng đủ loại, từ các sách triết học cho tới Sách Hồng cho trẻ con
(“Hôm qua đổ trận mưa rào, Mặt trời sợ ướt lẩn vào đám mây…”).
Ông truyền cho tôi tính ham học, ham đọc từ bé. Tôi đọc bất kể thứ gì rơi
vào tay. Tác phẩm của Kim Lân có trong nhà tôi: Vợ Nhặt, Đứa Con Người Vợ Lẽ,
Con Người Cô Đầu,… Tôi đọc Kim Lân từ những ngày thơ ấu.
Về sau này, các tác phẩm của Kim Lân vẫn cuốn hút tôi bởi cái thế giới rất
Kim Lân, đặc sệt Kim Lân. Cùng với Kim Lân còn có Hồ Dzếnh cũng rất cuốn hút -
văn tưởng như không văn, nhưng lại rất đẹp, đã đọc trang đầu là phải đọc đến
trang cuối.
Nguyễn Tuân quý Kim Lân kể cũng lạ. Không đến nỗi là hai thái cực, nhưng
đặt hai người bên nhau thì thấy họ khác nhau nhiều lắm, cả về hình dáng lẫn văn
chương - người này chữ nghĩa đẽo gọt, chau chuốt, người kia thì chân chất, mộc
mạc.
Kim Lân được độc giả biết đến trước năm 1945. Khi đất nước chia hai, ở miền
Bắc ông tiếp tục nổi tiếng với những tác phẩm mới,nhưng ở miền Nam người đọc
bình thường dường như không biết ông. Ít nhất thì tôi có cảm tưởng như thế khi
trò chuyện với bè bạn ở phương Nam về những tên tuổi được nhiều người nhắc tới.
Vào đầu thập niên 60, sau cuộc Cải cách ruộng đất “long trời lở đất” tiếp
đến “Nhân văn Giai phẩm”mọi người muốn hay không cũng đều rất thận trọng, phải
ngó trước ngó sau trong giao tiếp.
Tôi quen Kim Lân trong thời kỳ này. Đó là một thời không giống thời nào
khác - người hết tin người. Đến nỗi khi khai lý lịch người ta thường để trống
mục “bè bạn”. Để trống, không có nghĩa là không có ai là bạn. Nó chỉ có nghĩa
là tôi không có người nào đáng ghi vào mục ấy, thế thôi. Bè bạn khác với người
quen. Người quen là người tôi biết, tôi chỉ giao thiệp lớt phớt, hà tất tôi
phải ghi vào. Viết thế cho nó lành.
“Tin người quá, dễ dãi quá, có ngày mất chỗ đội mũ”, Kim Lân nói bằng giọng
bỡn cợt.
Chẳng cần ngẫm cũng thấy Kim Lân có lý. Không đến nỗi mất chỗ đội mũ, nhưng
lớ ngớ điền vào đấy một ông bạn bá vơ nào đó để rồi vào một ngày đẹp trời ông
ta bỗng dưng bị phát hiện hay bị tố cáo là “Ku Zét” (Quốc dân đảng), là Đờ Vờ
(Đại việc), hoặc có chút dính dáng với Phòng Nhì của Pháp thì chỉ có chết.
Trong trường hợp này, muốn hay không muốn, anh bị coi là kẻ có “liên quan”. Mà
chỉ có liên quan thôi cũng đủ lôi thôi lắm rồi – anh có thể bị gọi đến nơi
không ai muốn đến, ở đấy anh phải trả lời đủ thứ câu hỏi lăng nhăng lằng nhằng
của các viên chức mẫn cán truy tầm các phần tử phản cách mạng. Mất thời giờ là
cái mất ít nhất. Anh có thể bị mất nhiều thứ lớn hơn mà anh không ngờ – bị sa
thải, dĩ chí ngồi tù, nhẹ thì cũng bị chuyển công tác, mất béng công việc ổn
định.
Không biết trong lần đầu gặp gỡ Kim Lân có nhìn tôi hoay hoáy hay không,
nhưng tôi nhớ ánh mắt của ông khi nghe Nguyễn Tuân giới thiệu tôi. Văn gia
Nguyễn Tuân nói quá lời, Kim Lân không đến nỗi xét nét quá đáng. Cũng có thể
ông tin lời giới thiệu của Nguyễn Tuân, nên với tôi ông có cái nhìn ấm áp đôn
hậu cùng với cái bắt tay chặt.
Kim Lân hay bá vai tôi khi đi cùng. Đó là cử chỉ thân mật. Cánh tay ông
nhẹ. Thân hình ông cũng vậy, nhẹ bỗng. Gương mặt xương xẩu, da xạm, nhưng nụ
cười toả nắng. Tôi thường nghi ngờ những nhà văn béo tốt. Họ dường như đi lạc
vào làng văn.
Tôi kính Nguyễn Tuân và một số nhà văn khác bởi văn tài của họ, chứ những
nhà văn gọi là “có môn bài” không được lũ viết văn trẻ chúng tôi coi trọng. “Có
môn bài” ở đây phải hiểu là có chân trong Hội Nhà văn. Vào được cái hội danh
giá như một viện hàn lâm ở nước khác vào cái thời ấy khó lắm - không phải cứ có
sách in là được vào. Để trở thành hội viên còn phải thông qua sự sàng lọc của
một thứ chẳng liên quan gì tới văn chương có tên là “đảng đoàn Hội Nhà văn”.
Đảng làm ra vẻ không dính líu tới văn chương, nhưng đảng ngại nó, gờm nó.
Ngại thì phải soi, phải xét. Nhân danh sứ mạng thiêng liêng của trách nhiệm
lãnh đạo toàn diện, không bỏ sót lĩnh vực nào, đảng có buộc vào cổ văn chương
bằng sợi dây tam cố để dắt con cún văn chương, bắt nó đi đâu phải đi đấy là
chuyện đương nhiên.
Chơi với Kim Lân tôi thấy ông không mặn mà với Hội Nhà văn. Ông nổi tiếng,
người ta không thể không đặt ông vào đấy thì ông vào, ông lững thững đặt vào
đấy một chân, chân kia ông để ngoài – ông có nhiều bạn văn vô danh tiểu tốt hơn
bất kỳ nhà văn nào trong cái hội nọ.
- Này, truyện ngắn Đêm Mất Ngủ của ông được đấy, nó lạ, nó không sa vào lối
mòn. Với nó, thế là ông có chiếu trong đình làng văn rồi đấy!
Kim Lân vỗ vai tôi nói thế khi tôi được ông kéo về nhà mình trong ngõ hẹp.
Kim Lân không hút thuốc lá. Ông về nhà để hút thuốc lào.
Tôi thích ngắm Kim Lân hút thuốc. Ông không hút như cách người nghiện lên
cơn thèm. Ông hút chậm rãi, tận hưởng đến cùng cái thú của sự hút. Sau khi bắt
cái điếu kêu lên một tràng giòn tan, ông hóp má rít đến khi viên thuốc cháy đỏ
lút dần vào nõ rồi mới từ từ ngửa mặt lên, miệng không mím cũng không mở, từ đó
bay ra một đám mây vần vụ. Đoạn, ông quất cái xe điếu đánh chát vào thành gỗ
cái điếu bát, đặt dấu chấm hết cho sự hài lòng.
Truyện ngắn Đêm Mất Ngủ của tôi vừa mới xuất hiện trên tờ Văn Học đã có
điều ong tiếng ve. Rằng nó đi ngược con đường hiện thực xã hội chủ nghĩa.
Đỉnh điểm của những lời phê phán là bài “Giương cao ngọn cờ tính Đảng,
chống chủ nghĩa xét lại hiện đại trong văn nghệ” của Tố Hữu, đăng trên tờ Nhân
Dân, sau đó được tất cả các báo nhất tề đăng lại, không trừ cả báo Văn Nghệ đã
đăng truyện ngắn này.
Ông giáo sư khả kính Hoàng Xuân Nhị còn gán thêm cho tôi một tội mà nhà
lãnh đạo văn nghệ bỏ sót: “Vũ Thư Hiên đã phất cao ngọn cờ ấn tượng chủ nghĩa
nhằm chống lại đường lối văn nghệ xã hội chủ nghĩa của Đảng”.
Khốn nạn cho tôi, khi viết truyện ngắn này và cả sau đó nữa, tôi có biết
mặt ngang mũi dọc cái ấn tượng chủ nghĩa là thế nào đâu. Ông ông giáo sư mác-xít
buộc tôi vào cái tội ấy không cần biết tôi có sở hữu nó hay không, không cần
biết tôi có biết hay không biết nó là cái gì . Trong trận đòn hội chợ này nhà
phê bình Phong Lê cũng không bỏ lỡ cơ hội bồi thêm cho tôi một quả đấm muộn
trên tập san Nghiên cứu Văn Học. Phong Lê viết bài ấy theo thời, không có ý
xấu, như sau này anh thổ lộ, khi chúng tôi rồi sau đánh bạn với nhau.
Người đưa truyện ngắn của tôi lên trang nhất tờ báo là nhà văn Đỗ Quang
Tiến. Ông kể: ông bị hạch hỏi, bị kiểm điểm lên kiểm điểm xuống, nhưng ông cứ
một mực đổ cho tập thể đã thông qua. Mà tập thể rồi cũng phải nhận tội vì thiếu
tinh thần cảnh giác cách mạng đã để lọt nó lên báo, lờ tịt cái tội lười, đọc
lướt. Cho nên Đỗ Quang Tiến riết rồi cũng bình an vô sự.
Kim Lân cười hì hì khi nghe chuyện bạn bị kiểm điểm:
- Giỏi! Tập thể tức là chẳng có thằng chó nào chịu trách nhiệm hết.
Kim Lân không phải không biết sự coi thường những lời vàng ngọc của ông vua
văn nghệ Tố Hữu sẽ có hậu quả thế nào. Có thể ông tin tôi không phải kẻ sẽ đem
câu nói của ông đi khoe với thiên hạ. Mà cũng có thể ông nói văng mạng, chẳng
biết sợ là gì.
Tôi ở tuổi coi trời bằng vung, Lời Tố Hữu phê phán đối với tôi chẳng có kí
lô nào. Lời khen của Kim Lân mới là điều quan trọng. Nó cho tôi thêm vững dạ để
bước tiếp.
Nhờ Kim Lân và Hồ Dzếnh tôi mới được làm quen với Thanh Châu, nhà văn lãng
mạn, một trong những cây bút chủ lực của Tiểu thuyết Thứ bảy thời trước Cách
mạng Tháng Tám. Cũng lại là sự lạ - Kim Lân không hề lãng mạn chút nào lại là
bạn, mà là bạn thiết, của Thanh Châu.
Thanh Châu nói về Kim Lân:
- Văn ở người này hay người kia khác nhau còn ở cái tạng, ông ạ. Tạng tôi
dù có muốn viết như ông ấy đến mấy cũng không thành. Mà tôi mê cái chất mộc mạc
của ông ấy lắm, bắt chước không được.
Việc kiên quyết xoá sạch quá khứ, trong văn học cũng như trong mọi mặt đời
sống tinh thần trước cách mạng là việc đương nhiên phải làm của đảng cầm quyền.
Văn Thanh Châu, và nói chung dòng văn lãng mạn, bị giập tắt hoàn toàn để nhường
chỗ cho văn chương công nông binh.
Chúng tôi, những đứa trẻ mê văn, rất biết ơn các tác giả của nền văn học
trước cách mạng. Mặc cho mọi phủ định, mọi bài nói bài viết chê bai, dè bỉu của
những cây bút phê bình mới nổi, chúng tôi hiểu rằng mọi bút pháp văn xuôi, và
cả thơ nữa, được phong phú như bây giờ là nhờ công khai sơn phá thạch của các
vị ấy. Những tác phẩm của thời kỳ trước cách mạng bị coi là văn hoá độc hại, bị
tịch thu, bị thiêu huỷ, nhưng chúng không biến mất hoàn toàn, chúng tôi vẫn tìm
ra ở những người yêu sách đã cất giấu, ở những hiệu sách cũ.
Các nhà văn cũ chìm nghỉm trong cơn sóng lừng của những cấm đoán khắt khe.
Thanh Châu chẳng chờ bị nhận chìm. Như nhiều nhà văn tiền chiến, ông tự lặn
kỹ, không sủi tăm. Ông khoá trái cửa, tránh mọi giao tiếp.
Đến với Thanh Châu, tôi phải thận trọng từng bước leo một cái thang mảnh dẻ
và lung lay, chui qua một cái lỗ nhỏ hình vuông vừa đủ cho một người, để lết
vào trong cái gác lửng thấp tè. Ngồi ở đó, bên bàn trà của Thanh Châu, tôi được
hưởng sự yên tĩnh ở một thế giới khác, bỏ lại sau lưng cái thế giới chán phè.
Nhà Thanh Châu là chỗ ẩn náu của những nhà văn không ưa mọi xáo động bên
ngoài. Nhà Thanh Châu là nơi có thể bàn chuyện đời, chuyện văn, muốn nói gì thì
nói. Ở đấy chúng tôi chẳng phê phán ai, chẳng chống đối ai, chẳng chống đối cái
gì, chúng tôi không rỗi hơi để làm việc ruồi bu, thế mà người ta cũng biết ai
thường đến đấy, ai nói cái gì. Không thể hiểu được tại sao họ biết – có người
nào đó sểnh miệng hay có người không đáng tin nhập cuộc. Thành thử khi có
chuyện ấy xảy ra thì giữa chúng tôi cũng nhột nhột, phải giữ gìn ý tứ trong câu
nói, trong giọng nói, như một phản xạ có điều kiện.
Đến thời có cuộc “đấu tranh giữa hai đường lối” gọi là “giáo điều” và “xét
lại” thì tình hình căng như dây đàn.
Trong bầu không khí ngột ngạt, ở mọi cơ quan báo chí xuất bản các bài viết,
các tác phẩm văn học nghệ thuật đều bị lôi ra xem xét dưới kính phóng đại. Mọi
nhà văn nhà báo đều bị tình nghi mắc bệnh xét lại. Bệnh này kinh hơn mọi thứ
bệnh có thể chữa lành trong bệnh viện. Cuộc đấu tranh chống “chủ nghĩa xét lại
hiện đại” được Bắc Kinh khởi xướng được coi như nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng
vô sản. Mọi văn nghệ sĩ phải tự xem lại mình, tự kiểm điểm , tự đấm ngực mà kêu
mea culpa (tôi là kẻ có tội). Có cả những người chẳng hề quan tâm các thứ chính
trị linh tinh lang tang vội vã xưng mình có tội để được coi là kẻ trung thành
với đường lối chính thống.
Trong cuộc săn phù thuỷ này có nhiều sắc thợ săn – kẻ vì danh, vì lợi, kẻ
chỉ mong được tồn tại, được sống sót.
Tôi cũng suýt chết. Những bài báo tôi viết có nói đến tình hữu nghị với
Liên Xô, nước được coi là tên đầu sỏ xét lại bị đem ra mổ xẻ, lên án. Chỉ đến
khi tôi đưa ra chứng cứ rằng bản quyền những câu chữ ấy không phải của tôi mà
của các lãnh tụ đảng được tôi sao chép nguyên văn thì những nhà phê phán, từ
thư ký toà soạn tới chị đánh máy mới ngã ngửa người ra, đành lòng cho tôi trắng
án.
Hiền lành như Kim Lân mà cũng không thoát cuộc đấu tranh giữa hai đường lối
một mất một còn nọ để trở thành nạn nhân vì truyện ngắn Con Chó Xấu Xí.
Tôi không nhớ ai là người đầu têu phê phán truyện Con Chó Xấu Xí. Trong
những cuộc họp té nước theo mưa, bằng giọng cao đạo người ta nổ như pháo rằng
Kim Lân là một tên xỏ lá có hạng, Kim Lân dám ví Đảng như ông chủ, còn trí thức
là con chó. Cả nhà ông chủ hắt hủi con chó ghẻ lở gày còm, nó bị đạp, bị đá,
nhìn thấy bóng người là nó len lét lủi như chạch. Chỉ đến khi nó hết bệnh, trở
nên khoẻ mạnh, béo tốt, thân hình nở nang của nó hứa hẹn những đĩa luộc, đĩa
dồi và nồi nhựa mận bốc mùi ngào ngạt, nó mới được mọi người hết lời khen ngợi.
Con chó khốn khổ thì chỉ biết một mực trung thành với chủ, nó giữ nhà cho chủ
khi chủ chạy Tây càn cho đến khi nó bị thương gần chết vẫn còn lê lết đến mừng
chủ trở về. Miêu tả thân phận con chó còi cọc đói khổ trên nền xám của nông
thôn Việt Nam Con Chó Xấu Xí là một truyện ngắn cực hay.
Như có một cái rớp, mọi tác phẩm mang tên các con vật như Văn Ngan Tướng
Công của Vũ Tú Nam, Con Nai Đen của Nguyễn Đình Thi đều chịu chung số phận với
Con Chó Xấu Xí. Tôi không nhớ ai đã viết thế này về Văn Ngan Tướng Công: “Vũ Tú
Nam ví đảng như con ngan, bay không biết bay, bơi không biết bơi, chỉ nỏ mồm
cạc cạc”. Con Nai Đen, không bị đánh công khai, có lẽ do người ta còn chút nể
nang ông chủ tịch Hội Nhà văn nhưng vẫn bị Tố Hữu phê phán rằng tác giả đi
chệch đường, lấy truyện xưa để nói nay. Cho dù Nguyễn Đình Thi và Vũ Tú Nam
cùng gặp tai nạn súc vật với Kim Lân nhưng trước sau hai vị vẫn là ”người của
đảng”, không được lũ viết văn trẻ chúng tôi coi là “người cánh ta”.
Tôi kể chuyện này để thấy tôi không lầm về Kim Lân.
Cũng như mọi người, ông sống thận trọng. Một hôm, từ nhà Thanh Châu ra về
ông bảo tôi:
- Này, ông phải biết rét đấy. Đỗ Nhuận vừa nói trong cuộc họp ở hội rằng Vũ
Thư Hiên là một tên xét lại.
Người bị gọi là “xét lại” có thể bị nhiều tai ương không ngờ.
Tôi ngây thơ, cứ nghĩ Đỗ Nhuận đối với tôi có tình. Chúng tôi hể hả khi gặp
nhau, trò chuyện vui vẻ bên ly cà phê ở quán Lâm Toét. Tôi quý tác giả bài ca
Sơn La Âm U, Núi Khuất trong Sương Mù, Giải Phóng Điện Biên, Bộ Đội Ta Tiến
quân Trở Về…
- Thể nào ông cũng phải viết cho tôi một bài về nhạc kịch Cô Sao đấy nhá! –
anh nói - Tôi thích cách ông viết. Ông phải “lăng-xê” nó cho tôi.
Thêm một lần tôi hiểu con người có hai mặt hoặc nhiều mặt trong cái xã hội
tôi đang sống.
Tôi cảm ơn Kim Lân nhắc nhở. Nhưng tôi không biết phải cẩn thận thì cẩn
thận thế nào cho đủ.
- Đừng nghĩ đến chuyện sáng tác trong thời gian này là hơn – Kim Lân khuyên
- Tôi cũng thế, tôi im. Hoặc tôi xuất bản bằng mồm.
Trong những truyện ngắn “xuất bản bằng mồm” của Kim Lân, có tôi, Thanh Châu
và Hồ Dzếnh cùng nghe, có một truyện tôi đặc biệt nhớ: Thằng Câm. Truyện này
rồi sau Kim Lân hoá ra cũng chẳng viết ra giấy. Nó chẳng được in ở đâu, cũng
không nghe ai nói tới một bản thảo của Kim Lân có tên như thế.
Như mọi truyện của Kim Lân, truyện Thằng Câm đơn giản, mộc mạc. Ở một hợp
tác xã nông nghiệp nọ có một chàng trai ế vợ. Anh khoẻ mạnh, không đẹp trai,
cũng không xấu xí. Nhưng anh bị câm bẩm sinh. Sau nhiều mai mối, cuối cùng một
cô gái làng bên thuận lấy anh. Họ sống với nhau được một thời gian không dài.
Cho đến một ngày kia, trong một cuộc chấm điểm lao động của hợp tác xã, anh bất
bình với cách chấm điểm mà anh cho là không hợp lý, anh ú ớ cãi lại. Vợ anh
cũng không hiểu anh nói gì, cô dịch lời của anh sai, anh quát cô, anh la hét
rầm rĩ, vung tay định tát cô ngay trong cuộc họp. Cô bỏ chạy, nước mắt ròng
ròng. Đêm hôm đó, cô thu xếp quần áo cho vào tay nải, đợi anh ngủ say thì đi.
Nhưng ra đến cổng, cô bịn rịn quay lại nhìn vào cửa sổ nơi anh nằm và giật mình:
qua những chấn song cô nhìn thấy gương mặt thẫn thờ, tuyệt vọng, đau đớn của
chồng. Thì ra anh vẫn thức, anh biết chị sẽ bỏ đi, anh không cản, anh chấp nhận
số phận hẩm hiu của kẻ tật nguyền.
Chuyện chỉ có thế. Nhưng cách kể chuyện của Kim Lân làm người nghe rùng
mình.
Nếu nó được viết ra thì Thằng Câm chắc chắn sẽ là một truyện ngắn tuyệt
vời. Kim Lân là phù thuỷ trong những chuyện đời được viết thành văn.
Kim Lân nói về nghề văn:
- Chữ nghĩa của ta thật hay. Nó có chữ “ngứa nghề”. Tôi đã hỏi các vị thần
sầu tiếng Tây thì các vị ấy bảo trong tiếng Tây cũng không có chữ ấy. Ngứa thì
phải gãi. Trong văn cũng vậy. có ngứa nghề mới viết được. Ngứa nghề là ngứa thế
nào? Là có một cái gì đó nhập vào ta, bắt ta phải chú ý đến nó, đòi ta phải suy
nghĩ về nó, phải kiếm cách cho nó được bộc lộ ra, ông ạ. Lúc ấy là phải gãi,
tức là phải viết nó ra. Không ngứa mà gãi là không thành.
Rồi chúng tôi xa nhau một thời gian dài.
Trong xà lim cấm cố tôi nhớ nhiều thứ tôi bỏ lại bên ngoài. Tôi nhớ về vùng
quê thời thơ ấu của tôi rồi tỉ mẩn ghi lại những gì tôi còn nhớ vào những mẩu
giấy mà người tù bị biệt giam còn có thể có – giấy gói kẹo, vỏ bao thuốc lá…
Những mẩu ghi chép ấy về sau này được mẹ và các em tôi giấu giếm mang được ra
ngoài, được chép lại, để rồi sau này, như nhờ một phép màu, được in thành sách.
Cuốn Miền Thơ Ấu rồi cũng đến tay Kim Lân.
Găp lại Kim Lân ở Sài Gòn, tôi nói với ông:
- Viết về nông thôn tôi sợ nhất ông. Nông thôn dưới ngòi bút của ông mới là
nông thôn đích thực.
Kim Lân ôm lấy tôi:
- Tôi xúc động đọc Miền Thơ Ấu của ông. Tôi là thằng nhà quê, viết chuyện
nhà quê, bằng văn nhà quê. Còn ông là dân tỉnh, viết chuyện nhà quê bằng văn
tỉnh. Khác nhau có thế thôi, ông ạ.
Đó là lần gặp gỡ cuối cùng của tôi với Kim Lân.
Ông ra đi, để lại trong tôi một trống vắng không thể lấp đầy.
Mời nghe Đặng Xuân Xuyến đọc bài thơ
QUÊ NGHÈO, thơ của Đặng Xuân Xuyến:
0 comments:
Đăng nhận xét