MỌI NGƯỜI HÃY ĐỀ PHÒNG KẺ ĂN CẮP VĂN TRẮNG TRỢN NÀY - Tác giả: Nguyễn Anh Tuấn (Hà Nội)

Leave a Comment

 

MỌI NGƯỜI HÃY ĐỀ PHÒNG

KẺ ĂN CẮP VĂN TRẮNG TRỢN NÀY

*

(Tác giả Nguyễn Anh Tuấn)

Lần Kỷ niệm 109 năm ngày sinh Nguyễn Hữu Đang (15/8/1913-15/8/2022), trang facebook Nguyễn Xuân Diện cho đang lại bài viết: NGUYỄN HỮU ĐANG - MỘT TẤN BI KỊCH LỚN của Lê Trọng Bình. Tôi không kìm nổi sự thất vọng, tức giận và phải viết cmt: “Trời ơi, bài này của ô Lê Thọ Bình ăn cắp mấy đoạn văn của tôi, nhiều lần tôi và bè bạn lên tiếng rồi, sao vẫn cứ duy trì vậy, thưa trang nhà có uy tín và đáng kính?!”

Vài năm trước, khi có bạn tôi là nhà thơ Vũ Đình Ninh kêu lên chuyện này và gửi bài báo tôi viết về ông Nguyễn Hữu Đang trên vài trang Web để so sánh với bài của ông Nguyễn Thọ Bình, nhà báo Dương Đức Quảng đã viết thư điện tử cho tôi:

Thân gửi Mai An Nguyễn Anh Tuấn

Mình đã đọc bài này và rất thông cảm với Tuấn. Mình không lạ về chuyện này bởi vì cách đây 22 năm, Lê Thọ Bình (với một bút danh khác) đã copy gần như nguyên cả một bài báo của mình được đăng gần hết cả trang 3 báo Nhân Dân lên báo Sài gòn giải phóng thứ bảy, nhan đề: "Cây thuốc phiện ở Mù Căng Chải", chỉ sửa cái tít và chi tiết "trò chuyện với chủ tịch xã" thành "trò chuyện với Bí thư Đảng ủy xã" thôi. Mình đã viết thư cho anh Vũ Tuất Việt lúc đó là Tổng Biên tập báo Sài Gòn Giải Phóng và báo Nhà báo và Công luận về việc này. Anh Vũ Tuất Việt có thư xin lỗi mình và hai báo đã đăng tin về việc này.

Thế đấy, thỉnh thoảng anh em mình bị bực mình vì những chuyện chẳng ra đâu cả!

Chúc Tuấn vui, khỏe.

Thân quý

Dương Đức Quảng”.

Tuấn cận tôi hôm nay xin gửi bạn Mạng Xã Hội bài viết của tôi bị ăn cắp nhiều đoạn, giúp mọi người cùng tưởng nhớ ông Nguyễn Hữu Đang, và có dịp so sánh, đồng thời đề phòng kẻ ăn cắp văn này:

 

Tác giả Lê Thọ Bình

NGUYỄN HỮU ĐANG -

MỘT TẤN BI KỊCH LỚN

Đang nắm giữ những chức vụ và đảm nhiệm những công việc rất quan trọng của chính quyền: Thứ trưởng Bộ Tuyên truyền, Thứ trưởng Bộ Thanh niên, được giao nhiệm vụ tổ chức ngày Lễ Độc lập (2-9), ông như con đại bàng đang bay cao. Nhưng rồi cái tư tưởng phóng khoáng, tự do của một chú đại bàng “hoang dã” muốn đưa đồng loại của mình tới khoảng trời bay nhảy tự do đã khiến ông rơi từ “trời cao” xuống vực thẳm, để lại cho nhân gian những câu chuyện thật đau lòng bằng một vụ án văn chương mà người ta gọi là “Nhân văn Giai phẩm”.

Vâng, ông là Nguyễn Hữu Đang, người được coi là “Lãnh tụ tinh thần” của “Nhân văn Giai phẩm”.

 

Hành trình bài bút ký

Lần đầu tiên tôi gặp Nguyễn Hữu Đang là mùa hè năm 1993, khi ông vừa lên Hà Nội cư trú sau gần 20 năm bị quản thúc tại Thái Bình, quê ông.

Hôm ấy tôi đang làm việc ở Văn phòng cơ quan thì một cụ già vận chiếc quần bộ đội bạc phếch, áo sơ mi cộc tay trắng đã ố vàng bỏ ngoài quần, đi dép cao su 3 quai, đầu đội chiếc mũ lá tuềnh toàng. Tôi đã nghĩ “Lại cụ nông dân đi kiện về đất đai” và chào ông. Ông cởi chiếc mũ lá. Đầu trọc lốc. Ông không chào, cũng chẳng đáp lời tôi, hỏi cộc lốc: “Các ông có biết tôi là ai không?”. Tôi lắc đầu. Ông nhăn mặt: “Tôi là Nguyễn Hữu Đang vừa ở tù 15 năm và quản thúc 20 năm đây!”. Tôi hết sức ngạc nhiên. Không, phải nói là sửng sốt thì đúng hơn. Nguyễn Hữu Đang, Lãnh tụ tinh thần của “Nhân văn Giai phẩm” đây sao!

Thú thực, ban đầu tôi không thực sự ấn tượng vì cách nói chuyện theo kiểu không đầu không cuối của ông. Đầu hơi cúi gằm. Thỉnh thoảng lại lấm lét ngước mắt lên nhìn người nghe. Tuy nhiên, ông lại có chất giọng hào sảng, âm thanh rất vang. Cuối buổi trò chuyện ông rút trong chiếc bị cói ra tập bản thảo bút ký 15 trang giấy viết tay kể về “Tổ chức Ngày Lễ Độc lập năm 1945”. Nét chữ của ông nắn nót, tròn, đều tăm tắp. Tôi cảm ơn ông và hứa sẽ tìm cách đăng cho ông.

Tôi đã kỳ công biên tập ngắn gọn lại thành một bài viết 1.500 chữ và gửi cho báo Tuổi trẻ Chủ nhật (nay là Tuổi trẻ cuối tuần) để đăng nhân dịp Quốc khánh, 2-9. Tuổi trẻ trả lời không đăng được. Tôi đã gửi đi tới cả chục báo, tạp chí như Đại đoàn kết, Lao động, Phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh, tạp chí Thế giới mới, Kiến thức ngày nay… nhưng tiếc rằng không báo nào “dám đăng”.

Đó là điều mà tôi đã tiên liệu trước: Ai dám đăng bài viết mà tác giả của nó là “Lãnh tụ tinh thần” của Nhóm “Nhân văn Giai phẩm”. Tuy nghĩ là vậy, nhưng tôi vẫn hy vọng vào lòng quả cảm của một Tổng biên tập nào đó, vì thực ra ngay từ năm 1989 ông đã được "phục hồi", năm 1990 đã được trả lương hưu và năm 1993 đã được về sống tại Thủ đô.

Tôi như người “mắc nợ” với ông, mặc dù khi đưa tập bản thảo cho tôi ông đã bảo: “May ra có Tuổi trẻ dám đăng”. Sau đấy năm nào cũng vậy, cứ đến dịp Quốc khánh tôi lại gửi đến một vài báo khác nhau. Và vẫn câu trả lời: “Không đăng được”. Tôi luôn nặng trĩu trong lòng và vì “món nợ” ấy mà đã nhiều năm liền không dám tìm gặp ông.

6 năm sau, năm 1999, tôi về làm việc tại Báo Nông thôn ngày nay. Vì là người được chị Mai Nhung, Tổng biên tập giao nhiệm vụ Tòa soạn, biên tập, duyệt đăng bài, nên tôi đã bê nguyên xi bản thảo ông Đang viết đăng 4 kỳ ở chân trang. Sau khi báo phát hành nhận được rất nhiều lời khen ngợi. Thậm chí ông Vũ Duy Thông, lúc ấy là Vụ trưởng báo chí Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (nay là Ban Tuyên giáo Trung ương) biểu dương. Thì ra lâu nay toàn sợ bóng sợ gió cả.

Phần vì bận nhiều công việc, phần không tìm được ra nhà ông Nguyễn Hữu Đang, nên tôi đã không chuyển nhuận bút bài báo cho ông được. Mãi tới năm 2004 tôi mới tìm ra được căn hộ ông ở tít mãi tận Nghĩa Đô (quận Cầu Giấy, Hà Nội) lúc ấy còn rất hoang vắng. Như vậy là sau 6 năm, kể từ khi ông đưa cho tôi, bài Bút ký mới được đăng và sau 5 năm nữa món nhuận bút mới được chuyển đến tay ông.

 

Ở căn hộ khu tập thể Nghĩa Đô

Sau nhiều lần tìm kiếm rồi cuối cùng chúng tôi cũng tìm ra nơi ông ở. Tôi và nhà báo Lương Thị Bích Ngọc chui qua cầu thang ẩm ướt, tối mò, lên tầng 2 dãy nhà Tập thể Bột mì (Nghĩa Đô) gõ cửa nhà ông. Chừng 5 phút sau ông Đang ra mở cửa. Căn phòng nhỏ, bộn bề, đặc mùi ẩm mốc. Ông đã bước sang tuổi 90, cơm nước phải nhờ đến một người cháu tới giúp, song những hoạt động trí tuệ thì ai có thể thay thế được cho con người vốn có tinh thần độc lập từ xưa – kể từ khi ông bị thực dân Pháp bắt tra tấn và suýt đưa ra tòa lúc còn là vị thành niên?

Ngồi ở chiếc bàn nhỏ vừa để ăn vừa để đọc sách của ông, nhìn quanh trên tường và trên bàn có nhiều tấm ảnh chân dung chắc chắn là rất thân thiết với ông; và đập ngay vào mắt chúng tôi là tấm ảnh lịch sử: Lễ đài Ba Đình 2-9-1945 được cho vào khung ảnh cẩn thận kê ngay ngắn trên một chiếc vỏ hộp bánh quy. Chiếc bàn kê sát giá sách để chiếc điện thoại bàn lấm bụi, chiếc kính lúp, cái đèn pin, mấy cục pin con thỏ để lăn lóc.

Cuộc đời có thể tước đoạt của ông nhiều thứ song không thể tước đi quyền tự hào là người đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh trao cho trọng trách tổ chức ngày lễ Độc lập ở Ba Đình, và tới năm 1947, ông vẫn còn được coi là nhân vật quan trọng nhất nhì bên cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Mái đầu húi cua bạc cháy tựa nương cằn miền núi sau trận cháy rừng giờ không còn ngẩng cao kiêu hãnh mà hơi cúi gằm bởi năm tháng, nhưng cái vóc dáng cồng kềnh và chắc chắn của ông vẫn cho thấy một nghị lực sống được nén lại, và đôi lúc ánh mắt ông vô tình vẫn lóe lên những luồng ánh sáng trí tuệ.

Nhìn ông, ai có thể tin rằng: Sau mười lăm năm tù đày, ở tuổi 63, ông đã từng phải sống nhờ vào côn trùng và cóc - nhái - chuột - rắn trong suốt hơn mười lăm năm vất vưởng bên lề xã hội ở một làng quê Thái Bình… Trải qua quá nhiều nỗi đớn đau thử thách, và ở giai đoạn cuối cuộc đời vẫn phải lo tránh cạm bẫy, ông phải tự giữ gìn và giữ cho cả người đang đối thoại với mình mà bằng trực giác ông biết là lòng lành, song dường như ông vẫn không bị mất đi sự sắc sảo pha chút hóm hỉnh.

Thấy mấy cuốn sách, vài ba tờ báo vứt lỏng chỏng trên bàn, trên giường, tôi hỏi ông: “Lâu nay bác vẫn nhận được sách báo đều chứ ạ?”. Ông không nói gì, chậm chạp, run rẩy đứng dậy khỏi giường, chậm rãi bước tới cái giá sách nhỏ ở góc nhà lục tìm cái gì đó. Nhìn dáng ông đi liêu xiêu, mảng lưng hở qua chiếc áo bở tã đến thê thảm. Ông lúi húi bên giá sách cạnh tấm ảnh đen trắng Dostoievski chợt nhòe đi. Bên dưới tấm ảnh văn hào Nga được nhiều thế hệ độc giả Việt yêu quý là chiếc tủ lạnh cũ. Bất giác tôi đứng lên, bước tới chiếc tủ lạnh, tự động mở ra: cả hai ngăn trên và dưới đều trống rỗng! Ông Đang không hề để ý tới việc khách mở tủ lạnh và quan sát đồ dùng sinh hoạt trong phòng ông. Ông rời giá sách trên tay cầm theo cuốn sách dày cộp. Ông giở bìa cuốn từ điển Bách khoa Petit Larousse in năm 2.000 ra, chỉ tay vào trang đầu tiên có chữ nắn nót của ông: “Mất từ tr. 865 đến tr. 968″. Rồi ông vội vã mở cuốn sách ra để chứng minh điều mình đã thông báo. Tôi hỏi ông: “100 trang sách đã bị xé. Ai đã xé những trang này hở bác?”. Ông thở dài: “Còn ai vào đây nữa!”. Ông nói nhỏ dường như chỉ để cho mình ông nghe: Những người có trách nhiệm kiểm soát trước khi chuyển nó đến cho tôi. Còn những mục gì ư? Chỉ là những thứ mà theo người ta, sẽ đầu độc một lão già vô hại là tôi!”.

Câu cuối ông nói ra vừa có gì giễu cợt lại vừa đượm nước mắt. Một công trình văn hóa hoàn hảo, một trong những biểu tượng của trí tuệ nhân loại bị phá hoại bởi những người quen thói bao cấp tư tưởng, quen hăng hái săn sóc tâm hồn và tri thức cho người khác – kể cả với những người đương nhiên là bậc thầy về văn hóa của họ! Thực là một tấn bi hài kịch không đáng có, vậy mà đã nó diễn ra thường xuyên như thứ một tập quán ghê sợ!

 

Nguyễn Hữu Đang: ông là ai?

Nguyễn Hữu Đang sinh ngày 15/8/1913 tại làng Trà Vy, huyện Vũ Tiên, tỉnh Thái Bình. Theo bản "Tóm tắt quá trình hoạt động xã hội của Nguyễn Hữu Đang" do chính tay ông viết thì năm mười sáu tuổi, ông tham gia Học sinh hội (tổ chức thuộc Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội, rồi Đông dương Cộng sản đảng), làm tổ trưởng Hội này. Ngay từ năm 1929 Nguyễn Hữu Đang đã là đối tượng được kết nạp vào đảng. Cuối năm 1930, ông bị bắt, bị tra tấn và bị giam 2 tháng rưỡi tại nhà lao thị xã Thái Bình. Mùa hè năm 1931, bị đưa ra toà, nhưng vì tuổi vị thành niên (trên giấy tờ, ông rút tuổi, khai sinh năm 1916), cho nên chỉ bị quản thúc tại quê nhà. Từ 1932 đến 1936, Nguyễn Hữu Đang theo học Trường Sư phạm Hà Nội.

Năm 1937-1939 ông tham gia Mặt trận dân chủ Đông Dương. Biên tập các báo của Mặt trận như Thời báo (cùng Trần Huy Liệu, Nguyễn Đức Kính), Ngày mới (cùng Nguyễn Đức Chính, Nguyễn Đức Kính) và các báo của Đảng Cộng sản như Tin tức (cùng Trần Huy Liệu, Phan Bôi), Đời nay (cùng Đặng Xuân Khu tức Trường Chinh, Trần Huy Liệu).

Từ 1938 đến 1945, Nguyễn Hữu Đang hoạt động trong Hội Truyền bá Quốc ngữ, ở các vị trí: Uỷ viên Ban trị sự Trung ương, Huấn luyện viên Trung ương, Trưởng ban Dạy học, Trưởng Ban Cổ động, Phó trưởng Ban Liên lạc các chi nhánh tỉnh.

Năm 1943 Nguyễn Hữu Đang gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương, bắt đầu liên lạc mật thiết với Tổng bí thư Trường Chinh và Thành ủy Hà Nội, nhưng vẫn chưa được chính thức kết nạp vào Đảng.

Năm 1943-46 ông tham gia sáng lập và lãnh đạo Hội Văn hoá Cứu quốc, tiếp tục hoạt động chống nạn mù chữ. Mùa thu năm 1944 bị Pháp bắt ở Hà Nội và bị giam một tháng tại Nam Định. Được ra, lại tiếp tục hoạt động cách mạng.

Tháng 8-1945 ông tham dự Đại hội Tân Trào, được bầu vào Ủy ban Giải phóng dân tộc. Tham gia Chính phủ lâm thời mở rộng, được bổ nhiệm làm Thứ trưởng Bộ Truyên truyền. Đồng thời cũng trong năm đó ông được Hồ Chí Minh cử làm Trưởng ban Tổ chức Ngày lễ tuyên bố độc lập 2-9-1945.

Từ tháng 10-1945 đến tháng 12-1946 ông giữ các chức vụ Thứ trưởng Bộ Thanh niên, Chủ tịch Ủy ban vận động Mặt trận văn hoá. Tổ chức Hội nghị Văn hoá toàn quốc lần thứ nhất tại Hà Nội.

Từ tháng 12-1946 đến tháng 3-1948 ông làm Trưởng Ban Tuyên truyền xung phong trung ương.

Năm 1947, ông chính thức được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương.

Từ tháng 4-1948, đến tháng 4-49, ông phụ trách báo Toàn dân kháng chiến, cơ quan trung ương của Mặt Trận Liên Việt.

Từ tháng 7-1949 đến tháng 10-1954 Nguyễn Hữu Đang làm Trưởng ban Thanh tra Nha Bình dân học vụ. Từ tháng 11-1954 đến tháng 4-1958 ông tổ chức và biên tập báo Văn Nghệ. Cuối năm 1956 đầu năm 1957 Nguyễn Hữu Đang tổ chức, lãnh đạo và biên tập báo Nhân văn, giúp đỡ tập san Giai phẩm.

 

Phong trào “Nhân văn Giai phẩm”

Nguyễn Hữu Đang chính thức tham gia hoạt động phong trào Nhân văn Giai phẩm từ tháng 9-1956, với sự ra đời của báo Nhân văn số 1 (20-9-1956). Báo Nhân văn ra được 5 số và đến số thứ 6 chưa kịp phát hành đã bị đình bản (tháng 12-1956).

Trong thời gian tổ chức và tham gia phong trào “Nhân văn Giai phẩm”, Nguyễn Hữu Đang tổ chức lớp học tập dân chủ 18 ngày (từ ngày 8-8 đến 26-8-1956) và trong ngày cuối cùng, ông đã đọc một bài tham luận "nảy lửa" chỉ trích những sai lầm trong công tác lãnh đạo văn nghệ. Trương Tửu đánh giá bài tham luận của Nguyễn Hữu Đang là "sự việc thực là cụ thể, lời lẽ thực là tha thiết". Hoàng Cầm cho rằng tinh thần nêu những thắc mắc, có từ kháng chiến, tích tụ lại và bùng nổ lên trong lớp học này.

Nhà văn Lê Đạt sau này kể lại: "Trong cuộc học tập này, anh em phê phán văn nghệ rất nhiều, trong đó nổi bật lên vai trò của anh Nguyễn Hữu Ðang. Lúc đó Ðang có nói một câu với Nguyễn Ðình Thi (Nguyễn Ðình Thi lúc ấy là một trong những người chịu trách nhiệm tờ Văn nghệ - Việt Nam) rằng: "Thế nào tao cũng ra một tờ báo, tờ báo chưa biết tên là gì, tao thì không làm được nhưng để cho bọn Giai phẩm Mùa xuân nó làm".

Còn Nguyễn Huy Tưởng ghi lại không khí lớp học 18 ngày, trong nhật ký của mình như sau: "Nguyễn Hữu Đang nổi lên. Tiếc rằng kéo anh ta về văn nghệ để làm rầy rà mình. Chính người chửi mình nhất là Nguyễn Hữu Đang". Những bực mình và dằn vặt của Nguyễn Huy Tưởng, càng làm rõ tấm lòng và nhân cách của ông: Mặc dù không đồng ý với Nguyễn Hữu Đang, bị Đang chỉ trích nặng nề, nhưng sau này, ông là người duy nhất trong Ban lãnh đạo văn nghệ đã đứng ra bênh vực Nhân văn, như Lê Đạt từng thuật lại và ông cũng ghi trong nhật ký: “đã phản ảnh lên Trường Chinh về vụ Nhân văn, nhưng vô hiệu”.

Về phía buộc tội, Nguyễn Hữu Đang được coi là lãnh tụ, "đầu sỏ". Mạnh Phú Tư viết: “Người ta không thấy tên tuổi Nguyễn Hữu Đang trên những số đầu báo Nhân văn, nhưng chính hắn là linh hồn của tờ báo. Thông qua tờ báo Nhân văn, hắn đã trở thành một thứ lãnh tụ của một bọn người cơ hội, có âm mưu chính trị... ".

Thực vậy, là người làm chính trị, Nguyễn Hữu Đang, với tài tổ chức và hùng biện trong lớp học 18 ngày, ông đã chiếm được lòng tin của giới trí thức và văn nghệ sĩ cấp tiến. Ông nắm lấy cơ hội, đứng ra tổ chức “Nhân văn Giai phẩm” với những người bạn cùng chí hướng từ trong kháng chiến như Trương Tửu, Trần Thiếu Bảo, Lê Đạt, Hoàng Cầm… chủ trương tạp chí “Giai phẩm mùa xuân”.

Tuy không có nhiều bài ký tên thật, nhưng dấu ấn của Nguyễn Hữu Đang trên báo Nhân văn là hết sức đậm nét bằng hàng loạt bài phỏng vấn các tên tuổi lớn như Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo, Đặng Văn Ngữ về vấn đề dân chủ.

Sau này Nguyễn Hữu Đang nói: “Thực chất phong trào “Nhân văn Giai phẩm”, nếu đứng về mặt chính trị, thì đó là một cuộc đấu tranh của một số người trí thức, văn nghệ sĩ và một số đảng viên về chính trị nữa, là chống, không phải chống đảng cộng sản, mà là chống chủ nghĩa Staline và chủ nghĩa Mao. Sự thâm nhập của chủ nghĩa Statline và chủ nghĩa Mao đưa đến nhiều hiện tượng cực quyền toàn trị. Nó gay gắt ghê lắm! Chúng ta đã phạm sai lầm trong Cải cách ruộng đất, rồi thì Chỉnh huấn, Chấn chỉnh tổ chức, Ðăng ký hộ khẩu, v.v. Tất cả những chính sách quá tả đó là đều từ phương Bắc xâm nhập vào Việt Nam”.

Tháng 4-1958 Nguyễn Hữu Đang bị bắt. Ngày 19-1-1960, ông bị đưa ra toà cùng với Thụy An, Trần Thiếu Bảo, Phan Tại, và Lê Nguyên Chí.

Sau này Nguyễn Hữu Đang nhớ lại: “Ở trước tòa án thì tôi nhận mấy điểm như thế này: (1). Tôi có phạm kỷ luật của Ðảng và của nhà nước về phương diện tuyên truyền. (2). Trong việc làm của tôi, cũng có những vụ sai sót. Anh em cũng như tôi thôi, thế nhưng tôi gánh trách nhiệm nặng hơn. (3). Ðộng cơ thì nhất định là tốt: Chúng tôi chỉ vì dân, vì nước mà tin rằng việc mình làm có ích nước lợi dân cho nên làm thôi”.

Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội đã tuyên: Nguyễn Hữu Đang và Thụy An: 15 năm phạt giam và 5 năm mất quyền công dân sau khi ra tù; Minh Đức: 10 năm phạt giam và 5 năm mất quyền công dân; Phan Tại: 6 năm phạt giam và 3 năm mất quyền công dân; Lê Nguyên Chí: 5 năm phạt giam và 3 năm mất quyền công dân.

Sau này có lần Nguyễn Hữu Đang nói: “Ra tòa tôi nhận hết, chứ tôi không bào chữa, không cãi cọ gì nhiều cả. Thậm chí là sau khi bị kết án 15 năm tù tôi cũng không có ký chống án gì cả. Từ bấy giờ đến nay tôi cũng không viết một cái đơn nào để thanh minh, phân trần, xin xỏ, khoan hồng hay là nọ kia. Không! Cái việc đó không!”.

 

Có thật là Nguyễn Hữu Đang tìm cách trốn vào Nam?

Thông tin thời bấy giờ và cả sau này nữa đều cho rằng Nguyễn Hữu Đang bị bắt khi ông đang trên đường trốn vào Nam. Tuy nhiên sự thật có phải như vậy không? Chúng ta hãy nghe chính Nguyễn Hữu Đang sau này kể lại: “Tôi muốn ra nước ngoài, chứ không phải vào Nam, nhưng tôi đã đặt điều kiện: Nếu các anh giúp tôi đi ra một nước khác, tôi chấp nhận, nhưng vào Nam thì tôi từ chối, vì như thế hàm chứa cái ý phản bội, chạy sang phe địch, phe thù. Đó là một sự nhục nhã. Vào Nam? – Để làm gì chứ? Vào Nam làm gì với Ngô Đình Diệm? Nhưng tôi thực sự muốn ra nước ngoài – tôi đã nói thẳng với Trường Chinh trong một cuộc gặp giữa ông ấy và tôi. Câu hỏi thứ nhất mà Trường Chinh vừa cười vừa đặt ra cho tôi là: “Hả, sao kia, anh đã tuyên bố với các đồng chí rằng anh muốn ra nước ngoài, vì không khí trong nước nghẹt thở quá. Vậy là anh muốn ra nước ngoài, nhưng đến một nước trong phe xã hội chủ nghĩa hay phe đế quốc, anh nói tôi nghe”. Ông ta cười. Lúc đó tôi vừa cười vừa trả lời: “Tôi rất muốn ra nước ngoài, một nước trong phe xã hội chủ nghĩa nếu điều kiện cho phép. Nhưng nếu vì những khó khăn buộc tôi phải đến một nước theo chế độ tư bản, tôi có thể chấp nhận. Bằng chứng là Hồ Chí Minh đã cư trú ở Pháp, và ông đã giữ được lòng yêu nước và tinh thần cách mạng, và tôi có thể làm như ông ấy. Tôi nghĩ rằng tôi có thể làm như Nguyễn Ái Quốc. Nguyễn Ái Quốc là một nhà cách mạng, tôi cũng là nhà cách mạng. Nguyễn Ái Quốc là một người cộng sản, tôi cũng là cộng sản. Nguyễn Ái Quốc có lòng dũng cảm, tôi cũng có lòng dũng cảm. Tôi không sợ cư trú dài hay ngắn hơn trong một nước tư bản”. Thế là người ta đã sửa soạn… Người bạn đã khuyên tôi nên ra nước ngoài đã nhận lời giúp tôi đến được một nước khác. Anh ấy đã hứa, nhưng chuyến đi đã không được thực hiện. Vậy là tôi lỡ một dịp đi đến một nước khác. Nhưng để tô vẽ bản cáo trạng, người ta đã đưa vào câu tôi muốn vào Nam. Khi đó tôi trả lời toà án: “Không, tôi không muốn vào Nam; tôi muốn đi ra nước ngoài”. Và người ta hỏi tôi: “Nhưng ở nước ngoài anh sẽ làm gì?” – “Đấu tranh cho thống nhất, thống nhất hai miền; ở nước ngoài tôi sẽ tiếp tục đấu tranh thực hiện thống nhất đất nước, thống nhất hai miền Bắc Nam”. Nghe lời tuyên bố ấy, cử toạ… – phiên tòa bao gồm những người ủng hộ Chính phủ, quần chúng của Đảng, đảng viên, những cán bộ của nhiều tổ chức và hoạt động khác nhau đều phản nhân văn – họ phá lên cười nhạo cái ý định đấu tranh cho thống nhất đất nước của tôi. Trong chuyến đi rời đất nước ra nước ngoài, tôi muốn thăm Ấn Độ và Nam Tư của Tito, tôi tin ở Nehru và Tito. Tôi rất muốn gặp họ và xin họ lời khuyên để đấu tranh cho nước Việt Nam bị chia cắt, để Việt Nam được thống nhất và độc lập. Tôi muốn gặp Tito và Nehru…”.

Sau này, khi ra tù, Nguyễn Hữu Đang cho biết: “Khi Hiệp nghị Paris trả lại tự do cho tôi, tôi đã viết thư cho gia đình – người ta cho phép tôi viết thư cho gia đình để báo tin tôi được trả tự do. Lúc ấy cả gia đình tôi kinh ngạc, cả gia đình tôi hoàn toàn sửng sốt: “Ôi, kìa, anh Đang còn sống, thế mà chúng ta cứ tưởng anh đã chết lâu rồi”.

 

Mối tình bi thương

Sẽ là không vẹn toàn nếu nói về cuộc đời đầy bi kịch của Nguyễn Hữu Đang mà không nhắc tới mối tình đầy lãng mạn, nhưng cũng không kém phần bi thương của ông.

Ngày Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyễn Hữu Đang 32 tuổi. Ở cái tuổi “tam thập nhi lập”, lẽ thường đã phải yên bề gia thất, nhưng ông vẫn độc thân sau những năm tháng mải mê với những công việc xã hội.

Trong đống bản thảo mà Nguyễn Hữu Đang để lại có một bản mà giấy đã ngả màu vàng, gần như đã bắt đầu mục nát, không hiểu ông viết vào thời gian nào, ông đã kể lại mối tình đầu với một thiếu nữ Hà Nội tên là Huyền Nhiên: “Năm ấy mới 19 tuổi là con một gia đình thương nghiệp trung lưu sống theo nền nếp cổ truyền, chưa học hết bậc thành chung, phong cách thùy mị... không thích đua đòi”.

Ông viết: “Đối với tôi lúc ấy, sắc đẹp là tất cả, biết bấy nhiêu về Nhiên đã là thừa. Không cần biết gì về Nhiên mới đúng. Có ai lại ngớ ngẩn chỉ chú ý đến tài năng, đạo đức, học vấn, gia sản, lý lịch Hằng Nga, Tiên nữ bao giờ?... Theo lòng mình, tôi kính trọng Huyền Nhiên tới mức yêu nhau nửa năm trời tôi chưa từng dám chạm vào thân thể Huyền Nhiên, dù chỉ cầm tay cũng đã coi là xúc phạm, còn nói chi đến ôm hôn”... Hồi ức còn viết rất nhiều, bằng những lời lẽ mà chỉ đọc vẫn nhận ra tình cảm rất nồng nàn của người viết sau nửa thế kỷ đầy những truân chuyên.

Cuối cùng, vị Thứ trưởng Bộ Thanh niên cũng quyết định phải thổ lộ với người mình yêu bằng việc tặng cho Huyền Nhiên tiên nữ một chiếc vòng tay bằng bạc như một giao ước kết hôn. Nàng đã đặt chiếc vòng cầu hôn vào hộp, nói những lời cam kết là sẽ yêu chàng suốt đời, sẽ đến lúc thành hôn, sẽ chung sống với nhau trọn đời... Người đẹp chỉ có một yêu cầu: “Em chỉ ước ao được đến gặp cụ Hồ, được đứng gần cụ. Mà anh thì đến chỗ cụ luôn, anh cho em đến chỗ cụ Hồ một lần, chỉ một lần thôi”.

Tuy công việc khiến vị Thứ trưởng Thanh niên có cơ hội gặp Cụ Hồ, nhưng ông cũng e ngại vì không muốn lẫn lộn việc công tư. Nhưng tình yêu đã giúp ông thực hiện được một cách mỹ mãn ý nguyện của người mình yêu.

Có một nhà tư sản yêu nước ở tỉnh Bắc Giang tên là Ngô Tiến Cảnh mà ông từng quen biết trong thời kỳ tham gia chống thất học, lúc bấy giờ đang làm Chủ tịch cuộc vận động “Mùa đông binh sĩ”. Cuộc vận động này từng được cụ Hồ phát động nhằm cung cấp trang phục cho lực lượng vũ trang cách mạng mới thành lập còn nhiều thiếu thốn. Cuộc vận động đã làm được một vạn chiếc áo trấn thủ. Ông Cảnh muốn được gặp cụ Hồ để báo cáo tình hình và trao tặng tượng trưng tấm áo cho Người.

Nhà tư sản nhờ ông Nguyễn Hữu Đang đề đạt và cụ Hồ tỏ lòng sẵn sàng tiếp một đoàn đại biểu “Mùa đông binh sĩ”. Ông Đang bàn với ông Cảnh những nghi thức của buổi tiếp, để thêm phần trang trọng khi tặng áo cho Hồ Chủ tịch sẽ có một thiếu nữ bưng một cái khay trên đó đặt tấm áo được trao. Ông Đang hứa sẽ tìm người giúp ông Cảnh làm công việc này và đương nhiên người đó chính là cô thiếu nữ Hà thành đang mong ước được gặp cụ Hồ. Nhất cử lưỡng tiện.

Cuộc gặp được Nguyễn Hữu Đang kể lại trong bản thảo hồi ký của mình như sau: “Tới ngày giờ hẹn, tôi dùng xe hơi đưa Nhiên đến trụ sở “Mùa đông binh sĩ” rồi đến Bắc Bộ phủ. Cụ Hồ ra phòng khách lớn tiếp đoàn đại biểu trong đó có cả Huyền Nhiên đứng cạnh ông Cảnh, tay bưng sẵn chiếc khay trên đó có một chiếc áo trấn thủ. Ông Cảnh nói đến câu “Xin kính biếu Chủ tịch tấm áo trấn thủ đầu tiên may được” thì Nhiên bước nhanh đến sát cụ Hồ, khay nâng ngang mặt cung kính. Cụ cầm áo xem xét kỹ, khen “Tốt lắm!”, rồi đưa cho Vũ Đình Huỳnh giữ. Cụ nói chuyện với đoàn đại biểu có vẻ tự nhiên, cởi mở. Rồi như thường lệ, cụ không quên cử chỉ quan tâm đến người con gái vừa dâng áo, hãy còn cầm khay đứng đó. Cụ đặt bàn tay lên đầu Nhiên vỗ vỗ nhẹ mái tóc, nói dịu dàng: “Cháu mang đến cho Bác áo chống rét, quà quý của Ủy ban Mùa đông binh sĩ, Bác cảm ơn cháu. Cháu sẽ rủ các bạn của cháu cùng với cháu giúp các chiến sĩ bộ đội nhiều hơn giúp Bác, đem lại cho họ những món quà tỏ tình thương yêu của đồng bào. Cháu làm được không?”. Tất cả mọi người có mặt đều đổ dồn sự chú ý vào Nhiên và chờ cô đáp lại. Phần vì cảm động quá, phần vì chẳng biết trả lời thế nào, Nhiên e lệ cúi mặt nói yếu ớt tiếng run run như sắp khóc “Vâng”. Cụ cười độ lượng, khuyên nhủ ngọt ngào: “Phụ nữ thời cách mạng phải mạnh bạo. Có mạnh bạo mới đấu tranh được”...

Ít lâu sau, chiến tranh bùng nổ. Người thiếu nữ đã đính hôn của Nguyễn Hữu Đang phải theo gia đình tản cư khỏi Hà Nội. Năm 1948, quân Pháp đánh rộng ra các tỉnh xung quanh, càn quét liên miên hai bên các trục đường giao thông lớn. Gia đình Nhiên không chịu nổi gian khổ phải trở về Hà Nội. Không thể một mình ở lại vùng tự do, Nhiên đành theo gia đình. Từ đấy tôi không còn dịp nào gặp lại Nhiên”...

Chiến tranh, rồi cuộc kháng chiến 9 năm, khiến cuộc hôn nhân không thành và hai người sống cách xa nhau, nhưng lời hẹn ước thì không ai đơn sai. Ngày kháng chiến thành công trở về với thủ đô giải phóng, cuộc sống bề bộn cùng những bi kịch của đời ông, nên tiếc rằng mối tình duy nhất của ông đã trở thành dang dở.

Sau này Nguyễn Hữu Đang không kể thêm về cuộc đời tiếp theo của người bạn gái nhưng cho đến cuối đời, mối tình ấy vẫn là một ký ức đẹp nhất của cuộc đời ông.

Năm 2007 ông qua đời ở tuổi 93, mang xuống tuyền đài tất cả những vinh quang, cay đắng, hạnh phúc và khổ đau.

*

Trường Sa. Tháng 4 năm 2014

LÊ TRỌNG BÌNH

(https://vanhaiphong.com/nguyn-hu-ang-mt-bi-kch-ln-le-th-binh/)

Chú thích: Những đoạn văn chữ màu đỏ là nhà báo Lê Trọng Bình “sao y bản chính” của nhà văn, đạo diễn Nguyễn Anh Tuấn)

 

Tác giả Nguyễn Anh Tuấn

CUỐN TIỂU TỰ ĐIỂN LAROUSSE

CỦA ÔNG NGUYỄN HỮU ĐANG

Lục lọi tủ băng tư liệu cá nhân cũ để tìm hình ảnh cho một phim tài liệu sắp thực hiện, tôi chợt tìm thấy cuốn băng DVC đề ngoài: "Nguyễn Hữu Đang- 2004". Gần 10 năm qua, kể từ khi quay xong tư liệu đó, lần đầu tiên bây giờ tôi mới bật lên xem lại. Và những cảm xúc nghẹn ngào vẫn còn nguyên vẹn như buổi tối ấy...

Qua một người bạn chung biết được địa chỉ của ông Nguyễn Hữu Đang và được ông cho phép, tôi cùng nhà nghiên cứu sân khấu Nguyễn Văn Thành đến thăm ông tại một khu tập thể cũ ở Nghĩa Đô - huyện Từ Liêm (nay là quận Cầu Giấy, Hà Nội). Đó cũng là thời gian tôi bắt đầu thực hiện cái công việc đã ấp ủ từ lâu - tức là đi tìm những nhà văn, nhà văn hóa nổi tiếng và đã cao tuổi để ghi lại tư liệu hình ảnh, ghi xong rồi cứ dành để đó, đợi khi có điều kiện sẽ làm phim chân dung... Thoạt tiên, ông Đang thấy đồ lề quay phim cồng kềnh đi theo các vị khách thì có vẻ hơi khó chịu, và đề phòng. Chúng tôi đều biết rõ điều này: sau thời kỳ quản thúc ở Thái Bình, được về sống tại ngoại ô Hà Nội, ông bị kiểm soát như các thành viên cựu Nhân Văn, nhưng riêng ông thì không được phục hồi quyền phát biểu tự do như một công dân, không được quyền trả lời phỏng vấn công khai như những người khác. Điện thoại của ông thường chỉ nói được vài câu là đã lại u u u u... Ông giơ chiếc máy nghe sờn tróc vỏ lên để cho chúng tôi biết ông bị nặng tai, và cầm cây bút ra hiệu là sẽ bút đàm. Trước khi đến với ông, qua một số tài liệu và được nghe kể lại không ít chuyện về ông, chúng tôi đã hằng ngưỡng mộ, kính phục và biết ơn ông- một nhà cách mạng chân chính có tinh thần độc lập, một người làm chính trị biết tôn trọng văn hoá như một sản phẩm tinh thần đặc biệt và đòi hỏi phải có không gian tự do để nó được phát triển...

Khi chúng tôi đến, bên cạnh những bát đĩa bẩn của bữa ăn trước lẫn với cà-mèn đựng xôi của bữa tối chưa ăn hết là mấy cuốn sách để trên bàn, chắc là ông đang đọc dở, như: "Retour de l' U.R.S.S"(Trở về từ Liên Xô- A.Gide), "Histoire de la bombe atomique" (Lịch sử bom nguyên tử- nhiều tác giả), v.v. Ông đã bước sang tuổi 90, cơm nước phải nhờ đến một người cháu tới giúp, song những hoạt động trí tuệ thì ai có thể thay thế được cho con người vốn có tinh thần độc lập từ xưa - kể từ khi ông bị thực dân Pháp bắt tra tấn và suýt đưa ra tòa lúc còn là vị thành niên?

Ngồi ở chiếc bàn vừa để ăn vừa để đọc sách của ông, nhìn quanh trên tường và trên bàn có nhiều tấm ảnh chân dung chắc chắn là rất thân thiết với ông; và đập ngay vào mắt là tấm ảnh lịch sử: Lễ đài Ba Đình 2-9-1945 được cho vào khung ảnh cẩn thận kê ngay ngắn trên một chiếc vỏ hộp bánh. Cuộc đời có thể tước đoạt của ông nhiều thứ song không thể tước đi quyền tự hào là người đã được chủ tịch Hồ Chí Minh trao cho trọng trách tổ chức ngày lễ Độc Lập ở Ba Đình, và tới năm 1947, ông vẫn còn được coi là nhân vật quan trọng nhất nhì bên cạnh chủ tịch Hồ Chí Minh... Đứng trước ông - một trong những anh hùng lỗi lạc của văn hóa - Giáo dục Việt Nam thời hiện đại, con người đã dám làm dám nói tất cả những gì mà ông từng suy ngẫm và cho là đúng, chúng tôi thấy mình thật bé nhỏ! Song tài bút chiến tựa huyền thoại của ông vốn dành cho một nền văn hóa đúng nghĩa, cho một xã hội pháp trị - xã hội công dân, giờ đây chỉ để dùng để bút đàm một cách vui vẻ với những kẻ vô danh tiểu tốt như chúng tôi!

Mái đầu húi cua bạc cháy tựa nương cằn miền núi sau trận cháy rừng giờ không còn ngẩng cao kiêu hãnh mà hơi cúi gằm bởi năm tháng, nhưng cái vóc dáng cồng kềnh và chắc chắn của ông vẫn cho thấy một nghị lực sống được nén lại, và đôi lúc ánh mắt ông vô tình vẫn lóe lên những luồng ánh sáng trí tuệ khiến chúng tôi như bị thôi miên. Nhìn ông, ai có thể tin rằng: sau mười lăm năm tù đầy, ở tuổi 63, ông đã từng phải sống nhờ vào côn trùng và cóc - nhái- chuột- rắn trong suốt hơn mười lăm năm vất vưởng bên lề xã hội ở một làng quê Thái Bình... Trải qua quá nhiều nỗi đớn đau thử thách, và ở giai đoạn cuối cuộc đời vẫn phải lo tránh cạm bẫy, ông phải tự giữ gìn và giữ cho cả người đang đối thoại với mình mà bằng trực giác ông biết là lòng lành, song dường như ông vẫn không bị mất đi sự sắc sảo pha chút hóm hỉnh... Khi chúng tôi viết hỏi ông: "Bác hiện đang sống thế nào, thu nhập có đủ sống không?" Ông viết trả lời: "Chưa kể trợ cấp được lĩnh của BAN QUẢN TRỊ TW ĐẢNG mỗi tháng 600.000đ thì riêng lương hưu của tôi cũng đã trên 1 triệu đồng" (Viết hoa và gạch dưới trong nguyên văn). Hỏi: "Bác kể cho nghe vài chuyện về ông Trần Thiếu Bảo nhé?" (Nguyên giám đốc nhà xuất bản Minh Đức, và ông Đang đã từng giúp ông Bảo điều hành nhà xuất bản này, tổ chức in lại những sách giá trị thời tiền chiến của Vũ Trọng Phụng, Khái Hưng, v.v.). Trả lời: "Nếu Thiếu Bảo còn sống đến bây giờ thì văn nghệ Việt Nam vui hơn- ông ta biết bày trò và có khả năng." Khi chúng tôi mon men hỏi đến những vấn đề "nhạy cảm" - như về "Văn Hóa" (mà ông Đang có thể nói là một trong những "ông tổ" của nền văn hóa cách mạng - với loạt bài viết về văn hóa trong năm 1945 đã xác định lập trường văn hoá và đường lối hoạt động của Hội Văn Hoá Cứu Quốc, coi việc xây dựng văn hoá là xây dựng đời sống tinh thần của con người, đi đôi với công cuộc đấu tranh chống áp bức, nô lệ); hay động đến hai chữ "Nhân Văn" (mà vì hai chữ này ông đã bị giới lãnh đạo văn nghệ miền Bắc thời đó trù dập và không ít nhà văn nhà thơ đã gọi ông là "hắn", "y", bởi ông "đã trở thành một thứ lãnh tụ của một bọn người cơ hội, có âm mưu chính trị..."- BNVGPTTADL) thì ông tìm cách lảng xa, hoặc vờ lơ đễnh trả lời sang chuyện khác. Vì thế chúng tôi chuyển hướng, cho ông đỡ mệt mỏi và sợ hãi, bằng những câu hỏi vô thưởng vô phạt, đại loại: "Bác đánh giá về Lão Tử thế nào?", "Bác thích nhà văn nước ngoài nào hơn cả", v.v. rồi chúng tôi cũng mau chóng tự thấy mình vô duyên mà không hỏi gì thêm. Nhưng chính lúc đó thì ông lại chủ động. Ông không bút đàm nữa, ông trút bỏ nỗi sợ cố hữu, cũng bởi ông thừa biết chúng tôi chỉ là những kẻ khờ dại mà ông thấy tội nghiệp... Ông bảo: "Các cậu chờ chút!" Ông bước vào giá sách góc nhà lục tìm cái gì đó. Ngay lúc ông vừa quay đi, trước mắt chúng tôi là những mảng lưng hở qua chiếc áo bở tã đến thê thảm! Bóng ông lúi húi bên giá sách cạnh tấm ảnh đen trắng Dostoievski chợt nhòe đi. Bên dưới tấm ảnh văn hào Nga được nhiều thế hệ độc giả Việt yêu quý là chiếc tủ lạnh cũ. Bất giác tôi đứng lên, bước tới chiếc tủ lạnh, tự động mở ra: cả hai ngăn trên và dưới đều trống rỗng!...Chiếc bàn nhỏ kê sát giá sách để chiếc điện thoại bàn lấm bụi, chiếc kính lúp, cái đèn pin, mấy cục pin con thỏ, v.v. Ông Đang dường không chú ý tới việc tôi mở tủ lạnh và quan sát đồ dùng sinh hoạt trong phòng ông, chắc bởi lúc đó ông muốn thông báo với chúng tôi điều gì hệ trọng lắm qua một một cuốn sách lớn dày cộp đang ôm trên tay. Thì ra là điều này: ông giở bìa cuốn từ điển Bách khoa "Le petit Larousse" in năm 2000 ra, chỉ tay vào trang đầu tiên có chữ nắn nót của ông: "Mất từ tr. 865 đến tr. 968" (gạch đậm dưới). Rồi ông vội vã mở cuốn sách ra để chứng minh điều mình đã thông báo. "Ai đã xé nó đi? Gần 100 trang đó gồm những mục gì hở bác?"- chúng tôi nóng ruột hỏi. Ông ghé tai hỏi lại cho rõ rồi thở dài, lắc đầu nhẹ và ngơ ngác như vẫn không tin nổi đó là sự thật giữa cái thời buổi thông tin toàn cầu, giữa một xã hội Dân chủ... Ông khẽ trả lời: "Những người có trách nhiệm kiểm soát trước khi chuyển nó đến cho người nhận, chứ còn ai vào đây nữa?! Còn những mục gì ư? Chỉ là những thứ mà theo người ta, sẽ đầu độc một lão già vô hại là tôi!"- Câu cuối ông nói ra vừa có gì diễu cợt lại vừa đượm nước mắt... Một công trình văn hóa hoàn hảo, một trong những biểu tượng của trí tuệ nhân loại bị phá hoại bởi những người quen thói bao cấp tư tưởng, quen hăng hái săn sóc tâm hồn và tri thức cho người khác- kể cả với những người đương nhiên là bậc thầy về văn hóa của họ! Thực là một tấn bi hài kịch không đáng có, vậy mà đã nó diễn ra thường xuyên như thứ một tập quán ghê sợ!

Chúng tôi chia tay ông, kịp lưu giữ lại ấn tượng không thể phai nhạt về một cụ già quen sống cô độc nhiều năm ròng, ít có khả năng tự phục vụ được mình trong sinh hoạt đời thường, song cuộc sống tạm bợ về vật chất đã không tàn phá nổi cấu trúc nhân cách - trí tuệ; ông tỏ ra khá minh mẫn, chưa mất khả năng hài hước, và nhất là vẫn lao động trí óc một cách căng thẳng... Là “người hùng ngã ngựa”, nhưng rõ ràng là ông vẫn luôn gắng vượt lên số phận để cho thấy sự hiện hữu của mình trong thời đại dung dưỡng chủ nghĩa khủng bố thông tin và có nguy cơ hủy diệt nhân tính này là cần thiết. Những ám ảnh văn hóa trong ông dường không bị thời gian lẫn sự tệ bạc nhân thế bào mòn, mà nổi bật nhất của sự ám ảnh đó bao giờ cũng là sự đòi hỏi nhức nhối phải phục hồi lại con người Tự do và Kiêu hãnh hiện đang vắng bóng trong cái thế giới tràn ngập sự vô cảm kỹ thuật và chủ nghĩa thực dụng cực đoan này!

Chúng tôi hy vọng và tin tưởng rằng: rồi sẽ tới ngày mà những bài viết tâm huyết của ông sẽ được sưu tầm lại một cách đầy đủ, công trình lao động trí óc quý giá của người từng đi trước xã hội hàng mấy chục năm đó sẽ được nghiên cứu một cách kỹ lưỡng, hệ thống- kể cả gần trăm trang từ điển mang tên học giả Pierre Larousse bị xé đi phản ánh những ưu tư trăn trở của ông Đang suốt hàng chục năm ròng, chứa đựng những thao thức tìm tòi các giải pháp cứu vớt xã hội của một trái tim ưu thời mẫn thế có tầm nhìn được sự hỗ trợ bằng nền tảng tri thức nhiều thế kỷ! 

Ba năm sau, khi chúng tôi bố trí được thời gian, hẹn hò với nhau định đến thăm ông lần nữa thì được tin ông qua đời...

Giờ đây, nhớ tới ông, chúng tôi xin được mượn lại mấy lời đánh giá của người khác đặng giúp lớp trẻ hiện tại hiểu thêm phần nào về một người trí thức đáng kính mà cho tới nay vẫn còn nhiều bóng tối bí ẩn trong cuộc đời và sự nghiệp:

 

- Bách khoa toàn thư mở Wikipedia:

"Nguyễn Hữu Đang là một người cương trực, thẳng thắn, một nhà hoạt động chính trị, văn hoá khá nổi tiếng và là một nhân cách lớn. Mặc dù bị oan khuất gần 30 năm, nhưng ông vẫn tự cho mình là người cộng sản chân chính. Trong những tác phẩm của ông, người ta không thấy sự oán giận mà chỉ thấy sự khoan dung, nhân hậu, lòng tin vào tương lai của đất nước, dân tộc...So với các đồng chí cùng thời thì ông là người đi trước thời đại."

- Điếu văn cụ Nguyễn Hữu Đang (do ông Quang Quý, đại diện Bộ Giáo dục và Đào tạo đọc lúc 11 giờ 30 ngày 10/2/2007 tại tang lễ ông Nguyễn Hữu Đang):

"Gần 30 năm hoạt động cách mạng, cụ Nguyễn Hữu Đang là một nhà hoạt động văn hóa giàu nhiệt huyết, có công đóng góp cho phong trào truyền bá Quốc ngữ và sự nghiệp phổ cập giáo dục cho nhân dân, cụ là một nhà báo sắc sảo, một người có tài vận động tuyên truyền có ảnh hưởng sâu sắc trong giới trí thức và các tầng lớp trên ở thành thị. Là người am hiểu sâu sắc Tây học và Nho học, nhưng cụ luôn đề cao văn hóa dân tộc, đề cao thuần phong mỹ tục và thực hiện đời sống mới.

Là một trong những cán bộ chủ chốt của Hội truyền bá Quốc ngữ, Nguyễn Hữu Đang là người phấn đấu không mệt mỏi chống giặc dốt, chống lại chính sách ngu dân của thực dân Pháp, tạo điều kiện cho quần chúng tiếp thu ảnh hưởng của cách mạng. Truyền bá Quốc ngữ cũng là truyền bá tinh thần dân tộc, ý chí tự cường, lòng yêu nước và truyền thống bất khuất của dân tộc. Trong những ngày đầu độc lập, cụ Nguyễn Hữu Đang có nhiều hoạt động bảo vệ và ủng hộ chính quyền cách mạng còn non trẻ. Trong kháng chiến chống Pháp, với cương vị Trưởng ban Thanh tra Bình dân Học vụ, không quản khó khăn, nguy hiểm cụ đã đến nhiều địa phương ở miền Bắc để vực dậy phong trào. Trong cuộc sống hàng ngày, cụ là người giản dị, cần kiệm, liêm khiết, dồn hết tâm sức cho công việc. Lúc đau yếu cụ được Nhà nước chăm sóc, cứu chữa tận tình, nhưng vì tuổi cao, bệnh trọng, cụ đã vĩnh biệt chúng ta lúc 6 giờ 41 phút ngày 8-2-2007 hưởng thọ 94 tuổi.

Cụ Nguyễn Hữu Đang mất đi là một mất mát không gì bù đắp được của gia đình, dòng tộc, là sự tổn thất cho giới văn hóa Việt Nam. Nhưng những gì cụ đã cống hiến cho dân cho nước sẽ còn lại trong lòng những người đang sống."

- Lời cảm ơn của gia đình (Tại tang lễ ông Nguyễn Hữu Đang):

"Cụ Nguyễn Hữu Đang, thân nhân ruột thịt của chúng tôi có một cuộc sống không được bình thường như mọi người: Không vợ con. Không gia đình. Mọi hoạt động, mọi tâm nguyện đều hướng về phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội cho đến cuối đời. Không một đòi hỏi cá nhân ích kỷ."

*

Hà Nội, đầu tháng 9-2012

NGUYỄN ANH TUẤN

(https://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=19311)

 

Mời nhấp chuột đọc thêm:

- Các bài viết của (về) tác giả Nguyên Lạc0

- Các bài viết của (về) tác giả Nguyễn Phan Quế Mai0

- Các bài viết của (về) tác giả Phan Huyền Thư0

- Các bài viết của (về) tác giả Ngô Văn Giá0

- Về bài thơ Tiếng Thu của Lư hay Sarumarul

 


Mời nghe Khề Khà Truyện đọc truyện ngắn

CHUYỆN CỦA GÃ KHỜ của Đặng Xuân Xuyến:

*

Mai An NGUYỄN ANH TUẤN

Địa chỉ: Phố Thái Hà, quận Đống Đa, Hà Nội      

Email: tranthanhban1956@gmail.com

Điện thoại: 091.217.49.47    

 

 

 

 

 

  ........................................................................................

- Cập nhật từ messenger facebook Nguyễn Anh Tuấn ngày 15.08.2022

- Ảnh dùng minh họa cho bài viết được sưu tầm từ nguồn: internet.

- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.

- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại. 

0 comments:

Đăng nhận xét