VỀ NHỮNG ĐỊA DANH
TRUNG QUỐC
TRONG THƠ CHỮ HÁN
NGUYỄN DU
KHÔNG NẰM TRÊN ĐƯỜNG
ĐI SỨ
*
TRẢ LỜI GIÁO SƯ NGUYỄN HUỆ CHI
Nguyễn
Du gọi cuộc đời mình từ năm 20 đến 30 tuổi là «Mười năm gió bụi».
Nhưng gia phả lại chép «mười năm đó ông về quê vợ ở Quỳnh Hải họp
cùng anh vợ Đoàn Nguyễn Tuấn khởi
nghĩa chống Tây Sơn». Nhưng Đoàn Nguyễn Tuấn trong sử sách lại chép
ông ra làm quan Hàn Lâm thị thư triều Tây Sơn, làm Phó sứ trong phái
đoàn Phan Huy Ích năm 1790 với vua Quang Trung giả; và trong Hải Ông Thi
Tập, ông là thị thần viết những bài thơ bên cạnh vua Quang Trung. Như
thế ta có thể khẳng định người viết Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền là
Nguyễn Y hoàn toàn không hay biết gì về những hoạt động của Nguyễn
Du trong thời gian mười năm gió bụi, cũng như hoàn toàn không biết tới
Nguyễn Nghi một người em khác của Nguyễn Du viết truyện thơ Quân Trung
Đối tại Châu Kiều, Bắc Ninh, có con là Nguyễn Toản đỗ Tiến sĩ đời
Minh Mạng.
Nguyễn
Hành trong bài thơ viết về chú Nguyễn Du có câu: «Giang hồ, long miếu
hai đường đủ. Thi họa cầm thư bốn nghệ tinh.» Nguyễn Du có thời kỳ đi
giang hồ Trung Quốc, và 18 năm làm quan triều đình. Nguyễn Du đi giang
hồ lúc nào?
Gia
phả chép Nguyễn Du làm Chánh Thủ Hiệu quân Hùng Hậu hiệu, nhờ «tập
ấm cha nuôi họ Hà»? Nhưng lại không biết người anh cả là Nguyễn Khản
làm Thượng Thư Bộ Lại, Hành Tham Tụng. Tương đương Bộ Trưởng Nội Vụ
kiêm Quyền Thủ Tướng kiêm Trấn Thủ Thái Nguyên và Hưng Yên bổ nhiệm
các em, con rể, thuộc hạ mình vào những nơi trọng yếu làm vây cánh
cho mình. Nguyễn Du không cần một tập ấm cha nuôi nào cả! Tại Sơn Tây
Nguyễn Điều làm Trấn Thủ, có Nguyễn Nể phụ tá. Tại Hưng Yên binh
quyền giao cho con rể là Nguyễn Huy Tự (tác giả Hoa Tiên), em là
Nguyễn Trứ làm Tri huyện. Tại Thái Nguyên nơi có nhiều người Hoa sang
khai thác mỏ bạc, binh quyền giao cho thuộc hạ Nguyễn Đăng Tiến, còn
gọi là Cai Gia trong Hoàng Lê Nhất Thống Chí, Cai Già trong Lịch Triều
Tạp Kỷ và Nguyễn Du gọi là Nguyễn Đại Lang, Nguyễn Đăng Tiến lớn
tuổi hơn Nguyễn Khản (hơn Nguyễn Du 31 tuổi) nên Nguyễn Du gọi là Đại
Lang, anh cả. Phụ tá tại Thái Nguyên có Nguyễn Quýnh tức Nguyễn Sĩ
Hữu làm Trấn Tả Đội, và Nguyễn Du làm Chánh Thủ Hiệu Quân Hùng Hậu
Hiệu. Nguyễn Đăng Tiến quê tại Việt Đông, vùng cao sơn lưu thủy Quế
Lâm, Nguyễn Du đã lấy quê Việt Đông thay cho Hấp Huyện tỉnh An Huy của
Từ Hải. «Họ Từ tên Hải vốn người Việt Đông». Nguyễn Đăng Tiến nguyên
là một tay giặc già phản Thanh phục Minh sang đầu quân dưới trướng
Thượng Thư Nguyễn Khản, Nguyễn Đăng Tiến dạy võ cho các em các con,
cháu Nguyễn Khản. Bài Biệt Nguyễn Đại Lang, Nguyễn Du cho biết «Sinh
tử giao tình tại, Tồn vong khổ tiết đồng.» Nguyễn Du kết nghĩa sinh
tử với Nguyễn Đại Lang, từng cùng Nguyễn Đăng Tiến khởi nghĩa tại Tư
Nông Thái Nguyên, bị chỉ huy Giáo bắt giải về cho Vũ Văn Nhậm, Lê Quý
Kỷ Sự trang 100 chép rõ ràng về cuộc khởi nghĩa này, Nhậm trân
trọng khí khái tha chết và cho muốn đi đâu thì đi. Họ lên đường sang
Vân Nam, vùng núi non có tuyết, có lá vàng rơi, có tiếng tù và. «Tuyết
xuống làng xa nảo tiếng tù». Dân cư trưởng giả ăn mặc theo nhà Hán,
(không thắt bính theo nhà Thanh đương thời) họ có lịch riêng theo lịch
Tây Tạng, không dùng lịch nhà Tần như Trung Quốc và Việt Nam.
Cuộc
khởi nghĩa thất bại tại Tư Nông, Thái Nguyên, được Vũ Văn Nhậm tha
chết cho đi đâu thì đi, là đầu mối cuộc phiêu lưu giang hồ ba năm tại
Trung Quốc của Nguyễn Du. Nếu không tìm ra đoạn sách Lê Quý Kỷ Sự và
Lịch Triều Tạp Kỷ ghi chép về sự kiện này, nếu không biết Nguyễn
Đại Lang, Nguyễn Sĩ Hữu là ai ? thì người nghiên cứu có thể ngây
ngô cắt nghĩa : Giang Bắc, Giang Nam là sông Bắc, sông Nam ở Việt
Nam, dù Nguyễn Du chưa vào tới Nam Kỳ Lục Tỉnh, hay Trung Châu là Hà
Nội dù không có tài liệu nào gọi vùng Trung Châu là vùng Hà Nội
cả ! Thậm chí còn đặt ra những câu hỏi làm sao Nguyễn Du có thể đi du lịch
Trung Quốc không tiền không bạc, không nói được tiếng Hoa địa phương
các vùng Trung Quốc.
Đọc
thơ chữ Hán Nguyễn Du, nếu chỉ đọc cái tựa, đọc phớt lờ các bài
thơ thì không thấy gì. Nhưng nếu đọc kỷ, dịch từng bài thơ so sánh
hành trình đi sứ đã được từ cụ Trương Chính, Lê Thước đã vẽ bản đồ
đối chiếu thì thấy nổi cộm nhiều vấn đề, nhiều câu hỏi, thắc mắc
khó cắt nghĩa, nếu cho rằng Bắc Hành Tạp lục chỉ là tập thơ đi sứ
của Nguyễn Du. Tài liệu Lê Quý Kỷ Sự là đầu mối dẫn dắt hành trình
Mười năm gió bụi của Nguyễn Du, không biết đến tài liệu này, người
nghiên cứu rối rắm trong mớ bòng bong trong các câu thơ chữ Hán Nguyễn
Du. Nguyễn Du đi đâu, làm gì trong Mười năm gió bụi. Nguyễn Du có một
thời gian đi giang hồ và mười tám năm làm quan triều đình. Nhưng thời
gian đi giang hồ chưa ai biết đến,
chưa ai nói tới. Giang hồ ngày xưa không có nghĩa là «tay anh chị» như
ngày nay, mà chỉ có nghĩa là đi rong chơi trên các con sông phía Nam
phía Bắc sông Trường Giang, và các hồ lớn Trung Quốc như Phạm Lãi,
Lý Bạch. Tôi đã viết nhiều bài bàn về vấn đề này như Bắc Hành Tạp
lục, thơ đi sứ (1813) và thơ thời giang hồ (1788-1790) và bài trả lời
ông Đoàn Lê Giang, viết đèo trên bài của Ts Nohira Munehiro,: «Cái hại
của học thuật tay ngang.» Nay tôi lại viết trả lời bài của Giáo sư
Nguyễn Huệ Chi. «Nhận xét về bài viết: Nguyễn Du và chuyến Bắc
Hành lần đầu qua khảo sát một bài thơ cụ thể : Nhạc Vũ Mục Mộ
của ông Mai An Nguyễn Anh Tuấn », bài viết phản bác lập luận và
chứng minh của tôi, Phạm Trọng Chánh và dĩ nhiên Giáo sư Nguyễn Huệ
Chi khẳng định Bắc Hành Tạp lục
chỉ là thơ đi sứ của Nguyễn Du.
Trước
nhất Nguyễn Du không dùng cái tựa có nghĩa là đi sứ như Hoàng Hoa sứ
trình, Hoàng Hoa đồ phả, hay Tinh sà kỷ hành (thơ trên thuyền đi sứ),
hay Bắc Sứ mà dùng chữ Bắc Hành là đi về phương Bắc, và tạp lục
là sao chép lộn xộn. Số lượng bài thơ cũng nhiều gấp đôi số bài thơ
đi sứ của các tác giả đi sứ khác.
Thơ
Thanh Hiên thi tập, các nhà nghiên cứu đều cho rằng thơ Nguyễn Du làm
tại Quỳnh Hải hay Tiên Điền, nhưng đọc các câu thơ lại có những địa
danh Trung Quốc, những cảnh trí vùng Vân Nam, Liễu Châu. Bắc Hành tạp
lục có nhiều bài thơ không ăn khớp với thời gian đi và về cuộc đi
sứ, có những việc không đúng với lịch trình đi sứ, như sông Tương nơi
Khuất Nguyên trầm mình, Nguyễn Du đi qua tháng bảy Âm Lịch, tháng ba
đã về tới Nam Quan, bài Ngũ nguyệt quan cạnh độ tả lễ hội nơi Khuất
Nguyên trầm mình lại là mùng 5 tháng 5. Nguyễn Du đi sứ có một vị
tướng Trung Quốc hộ tống, các quan địa phương tiếp rước, làm sao trong
bài thơ Nguyễn Du có thể hẹn cùng bác hàng xóm đi thắp hương Gác
Thiên Phi ? Nguyễn Du đi sứ triều nhà Thanh, có thể nào đi thăm mộ
Quế Lâm Cù Các Bộ, một nhân vật phản Thanh phục Minh ?
Giáo
sư Nguyễn Huệ Chi phản bác các chứng minh tôi nêu ra về các địa danh
trong thơ chữ Hán Nguyễn Du.
Các
địa danh Nguyễn Du viết không nằm khơi khơi, không có căn cứ theo Giáo
sư Nguyễn Huệ Chi «người thời Nguyễn Du» cho là như thế, mà nằm
trong từng bài thơ.
1, Trường An. Theo
Giáo sư Nguyễn Huệ Chi, Trường An là Bắc Kinh. Trường An là Hà Nội.
Thật ra Trường An là Tây An, Xi ́an ngày nay. Trường An không thể là Hà
Nội, chữ Trường An nằm trong bài thơ Sơn cư mạn hứng: « Nam
khứ Trường An thiên lý dư» Phía Nam ngàn dậm cách Trường An. Nếu
Trường An là Hà Nội và Nguyễn Du ở Quỳnh Hải hay Tiên Điền thì không
cách xa đến ngàn dậm. Nguyễn Du đang ở Vân Nam «Quần phong thâm xứ dã
nhân cư», có người thôn dã ẩn non sâu, cụ thể là Nguyễn Du đang bị
bệnh ba tháng xuân vì không quen khí hậu phải ở nơi nhà một thầy
thuốc «Dược phố xuân hàn lũng trúc sơ», vườn thuốc lơ thơ lạnh trúc
xuân.
2. Giang Bắc Giang
Nam theo Giáo sư Nguyễn Huệ Chi chỉ là sông Bắc sông Nam ở Việt Nam,
hai địa danh này nằm trong bài Mạn Hứng II, Thanh Hiên thi tập: «Hành
cước vô căn nhiệm chuyển bồng. Giang Nam Giang Bắc nhất nang không.» Chân
không bén rễ ngọn cỏ bồng. Giang Nam, Giang Bắc một túi không.» Nếu
Nguyễn Du ở Quỳnh Hải có vợ có con hay ở Tiên Điền quê cha đất tổ,
thì không thể viết «chân không bén rễ». Nguyễn Du cũng không giang hồ
nơi Nam Kỳ Lục Tỉnh, nên cũng không thể gọi là sông Nam. Giang Nam Giang
Bắc chỉ hai vùng Nam Bắc sông Dương Tử. Nguyễn Du làm gì không tiền
mà có thể đi giang hồ. Giang hồ ngày xưa có nghĩa là đi rong chơi các
sông phía Nam phía Bắc sông Dương Tử, và các hồ Trung Quốc, Ngũ Đại
Hồ trong đó có Hồ Động Đình và Tây Hồ Hàng Châu.
Nguyễn
Du đã thực hiện ước muốn của mình, vì «Cao hứng cửu vô hoàng
các mộng.» Mộng lớn gác vàng đà cạn hứng. Đã lâu không còn cao hứng
với mộng làm quan. Bài Tự Thán II, «Hà năng lạc phát qui
lâm ẩn», ước gì xuống tóc vào rừng ẩn. Bài Sơn Thôn: «Ná đắc phiêu
ly phù thế ngoại», ước gì thoát khỏi vòng trần tục, Nguyễn Du
đã thực hiện ước mơ này và đã xuất gia thành nhà sư mang danh hiệu
Chí Hiên, đội mũ vàng nhà sư đi ngàn dậm. «Vạn lý hoàng quan tương
mộ cảnh» ngàn dậm mũ vàng chiều nắng xế. Các chú thích cắt nghĩa
hoàng quan là mũ đạo sĩ không đúng, vì đạo sĩ mặc áo quần trắng
đội mũ trắng, nhà sư mặc áo vàng đội mũ vàng. Nguyễn Du đội mũ
nhà sư đi vạn lý, một lý khoảng gần nửa cây số, Nguyễn Du đã đi
khoảng gần 5000 km trong ba năm.
Danh
hiệu Chí Hiên từ chữ Chí, Thiền sư Chí Thiện chưởng môn Thiếu Lâm
Tự danh tiếng đương thời được nhiều
sách lịch sử, tiểu thuyết viết về thời vua Càn Long nhắc đến, và
Hiên chữ thường dùng trong gia đình Nguyễn Du, danh hiệu này lưu lại
trong hai bài thơ ký tên Chí Hiên trong Lưu Hương Ký oán trách Hồ Xuân
Hương tệ bạc đi lấy chồng thầy thuốc lúc Nguyễn Du bị tù. Nguyễn Du
sẵn mang trong mình quyển Kim Cương chú giải của Lê Quý Đôn, quyển
sách được giới trí thức Bắc Hà trân trọng thời bấy giờ. Theo gương
Lý Bạch, 21 tuổi mặc áo mũ trắng đạo sĩ, đi giang hồ khắp Trung
Châu, các nơi đều có đạo quán đạo Lão, Lý Bạch dừng chân nghỉ ngơi,
ăn ngủ và ngắm cảnh. Nguyễn Du 21 tuổi mặc áo vàng đội mũ vàng nhà
sư, dừng chân nghỉ ngơi trong các chùa trên đ̣ường đi, khắp nơi Trung
Quốc đều có chùa, khi chán thắng cảnh lại lên đường đi tiếp. Với
phương tiện này Nguyễn Du đi giang hồ, đi nhờ các thuyền buôn trên sông
với cái túi rỗng không tiền, khắp các sông hồ thắng cảnh danh tiếng.
Nguyễn Du thành nhà sư Thiếu Lâm luôn luôn mang thanh trường kiếm trên
lưng, vai vế chữ Chí mọi người đều kính nể. Cướp bóc dọc đường
cũng nể nang nhà sư không dám giở trò đạo tặc, nhà sư cũng thường
được tín đồ cúng dường, làm lễ
rảy nước tịnh cho hàng hoá được mua bán may mắn. Giả thuyết
này cắt nghĩa được câu thơ : «Tôi đọc kinh Kim Cương nghìn lượt»
bài Phân Kinh Thạch Đài. Người thường không ai đọc kinh Kim Cương đến
nghìn lượt, nghìn lượt là 365 ngày nhân ba. Nguyễn Du tụng kinh Kim
Cương trong khoảng ba năm. 1798, 1799, 1790. Ngày xưa các nho sĩ nước ta
đi chơi, thường dừng chân trọ nơi các cảnh chùa, cụ Nguyễn Thông viết
nửa đời mình sống trong các cảnh chùa.
3, Liễu Cao Lâm: Liễu
Cao Lâm là một địa danh rừng cao Liễu Châu nằm trong bài Lưu Biệt
Nguyễn Đại Lang. «Tây phong qui tụ Liễu cao lâm». Bản A của Lê
Thước và Trương Chính xét câu thơ không thành cú pháp nên sửa lại
là «Tây phong tiêu táp phất cao lâm,» nghĩa là gió tây hiu
hắt thổi qua rừng cây cao, bản C dịch: Gió Tây thổi ống tay áo
phất phơ chốn rừng liễu cao. Trong thơ Nguyễn Du chữ Tây phong đều ám
chỉ Tây Sơn, vì cớ gì bài thơ này, ở đây chỉ xem là ngọn gió hướng
Tây, theo tôi ý nghĩa câu thơ là: Vì cuộc nổi dậy Tây Sơn đánh
Bắc Hà, nên chúng ta lưu lạc qui
tụ đến chốn rừng cao Liễu Châu. Nguyễn Đại Lang, cùng Nguyễn Quýnh,
Nguyễn Du chia tay nhau tại Liễu Châu. Nguyễn Đại Lang về thăm lại quê
cũ vùng cao sơn lưu thủy Việt Đông, Nguyễn Quýnh tức Nguyễn Sĩ Hữu
trở về làm chủ Hồng Lĩnh khởi nghĩa chống Tây Sơn, bài Tống Nguyễn
Sĩ Hữu nam qui «Hồng Lĩnh hữu nhân lai tố chủ.» và Nguyễn Du thành
nhà sư Chí Hiên sang sông Giang Hán
đi Trường An. (Tây An)
4. Giang Hán. Sông
Hán là con sông nối liền từ Hán Dương, Vũ Hán đi Trường An, «Ngã
diệc phù Giang Hán» bài Lưu Biệt Nguyễn Đại Lang. Tôi sang sông
Hán đây, có nghĩa là tôi sẽ đi Trường An đây. Các bản dịch, cụ Ngô
Linh Ngọc dịch thành : Tôi sẽ sang sông lớn. Giáo sư Nguyễn Huệ
Chi dịch thành: Tôi sẽ sang sông đây,
bỏ mất con sông Hán. Nguyễn Du đi Trường An viết bài Dương Phi cố lý,
quê Dương Ngọc Hoàn ở Hoa Âm tỉnh Thiểm Tây, bài thơ có địa danh Nam
Nội, cung Hưng Khánh nơi Đường Minh Hoàng và Dương Quý Phi thường ra
chơi đấy và Tây Giao cánh đồng phía Tây Trường An, cánh đồng Mã Ngôi
nơi Dương Quí Phi thắt cổ chết, ngày nay có đền thờ to lớn, có tượng
Dương Quí Phi đông đảo khách du lịch đến thăm viếng hương khói nghi
ngút. Bài Bùi Tấn Công mộ có hai địa danh Chiêu Lăng và Vị Thành.
Chiêu Lăng là lăng Đường Thái Tông ở Thiểm Tây, cách đó có khu táng
các văn thần võ tướng có công giúp nước, mộ Bùi Tấn Công táng nơi
này. Vị Thành ở Tây Bắc Trường An tỉnh Thiểm Tây. Hai bài thơ này
chứng minh Nguyễn Du có đi Trường An, Tây An Trung Quốc, chứ không ở Hà
Nội. Tây An không nằm trên đường đi sứ Nguyễn Du năm 1813.
5. Trung Châu: là
vùng lòng đỏ trứng gà các kinh đô cũ Trung Quốc có Trường An, Khai
Phong, Lạc Dương, Lâm An, Hứa Đô, Trịnh Châu, Hàm Đan.. Không có một tài
liệu sách vở nào gọi Trung Châu là vùng Bắc Bộ Việt Nam cả kể cả
sách vở thời Nguyễn Du. Chỉ có bài hát Quê em miền Trung Du, nói về
vùng Phú Thọ. Địa danh Trung Châu nằm trong bài Biệt Nguyễn Đại
Lang: «Tương kiến tại Trung Châu», Sẽ gặp nhau tại Trung Châu.
Nguyễn Đại Lang chia tay Nguyễn Du và hẹn gặp lại tại Trung Châu. Theo
tôi điểm hẹn cụ thể là Miếu Nhạc Phi dưới chân núi Thê Hà, bên cạnh
Tây Hồ ở Lâm An. Thắng cảnh nổi tiếng nhất Hàng Châu, ai đến đây cũng
đều viếng cảnh này, nơi đây Nguyễn Du có thời gian làm đến 5 bài thơ
trong lúc chờ đợi; bài Nhạc Vũ Mục mộ, hai bài Tần Cối và hai
bài Vương Thị. Các nơi khác Nguyễn Du chỉ làm một hay hai bài thơ.
Cạnh
Miếu Nhạc Phi, Tây Hồ có một con đê do Tô Đông Pha khi làm Thứ sử Hàng
Châu đã cho nạo vét lòng hồ đắp nên, nên gọi là đê Tô. Đối diện Miếu
Nhạc Phi nối liền bởi đê Tô là chùa Hổ Pháo, vị trí tương tự như
chùa Trấn Quốc và Miếu Trấn Võ với đường Cổ Ngư, Hồ Tây, Hà Nội.
Chùa Hổ Pháo là nơi Từ Hải tức Minh Sơn Hòa Thượng tu hành trước khi
thành «nụy khấu» cướp biển. Chung quanh Tây Hồ còn có mộ Tiểu Thanh
với rừng mai bát ngát, có con đê Bạch, do Bạch Cư Dị khi làm Thứ sử
cho xây dựng và có thanh lâu các
nàng Kiều và một sự trùng hợp trong thời gian đó bản Kim Vân Kiều
Truyện được khắc bản in ấn tại Lâm An thời vua Càn Long. Nguyễn Du đã
đến trước tượng Nhạc Phi cầm thương thần dài trượng tám, và cung
nặng sáu thạch phía sau có câu «Hoàn ngã giang sơn.» trả lại giang sơn
cho ta, như ngày nay chúng ta đến Tây Hồ vẫn thấy. Nguyễn Du đã xúc
động làm các bài thơ năm 1790 tại đây, chứ không phải đi qua đình Nhạc
Phi ở Thang Âm, nơi quê hương Nhạc Phi. Ngô Thì Nhậm trên đường đi sứ có
làm bài thơ nơi đình Nhạc Phi ở Thang Âm, Nguyễn Du làm năm bài thơ
tại Miếu Nhạc Phi tại Lâm An. Bài Nhạc Vũ Mục ban sư xứ tại Yển
Thành nơi Nhạc Phi từng đóng quân khi đi sứ. Trên đường đi sứ năm 1813,
Nguyễn Du không đi ngang qua Lâm An.
6. Lạc Dương:
Đình
Tô Tần: Tô Tần quê tại Lạc Dương, đình Tô Tần chỉ có tại quê ông ở
Lạc Dương. Khi đi sứ Nguyễn Du qua Hà Nam, nhưng không ghé đến Lạc
Dương. Nguyễn Du làm hai bài thơ Đình Tô Tần trong thời gian đi giang
hồ.
Lương
Chiêu Minh Thái Tử Phân Kinh Thạch đài: Các bản chú thích cho rằng
Phân Kinh là chia kinh ra thành từng bộ, điều này không đúng vì việc
kết tập kinh điển Phật Giáo chỉ xãy ra tại Ấn Độ, sau khi Đức Phật
nhập niết bàn, 100 năm sau, và 300 năm sau thời Asoka .. không có
một cuộc kết tập kinh điển nào tại Trung Quốc cả. Tại Trung Quốc
chỉ có dịch kinh và in kinh chia cho các chùa.
Phân
Kinh Thạch Đài nằm nơi đâu ? Lương Vũ Đế (502-549) đóng đô tại Lạc
Dương. Nơi đây có chùa Bạch Mã là ngôi chùa đầu tiên của Phật Giáo
Trung Quốc có từ năm 65 sau TL, ngôi tổ đình của Phật Giáo Trung Quốc,
khi triệu tập các vị cao tăng, bàn luận các tranh cải đương thời,
người theo kinh Kim Cương, người theo Kinh Pháp Hoa và người theo phái
Thiền Bồ Đề Đạt Ma mới từ Ấn Độ truyền qua đương thời, ngồi bích
quán chùa Thiếu Lâm, chú trọng thiền định. Thái tử Lương Chiêu Minh
không cần đi đâu xa, mà triệu tập nơi tổ đình Phật Giáo Trung Quốc
tại chùa Bạch Mã. «Bạch mã triêu đô Trường Giang thủy» Một sớm ngựa
trắng vượt qua sông Dương Tử. Bạch Mã là con ngựa Đức Phật cỡi khi đi
xuất gia, sau khi qua sông Hằng, Thái tử Tất Đạt Đa trao lại ngựa cho
người hầu dắt về còn mình đi tìm con đường giải thoát. Câu thơ nói
đến việc Phật Giáo mang con đường đi tìm giác ngộ đến Trung Quốc.
Bài thơ Nguyễn Du trích thơ Lục Tổ Huệ Năng: «Minh kính diệc phi đài.
Bồ đề vô bản thụ..» chẳng có đài gương sáng, chẳng có cây bồ đề, chê
trách cha con Chiêu Minh Thái tử không tìm con đường giải thoát bằng
Thiền định như Đức Phật mà chấp vào văn tự, chỉ để bọn ngu tăng đời
sau đọc điếc tai người ta. Kinh Kim Cương «sắc tức thị không, không tức
thị sắc» được các nhà sư Tây Tạng truyền bá vào Trung Quốc, được xem
là khó hiểu phải cần chú giải. Kinh Pháp Hoa là những bài kệ nhỏ
Đức Phật thuyết pháp vào cuối đời trên núi Linh Thứu, Tịnh Độ Tông
chủ trương tụng và thực hành theo kinh này. Bồ Đề Đạt Ma lại cho
rằng Đức Phật ngồi gốc bồ đề thiền định mà đi đến giác ngộ, cứ
thực hành theo thiền định, chẳng cần tranh cải kinh này kinh kia.
Nguyễn Du từng đọc ngàn lần Kinh Kim Cương, nhìn đài đổ nát mới hiểu
kinh không chữ mới thật là chân kinh.
Tôi
có đi Trường An tìm kiếm Phân Kinh Thạch Đài, nhưng không ai biết, nơi
đây chỉ có tháp nơi Trần Huyền Trang tổ chức dịch Tam tạng kinh điển
sau 18 năm du hành Ấn Độ mang về trên lưng 15 con ngựa. Theo tôi Phân Kinh
Thạch Đài nằm tại chùa Bạch Mã ở Lạc Dương, Nguyễn Du làm bài thơ
này tại Lạc Dương. Trên đường đi sứ năm 1813, Nguyễn Du qua Hứa Đô tỉnh
Hà Nam mà không đến Lạc Dương.
7. Tây phong biến
dị hương: Bài Tín Dương tức sự có
câu «Tây Phong biến dị hương». Ngọn gió Tây làm rung động cả đất
khách. Câu thơ này không thể xem thường là ngọn gió hướng Tây thổi qua
trong lúc Nguyễn Du đi tha phương lúc đi sứ, mà là biến cố Tôn Sĩ
Nghị bị đại bại tại Thăng Long năm 1789, rút quân về hàng trăm cây số
cách biên giới Việt Nam, già trẻ lớn bé sợ hãi gồng gánh bỏ chạy,
cuộc chiến của Tây Sơn tại Thăng Long làm rung động cả Trung Quốc.
Nguyễn Du đang ở Thành Tín Dương thì xảy ra biến cố này. Bài thơ này Nguyễn Du làm năm 1789 lúc
đi giang hồ.
8. Nam Đài, Long
Thủy trong câu «Nam Đài thôn ngoại Long Giang thủy» bài Xuân Dạ. Bản
Đào Duy Anh chú thích Nam Đài là xóm Nguyễn Du tại quê nhà Tiên Điền.
Long Giang tức Thanh Long giang một tên khác của sông Lam từ ngã ba Hưng
Nguyên trở xuống. Tôi đi tìm tài liệu Nguyễn Quốc Phẩm về văn hóa
làng Tiên Điền có ghi tên các thôn nhưng không có thôn nào tên Nam Đài
cả. Nếu Nguyễn Du ở Tiên Điền thì không thể viết: «Giang hồ bệnh đái
kinh thời cửu» giang hồ bệnh cũ lâu ngày phát, hay câu «Gia hương thiên
lý nguyệt trung tâm,» Muôn dậm tình quê nguyệt dãi lòng. Tôi kết luận
Nam Đài, Long Giang thủy không ở Tiên Điền mà ở Long Châu, Trung Quốc.
Nguyễn Du làm bài thơ này khi đến Long Châu chuẩn bị trở về Việt Nam
sau ba năm giang hồ.
Mỗi
bài thơ, mỗi câu thơ lạ lùng của Nguyễn Du như trò chơi ráp các mãnh
bìa cứng rời rạc đầy góc cạnh, tôi ráp lại các mãnh toàn vẹn
thành bức tranh chân dung Nguyễn Du trong mười năm gió bụi, không còn
sót một mãnh nào, một lỗ hổng nào. Tôi cắt nghĩa hết được các tên
nhân vật, các sự kiện bằng các tài liệu lịch sử chứng minh, không
bỏ sót một sự kiện nào trong cuộc đời Nguyễn Du.
Tôi
rất ngạc nhiên Giáo sư Nguyễn Huệ Chi cho rằng Nguyễn Du không nói tiếng
Hán. Thế thì Nguyễn Du học Tứ Thư, Ngũ Kinh, một ngàn bài thơ, một
trăm bài phú, năm mươi bài văn sách, chiếu biểu để đi thi và đỗ Tam
Trường bằng chữ gì ? Trung Quốc mỗi vùng cách đọc khác nhau.
Việt Nam đọc Hán Việt theo đời nhà
Đường. Cụ Phan Bội Châu sang Trung Quốc nói chuyện với Lương Khải Siêu,
Khang Hữu Vi khi không hiểu thì dùng bút đàm. Giáo sư Nguyễn Huệ Chi
cho rằng «Điều kiện giao tiếp thiết yếu đó với nhóm xuất ngoại trong
cảnh giang hồ trên đất Trung Quốc hàng ngày (vì ngôn ngữ bất đồng)
ông Phạm Trọng Chánh hoàn toàn bỏ qua trong vấn nạn nói trên.» Thế
thì theo Giáo sư Nguyễn Huệ Chi, đây là vấn nạn lớn của Nguyễn Du.
Nguyễn Du không thể nào vượt qua, do đó không thể nào đi Trung Quốc
một mình, khác với việc đi sứ. Có lẽ Giáo sư Nguyễn Huệ Chi không đi
học tại nước ngoài tưởng lầm như thế. Gs Nguyễn Huệ Chi quên rằng
hiện nay Việt Nam có năm triệu rưỡi
người gốc Việt ở hơn 100 nước trên thế giới, có hàng chục ngàn thanh
niên nam nữ Việt Nam hàng năm đi du học, hàng trăm ngàn người đi lao
động nước ngoài. Nếu một đại thi hào như Nguyễn Du không vượt qua nỗi
khó khăn về ngôn ngữ, thì bao nhiêu triệu người Việt Nam ở nước ngoài
hiện nay thành câm thành điếc hết sao? Nếu Giáo sư Nguyễn Huệ Chi có
dịp gặp người Việt Nam tại nước ngoài, thì người nói được 4, 5 thứ
tiếng là chuyện thông thường. Kiều bào tại Nam Vang nhiều người
«mặt mày trông quê mùa » nhưng nói được cả tiếng ba bốn
vùng Trung Quốc, chưa kể tiếng Miên, tiếng Việt, Anh, Pháp. Nguyễn Du
không phải là bậc đại khoa đỗ Tiến Sĩ, Bảng Nhản, Thám Hoa.. chỉ đỗ
Tam Trường (tương đương với Tú tài), nhưng được chọn làm Chánh Sứ là
do tài ứng đối, làm thơ nhanh chóng, kiến thức văn hóa Trung Quốc sâu
rộng, nhờ có chuyến đi Bắc Hành thời thanh niên nên đã thông thạo
tiếng các vùng Trung Quốc.
Sang
Trung Quốc ở tuổi hai mươi Nguyễn Du, trên đường đi lúc đầu học năm ba
câu nói với các người thuyền buôn trên sông để đi nhờ. Vào chùa thì
xin trú nhờ qua đêm, xin bữa ăn rau đậu, tụng ê a Kinh Kim Cương dù
giọng xứ Nghệ, Trung Quốc chẳng ai hiểu. Việc này không khó hơn người
Việt hiện nay ở nước ngoài.
Bên
cạnh Nguyễn Du còn có Nguyễn Đại Lang
người anh kết nghĩa chỉ dẫn, chu cấp. Tại chùa Hổ Pháo, Tây
Hồ đọc được Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân đã quyết chí
diễn ca thơ nôm. Khi gặp Đoàn Nguyễn Tuấn trong sứ đoàn Phan Huy Ích
tại Hoàng Châu. Nguyễn Du đã vào ở trong lữ quán và đi xe song mã.
«Song mã anh về Nam lộng gió» bài gặp Văn nhân họ Nguyễn.
Khi nghe tin anh Nguyễn Nể đã ra làm quan Tây Sơn, Phan Huy Ích cho hay
Nguyễn Nể được vua Quang Trung trân trọng tài năng và học vấn, thường
cởi ngựa quý đến thăm bàn việc nước, thì Nguyễn Du hứng chí không
còn tâm sự xem Tây Sơn như Côn trùng bò mé ngoài, «Phế táo tụ hà ma»
bài Bất Mị, khinh bỉ người ra làm quan Tây Sơn như trong bài Phản Chiêu
Hồn. «Về thành Yên Sính làm chi nữa, Thành quách y nguyên, dân sự đã
khác, Cát bụi lấm cả quần áo người, Đi ra xe ngựa về vênh váo, Lên
mặt Cao Quỳ tán chuyện đời.» Nguyễn Du trở về Thăng Long nương dựa nơi
anh Nguyễn Nể. Nguyễn Nể đã xây dựng lại dinh thự cụ Nguyễn Nghiễm
đã bị kiêu binh đốt phá nơi Bích Câu. Nguyễn Du đứng trong bóng tối
nghe Cô Cầm gảy đàn cho quan tướng Tây Sơn nghe và nương náu nơi Gác
Tía, nhà câu cá cũ của anh Nguyễn Khản cạnh, đài Khán Xuân cạnh
đình làng Nghi Tàm. Nơi đây Nguyễn Du yêu cô hàng xóm Xuân Hương Hồ Phi
Mai, «Chữ tình chốc đã ba năm vẹn» cho đến ngày anh Nguyễn Nể được
lệnh triều đình Tây Sơn vào Phú Xuân dạy cho vua Cảnh Thịnh sách Tiểu
Học do cụ Nguyễn Thiếp và các cộng sự Sùng Chính Viện biên soạn.
Nguyễn Du và em Nguyễn Ức được anh trao tiền bạc với nhiệm vụ xây
cất lại làng Tiên Điền chùa, cầu Tiên và từ đường họ Nguyễn bị đốt phá trong cuộc khởi
nghĩa Nguyễn Quýnh, Nguyễn Nể bận việc quan tại Phú Xuân không thể
trực tiếp trông coi.
…………….
TÀI LIỆU THAM
KHẢO:
NGUYỄN DU TOÀN
TẬP I. Văn Học. Hà Nội 1996.
THƠ CHỮ HẠ́N
NGUYỄN DU. Văn Học Hà Nội. 1965
NGUYỄN THU. LÊ
QUÝ KỶ SỰ. Nxb KHXH. Hà Nội 1974.
THƠ VĂN ĐOÀN
NGUYỄN TUẤN. HẢI ÔNG THI TẬP. Nxb KHXH. Hà Nội 1982
NGUYỄN CHU KIỀU.
QUÂN TRUNG ĐỐI. Nxb Đông Nam Á, Paris 1995
NGÔ CAO LÃNG, Lịch
Triều Tạp Kỷ. Tập II. Nxb KHXH. Hà
Nội 1975.
Mời
nhấp chuột đọc thêm:
Mời nghe Khề Khà Truyện đọc truyện ngắn
CHUYỆN CỦA GÃ KHỜ của Đặng Xuân Xuyến:
*
PHẠM
TRỌNG CHÁNH
Tiến
sĩ Khoa Học Giáo Dục
Địa chỉ: Viện Đại Học Paris Sorbonne.
Email: phamtrongchanh@free.fr
.
.............................................................................................................
-
Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 14.09.2022.
-
Ảnh dùng minh họa cho bài viết được sưu tầm từ nguồn: internet.
-
Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
0 comments:
Đăng nhận xét