CUỘC
SỐNG BI KỊCH CỦA
CÁC
NHÀ VĂN ĐỒNG TÍNH NỔI TIẾNG
*
Họ đều có đặc điểm chung là sự sáng tạo
không ngừng nghỉ, vượt qua mọi định kiến xã hội, tạo nên những tác phẩm vĩ đại
cho lịch sử văn chương thế giới.
Đồng tính từng bị coi là một căn bệnh,
bị xã hội khinh ghét và hắt hủi. Những nhà văn đồng tính lúc bấy giờ đã có
nhiều cách ứng xử khác nhau trước tình trạng xã hội.
Oscar Wilde
Oscar Wilde (1854-1900), nhà thơ, nhà
viết kịch, nhà văn nổi tiếng của Ireland, tác giả của những tác phẩm như Lady
Windermere’s Fan, The Importance of Being Earnest, The Picture of Dorian Gray,
The Happy Prince… Bên cạnh những thành công về sự nghiệp, Oscar Wilde có
một cuộc sống riêng tư đầy bi kịch.
Cũng giống như những người đồng tính
cùng thời với ông, Wilde tìm cách trốn chạy “căn bệnh” của mình bằng một đám
cưới năm 1884 với Constance Mary Lloyd. Cuộc hôn nhân nhanh chóng cho ra đời
hai đứa con trai vào năm 1885 và 1886. Nhưng việc áp dụng cuộc hôn nhân như một
phương thuốc chữa bệnh của nhà văn hoàn toàn thất bại.
Vào khoảng năm 1887, trong thời gian làm
việc cho tạp chí Society Magazines ở London (Anh), Oscar Wilde phải lòng một
biên tập viên trẻ tên là Alsager Vian. Nhà thơ thường xuyên viết thư cho Vian,
mời mọc anh đến nhà ông để “hút thuốc và uống rượu Italy”.
Năm 1891, Oscar Wilde gặp Alfred
Douglas. Hai người yêu nhau đắm đuối và không giấu giếm quan hệ đồng tính luyến
ái của họ. Cha của Alfred là John Sholto Douglas, Hầu tước Queensberry, không
chấp nhận mối quan hệ và nhiều lần gây sự với Oscar Wilde. Việc này dẫn đến vụ
kiện tai tiếng Queensberry. Oscar Wilde bị kết án 2 năm tù khổ sai vì “tội”
quan hệ đồng giới.
Chính trong cảnh tù tội bi thảm đó,
Wilde đã viết 2 tác phẩm thuộc loại hay nhất của ông, đó là Khúc
ballade ở nhà tù Reading và De Profundis.
Virginia Woolf
Virginia Woolf là một nhân vật có tầm
ảnh hưởng của xã hội văn học London thế kỷ 20. Những tác phẩm nổi tiếng nhất
của bà bao gồm Đêm và ngày (Night and Day, 1919), Căn
phòng của Jacob (Jacob’s Room, 1922), Bà Dalloway (Mrs.Dalloway,
1925), Đến ngọn hải đăng (To the Lighthouse, 1927), Orlando (1928), Một
căn phòng riêng (A Room of One’s Own, 1929), Những đợt sóng (The
Waves, 1931), Ba đồng tiền vàng (Three Guineas, 1938).
Năm 1912, Virginia kết hôn và đã có
những năm tháng hạnh phúc với Leonard Woolf - "chàng Do Thái không một xu
dính túi". Nhưng ngoài chồng, nữ văn sĩ nổi tiếng còn lao vào cuộc phiêu
lưu tình cảm đồng tính với Vita Sackville-West.
Virginia Woolf và VitaSackville-West gặp
nhau vào khoảng năm 1922. Vì thường xuyên ở xa nhau nên tình yêu của họ chủ yếu
biểu hiện qua những bức thư nồng nàn và say đắm.
Vita Sackville-West, kém Virginia Woolf
10 tuổi, là một nhà thơ tài hoa và có đời sống riêng tư phức tạp. Tình yêu,
dưới danh nghĩa tình bạn của hai người kéo dài suốt hơn 2 thập kỷ, từ đầu những
năm 1922 cho tới 1941 - khi Woolf gieo mình xuống sông tự vẫn.
Thomas Mann
Năm 1905, Thomas Mann cưới vợ, sinh 6
người con (trong đó có ba người sau này cũng trở thành nhà văn). Cuộc hôn nhân
không phải là cách giải quyết cho ông về vấn đề đồng tính. Thực ra, tình yêu
duy nhất, nóng bỏng nhất và dai dẳng nhất trong cuộc đời dài cần mẫn của Thomas
Mann là tình yêu dành cho các chàng trai vị thành niên.
Chỉ có thân thể và tâm hồn của các chàng
thiếu niên là thực sự tạo cảm hứng cho Mann. Song ông đã dùng ý chí của mình để
đè bẹp khuynh hướng này khiến nó không bao giờ được phát lộ thành hành động
thực tế.
Đó cũng là một đề tài mà Mann say mê thể
hiện trong sáng tác của mình, tiêu biểu là Der Tod in Venedig (Cái
chết ở Venezia, 1913) - một trong những truyện dài xuất sắc của văn chương thế
giới.
Thế chiến thứ nhất đã đẩy nhà văn vào
một cuộc khủng hoảng tinh thần trầm trọng. Ông viết tập kí 600 trang Betrachtungen
eines Unpolitischen (tạm dịch: Những suy ngẫm ngoài chính trị, 1918)
trong thời gian này.
Sau chiến tranh ông trở lại với văn học
nghệ thuật, hoàn thành một trong những đỉnh cao sáng tác của mình là Der
Zauberberg (tạm dịch: Ngọn núi phù thủy). Năm 1929 ông được nhận giải
Nobel, chủ yếu vì bộ tiểu thuyết vĩ đại Buddenbrooks (Verfall
einer Familie).
Ngoài giải Nobel, ông được cả Đông và
Tây Đức trao tặng giải Goethe năm 1949 và bằng danh dự của Đại học Oxford và
Đại học Cambridge.
Andre Gide, chủ nhân giải Nobel văn học năm 1947.
Ảnh: Wikimedia.
André Gide
André Paul Guillaume Gide là một trong
những nhà văn nổi tiếng của thế kỷ 20, người đoạt giải Nobel Văn học năm 1947.
Gide sinh ra vốn là đứa trẻ nhạy cảm,
sống bản năng. Ông gặp nhiều nhiều bão táp trường đời: Mất cha từ nhỏ, chiến
tranh liên miên, bệnh tật và đặc biệt là cú sốc năm 26 tuổi, khi ông phát hiện
ra mình là người đồng tính.
Trước đó, Gide đã mối tình lãng mạn kéo
dài với cô em họ Madeleine Rondeaux từ khi ông mới là cậu bé 12 tuổi. Về sau,
ông vẫn trân trọng và cưới Rondeaux nhưng đồng thời chạy theo những mối tình
đồng giới, trong đó có cậu thiếu niên 15 tuổi, Allégret.
Như con thiêu thân, Gide lao vào những
cuộc sa đọa và không ngần ngại phô bày trên trang giấy. Năm 1926, tiểu
thuyết Les Faux-monnayeurs (Bọn làm bạc giả) ra đời mang lại
nhiều thành công cho ông. Đó là một đóng góp thực sự vào sự phát triển thể loại
tiểu thuyết.
Một năm sau khi xuất bản truyện
vừa Thésée (Theseus, 1946) - mà ông coi như một bức di thư văn
học - André Gide được bầu làm Giáo sư Danh dự trường Đại học Oxford và được
tặng giải Nobel năm 1947.
Năm 1950, André Gide xuất bản tập cuối
cùng của bộ Journal (Nhật kí). Ông mất năm 1951 ở Paris.
Colette
Colette là một trong số những tên tuổi
tài năng nhưng cũng vô cùng tai tiếng của văn chương cổ điển Pháp.
Colette có một mối tình đồng tính lãng
mạn với nữ hầu tước Mathilde de Morny, biệt danh Missy.
Năm 1907, Colette và Morny cùng diễn
xuất trong một vở kịch câm tựa đề Rêve d'Égypte (tạm dịch:
Giấc mộng Ai Cập) ở Moulin Rouge. Nụ hôn trên sân khấu của họ gần như gây ra
một cuộc náo loạn, đến nỗi người ta phải gọi cảnh sát tới để lập lại trật tự.
Do vụ bê bối này, buổi trình diễn tiếp
theo của vở Rêve d'Égypte đã bị cấm, và họ đã không có thể
sống chung với nhau một cách công khai.
Trong thời gian này, Colette cũng có
quan hệ khác giới với nhà văn Ý Gabriele d'Annunzio.
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai,
Colette vẫn ở lại Paris khi Đức Quốc xã chiếm đóng và tiếp tục viết “bởi vì, bà
nói rằng bà phải kiếm sống”. Tiểu thuyết nổi tiếng nhất của bà, Gigi,
được viết trong thời gian này.
Những năm cuối đời, bà phải di chuyển
bằng xe lăn, và được Goudeket – mà bà gọi là “một vị thánh” – chăm sóc. Khi qua
đời, Colette đã để lại tổng cộng 50 tiểu thuyết đã xuất bản, trong đó nhiều
quyển mang đậm tính chất tự truyện.
Hai thiên tài thơ của thế giới, với mối tình nồng
nhiệt nhưng đầy bi kịch. Ảnh: Theguardian.
Arthur Rimbau
Arthur Rimbaud sinh năm 1854 tại
Charleville, là con trai của một sĩ quan quân đội Pháp.
Năm 1871, Rimbaud gửi những bài thơ đầu
tiên của mình cho Verlaine (trong đó có cả bản thảo tập thơ nổi tiếng Con
tàu say). Ấn tượng trước giọng thơ tài hoa và sáng tạo của tác giả trẻ
(Verlaine hơn Rimbaud 10 tuổi), Verlaine đã viết thư mời Rimbaud đến nhà mình.
Cuộc gặp gỡ định mệnh này đã khởi đầu
cho mối quan hệ đầy sóng gió, một mối tình đẩy hai người đến chỗ bị xã hội xa
lánh và khinh ghét.
Mối tình giữa hai thi nhân nổi tiếng
không thoát khỏi ánh mắt hiếu kỳ của dư luận. Không dễ dàng được chấp nhận, họ
đã quyết định rời Paris, đến London tận hưởng cuộc sống như những người bạn đi
du lịch cùng nhau.
Sau gần 2 năm chịu đựng thói giận dỗi và
những cơn nóng nảy vô cớ của Rimbaud, năm 1873, Verlaine bỏ rơi “bạn tình” ở
London, một mình đến Brussels (Bỉ). Rimbaud sống trong cơ cực, khủng hoảng và
cuối cùng mất vì bệnh ung thư xương.
Cuộc đời bi kịch của họ càng khiến cho
năng lực sáng tạo nghệ thuật trở nên mãnh liệt. Cả Verlaine và Rimbaud đều là
những nhà thơ kiệt xuất trong lịch sử thơ ca nhân loại.
Mời
nhấp chuột đọc thêm:
- Các bài viết về
đồng tính luyến ái trên trang Đặng Xuân Xuyếnl
- Yếu tố đồng tính
trong thơ Đỗ Anh Tuyếnl
- Tản mạn chuyện
giới tính của “sao”l
.
Mời nghe Khề Khà Truyện đọc truyện ngắn
CHUYỆN CỦA GÃ KHỜ của Đặng Xuân Xuyến:
Nguyễn Thị Lan Anh giới thiệu
Tác giả: Thu
Thủy Nguồn: zingnews.vn
Ảnh minh họa sưu tầm từ nguồn: internet
Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.
0 comments:
Đăng nhận xét