CHÙA
NÀO CÓ PHẬT?
*
Đầu năm, một bạn là người
gốc Hà Nội đã chuyển vào Nam sinh sống nhắn tin rủ tôi đi chùa. Tôi bận công
việc không đi được nên bạn hỏi ở trong này nên đi chùa nào để tự đi. Tôi trả
lời nên đi chùa nào có Phật... Bạn nhắn lại biểu tượng cái mặt cười, có lẽ nghĩ
tôi trả lời ba phải!
Nhân tiết tháng Giêng mạn
đàm câu chuyện không ít người đang băn khoăn: chùa nào có Phật, thiết nghĩ
không thể thích hợp hơn là nhìn lại hành trạng của Ngài lúc sinh thời.
Có lẽ không nhiều người
chú ý rằng những dấu mốc quan trọng trong cuộc đời của đức Thích Ca đều gắn với
cây với rừng: sinh ra dưới gốc cây Vô ưu, 6 năm tu khổ hạnh trong rừng già,
chứng đạo dưới gốc cây Bồ đề, truyền giáo sinh hoạt tăng đoàn trong Vườn Cấp Cô
Độc, nhập Niết Bàn trong rừng cây Sala...
Sau nhiều năm kiên trì tu
khổ hạnh ngày ăn vài hạt đậu, mè... sức khỏe suy kiệt nhưng vẫn không đạt được
"Tuệ Giác", ngài chuyển qua pháp tu "Trung đạo". Đi khất
thực chỉ đủ cơm ăn ngày 1 bữa, ngủ dưới gốc cây ngày 1 giấc (nhật trung nhất
thực thọ hạ nhất túc), mặc "y bá nạp", áo được may từ trăm mảnh vải
thừa ráp lại...
Khi nhu cầu căn bản về
dưỡng chất cho cơ thể được đảm bảo thì đạt được trạng thái tinh thần thơ thới,
ngài liền đau đáu: chén cơm mình có ăn là mồ hôi công sức của cần lao bá tánh.
Vì thế, Ngài đưa ra "Ba tiêu đề" và "Năm điều tưởng nhớ" để
nhà chùa khi bưng bát cơm lên mà biết tự dặn lòng mình ăn sao cho xứng đáng...
Đọc lịch sử Phật, tôi
ngẫm phải chăng Liên Hiệp Quốc xây dựng các tiêu chí về "Phát triển bền
vững" sau khi nghiên cứu về cuộc đời của ngài. Ăn một ngày một bữa là
không mê đắm tiêu thụ vật chất, mặc y bá nạp là sử dụng năng lượng tái sinh,
tiết kiệm tài nguyên, sống gần gũi thân thiện cỏ cây là bảo vệ rừng giảm thiểu
khí thải Co2, phòng chống tình trạng trái đất nóng lên, đi khất thực là cập
nhật với cuộc sống những khổ đau của chúng sinh mà tìm ra giải pháp thiết
thực....
Đệ tử của Ngài - các bậc
chân tu qua nhiều thế hệ đều tu học theo lối ấy.
Vùng Nam Giao ở Huế ngày
xưa là núi rừng hoang vu đã được các tu sĩ chọn làm địa điểm lập am thất, nhiều
đến nỗi sau này hình thành nên "xứ chùa". Trên nhiều tháp bia hàng
trăm năm tuổi, để ghi nhận các vị có công lập chùa đã không ghi chữ "lập
tự" hay "kiến tự" (dựng chùa) mà khắc chữ "khai sơn"
(mở núi) là vì vậy.
Trải qua bao thăng trầm
dâu bể, ngày nay đô thị hoá vẫn chưa lan tới một số chùa ở đây, cho thấy nơi
đây ngày xưa là vùng hẻo lánh, non thiêng nước độc. Phải chăng nơi núi rừng
thanh tịnh dễ tu, cho nên ngày xưa vùng Nam Giao xứ Huế là vùng "địa
linh" đã ra đời dòng Thiền Liễu Quán, nổi tiếng có nhiều vị chân tu, đắc
thiền!?
Nước Pháp nổi tiếng là
kinh đô vật chất nhưng Làng Mai của hòa thượng Nhất Hạnh cũng là những thiền
đường đơn sơ thanh vắng, nhiều cây cỏ, đặc biệt không thể thiếu những loại cây
của quê hương Việt Nam như lũy tre, bụi chuối vườn cải... Nay ngài về Việt Nam
an dưỡng ở chùa Từ Hiếu, Huế thì cũng ở trong căn phòng rêu phong được xây gần
trăm năm trước, nơi có chiếc giường cái bàn... ngày xưa thầy của hoà thượng
từng ngồi uống trà, đọc kinh.
Đức Pháp chủ Phật Giáo
Việt Nam hiện tại, Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ, năm nay đã hơn 100 tuổi
nhưng sức khỏe ổn định tinh thần minh mẫn. Ngài ở trong ngôi chùa giữa đồng
không mông quạnh, tự nhận mình là một "lão nông sư". Ngoài việc tu
tập giảng kinh trước đây ngài từng canh tác, làm ruộng để sinh sống. Ngài nói:
“Sự học đâu cần chùa to cảnh lớn; Giảng đường đẹp, phòng ốc sang trọng cũng chỉ
là phương tiện...
Như vậy nhìn từ đức Phật
đến các vị chân tu thời cận - hiện đại, một đặc điểm chung nổi bật là hạnh
khiêm cung, lối sống tối giản về vật chất và không gian tu hành thanh tịnh...
Không ai chơi đồ gỗ, khoe đá quý, đi xe tiền tỉ, không treo ảnh chụp chung với
quan chức, không chưng bằng chứng nhận "kỷ lục"... Chùa thì nghèo
nhưng các ngài thì giàu: giàu về tâm linh, thâm hậu về oai nghi, giới hạnh...
làm lan tỏa một nguồn năng lượng bình an cho những người đi chùa, rộng ra cho
cả vùng...
Trong văn hóa làng xã
nước ta mái chùa, ngôi đình là những hình ảnh gần gũi thân thương, là nơi cất
giữ hồn cốt của một ngôi làng, một địa phương. Có người ra nước ngoài sinh sống
nhớ quay quắt chùa quê đã thốt lên: mái chùa che chở hồn dân tộc / nếp sống
muôn đời của tổ tông...
Những giá trị văn hóa ấy
ngày nay đang thay đổi chóng vánh, đang bị đảo lộn gây sự hụt hẫng. Các nhà
quản lý có bao giờ đặt câu hỏi chúng ta đang làm gì với văn hoá truyền thống,
với đức tin tâm linh của người dân? Hay tất cả đều quy về một mẫu số chung
là... tiền!? Tiền thu từ chùa chiền thì nhiều nhưng rơi vào tay ai, có đóng
thuế cho nhà nước đồng nào không... là những câu hỏi cần phải có kiểm toán, cần
công khai minh bạch!
Một số ngôi chùa là di
sản của ông cha để lại nay người ta lập “BOT” thu tiền người dân đến viếng!
Cúng sao giải hạn là mê tín là truyền bá đức tin ba sàm, năm nào cũng bị nhân
sĩ trí thức và dư luận phê phán. Vậy nhưng một số chùa thì mũ ni che tai cứ
việc ta ta làm, lại còn chốt giá theo đầu người không cho "cúng"
thiếu... khác nào chốn mua bán!
Nghịch lý là chùa
"thập diện mai phục" đất nước, chùa trăm hoa đua nở, sư tăng hiện
diện trong những nơi đô hội sầm uất... nhưng đạo đức xã hội lại trong tình
trạng cảnh báo nguy cấp, giả dối và bạo lực lên ngôi.
Hoành tráng, hào nhoáng,
vĩ đại, "kỷ lục", vô đối... không phải là những giá trị cốt lõi của
văn hóa dân tộc, càng không phải giá trị của chùa chiền. Tôi tin tưởng đức Phật
sẽ không ở trong những ngôi chùa như vậy.
Mời nhấp chuột đọc thêm:
-
Các bài viết về
chuyện số phận, nhân quảl
-
Chuyện ma quỷ và
truyện liêu trai chí dịl
-
Các bài viết về
ma quỷ, bùa ngảil
-
Các bài viết về
đồng tính luyến áil
Mời nghe nhạc phẩm ĐOẢN CA XUÂN
của Thanh Sơn, qua tiếng hát Quang Linh:
Vũ Quế Lâm giới thiệu
Tác giả: Nguyễn
Đình Trực - nguồn: Phạm Đức Bảo
Ảnh minh họa sưu tầm từ nguồn: internet
Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.
0 comments:
Đăng nhận xét