NGÀY XUÂN NGHE TRẦN XUÂN KỂ CHUYỆN NGƯỜI XƯA - Tác giả: Trần Xuân ; Nguyễn Toàn Thắng giới thiệu

Leave a Comment

 

NGÀY XUÂN NGHE TRẦN XUÂN

KỂ CHUYỆN NGƯỜI XƯA

*

Thưa quý bạn đọc Trang Đặng Xuân Xuyến!

Trước hết xin gửi tới Quý bạn đọc Trang Đặng Xuân Xuyến và gia quyến một năm mới an khang thịnh vượng, vạn sự như ý!

Đầu xuân mới, Nguyễn Toàn Thắng giới thiệu với Quý bạn đọc chùm bài viết của nhà báo Trần Xuân về chuyện các danh nhân được lưu truyền trong dã sử, trong tín ngưỡng thờ cúng của người Việt Nam ta và đối chiếu với những ghi chép trong các cuốn sách sử theo cách đánh giá của tác giả Trần Xuân. 

 

1. LÊ LONG ĐĨNH LÀ ÔNG VUA BỊ LỊCH SỬ BÔI NHỌ THÔ BẠO

Trong các triều đại phong kiến Việt Nam thì Lê Long Đĩnh là ông vua mà sự nghiệp, hành trạng, tính cách bị sử sách vu khống bôi nhọ thô bạo nhất.

Lê Long Đĩnh (986-1009) là ông vua cuối cùng triều Tiền Lê, lên ngôi năm 1005 ,mất năm 1009.Khi đánh giá về ông,các sử gia Việt Nam đã đưa ra thái độ đối lập khen chê rất khác nhau.

Theo Đại Việt sử ký toàn thư thì (tóm tắt):

"Lê Long Đĩnh là một bạo chúa, lấy cỏ gianh quấn quanh người tử tù đốt cho chết. Lấy dao cùn xẻo thịt cho chết từ từ. Nhốt tù binh trong nhà lao dưới nước chờ thủy triều lên dìm chết. Bắt leo cây rồi chặt gốc cho đổ. Tự tay đâm chết bò lợn trước khi giao cho nhà bếp. Róc mía trên đầu sư lấy làm thích thú. Mắc bệnh trĩ do hoang dâm vô độ, lâm triều phải nằm nên gọi là Ngọa Triều...".Lịch sử Việt Nam hiện đại cũng chép gần giống như vậy.

Căn cứ Đại Việt sử ký tiền biên của Sử quan Ngô Thì Sĩ thì Lê Long Đĩnh lại là một con người hoàn toàn khác. Ngài là ông vua thông minh, cường tráng, biết lo cho dân, quan tâm nhiều mặt xã hội. Như có công lớn mở mang đường sá, phát triển thủy nông làm lợi cho dân. Nhà vua còn rất quan tâm phát triển văn hóa, giáo dục và gây dựng nền tảng Phật giáo. Năm 1007 vua sai em là Minh Xưởng cùng Hoàng Thanh Nhã sang sứ nhà Tống xin toàn bộ bộ Cửu Kinh

(Dịch, Thi, Thư, Lễ, Xuân Thu, Hiếu Kinh, Luận Ngữ, Mạnh Tử, Chu Lễ)là những tác phẩm kinh điển hàng đầu, nền tảng văn minh Trung Hoa. Sứ đoàn còn xin được Đại Tạng Kinh là bộ sách đồ sộ, sưu tầm và dịch thuật suốt nghìn năm gồm 5 nghìn quyển. Việc này cũng được Thiền sư Thích Mật Thể ghi trong Việt Nam Phật giáo Sử lược. Về mặt quân sự, Ngài được ca ngợi là ông vua dũng cảm, liền trong bốn năm luôn giữ cương vị Đại tướng cầm quân năm lần đánh dẹp các vùng Hưng Yên, Phú Thọ, Tuyên Quang, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh đều thắng lớn. Qua đó thấy, phải là một người tráng kiện, sức khỏe dẻo dai bền bỉ mới trải qua trận mạc gian khổ như vậy được.

Cũng theo Ngô Thì Sĩ, sau khi Lê Đại Hành mất, các con chia phe phái tranh ngôi, Điện tiền Chỉ huy sứ Lý Công Uẩn đã nảy ra ý làm phản. Và thời cơ đã đến với ông. Năm 1009 "Lý Công Uẩn nhân lúc Khai Minh Vương (Lê Long Đĩnh)ốm nặng bèn sai người vào đầu độc giết đi rồi giấu kín việc đó nên sử không chép!...".

Sự việc này cũng được ghi trong An Nam chí lược của Lê Tắc càng củng cố thêm tính khách quan trung thực của Đại Việt sử ký tiền biên:

"Tháng 3 Lê Long Đĩnh mất rất mờ ám, con mới 10 tuổi bị Lý Công Uẩn soán ngôi". Và ở đoạn khác "Vua Lý cử sứ giả sang nhà Tống triều cống và xin chiếu chỉ. Khi Tống Nhân Tông biết Lý Công Uẩn cướp ngôi liền nói "Chí Trung bất nghĩa mà được ngôi, nay Công Uẩn bắt chước làm bậy càng đáng ghét!" Ngô Thì Sĩ cho biết thêm "Cái tên Ngọa Triều là do Lý Công Uẩn đặt ra để bôi nhọ nhà vua là thô bỉ, vô căn cứ!" Còn trong Khâm định Việt sử Thông giám cương mục chính biên của nhà Nguyễn thì cho rằng cách gọi này không chính xác vì Long Đĩnh không có thụy hiệu. Nay đổi là Đế Long Đĩnh.

Nếu Lê Long Đĩnh là ông vua dâm loạn, bạo ngược như Đại Việt sử ký toàn thư viết thì làm sao tránh được búa rìu dư luận và sự lên án, phỉ nhổ của người dân? Ngược lại, nhà vua được dân tôn vinh đúc tượng thờ chung với vua cha Lê Đại Hành ở Cố đô Hoa Lư, xây lăng ở quê hương Liêm Cần. Ngoài ra, dân chúng nhiều địa phương ở hai tỉnh Thái Bình, Hưng Yên còn kính cẩn xây miếu thờ và lập Ngài làm Thành Hoàng làng.

 

2. CÔ TƯ HỒNG

Về nguồn gốc xuất thân và đời tư ngày nhỏ của Cô Tư Hồng, các nguồn tài liệu đều chép rất sơ sài:

Tên Trần Thị Lan, sinh năm 1868 trong một gia đình nông dân nghèo ở Hà Nam. Năm 17 tuổi cô bị lý trưởng ép duyên để trừ khoản nợ cha cô vay ông ta; cô bỏ trốn ra Thành Nam làm thuê rồi lấy một người bán bún xáo, sống với nhau hai năm, không con.

Sau đó ít lâu có một nhà buôn người Hoa tên Hồng ở Hải Phòng về Nam Định mua thóc rủ cô trốn theo ông ta và hứa sẽ trả nợ đậy cho cha cô. Từ đó cô mang tên thím Hồng hay cô Hồng. Năm 1890 ông Hồng buôn bán thua lỗ bị phá sản, bỏ trốn biệt về Trung Quốc. Tình cờ cô làm quen với một phụ nữ có chồng là doanh nhân người Pháp rủ cô lên sống ở Hà Nội; ai ngờ đó là bước ngoặt quan trọng trong đời cô.

Năm 1892 trong một buổi dạ hội nhân Quốc khánh Pháp 14 - 7 tại tòa Đốc lý, viên quan Tư Pháp Laglan (có bản nói là Garlan) chủ động làm quen rồi trở thành bạn thân của cô. Ít lâu sau hai người tổ chức đám cưới tại Câu lạc bộ sĩ quan trong thành. Từ đó cô có tên mới là Cô Tư Hồng. Và cũng từ đó cô bắt tay vào công cuộc kinh doanh lớn.

Ngay khi mới khai trương Công ty lương thực thực phẩm do cô đứng tên Giám đốc, cô đã may mắn trúng thầu hợp đồng cung cấp hàng cho quân đội Pháp đóng ở Phúc Yên đồng thời cung cấp nhu yếu phẩm cho các trại giam trên toàn cõi Bắc Kỳ. Nhờ quan hệ rộng và tài buôn bán cô đã trở thành gương mặt sáng giá trong giới thượng lưu Hà Thành.

Hai năm sau (1894) cô lại trúng gói thầu phá dỡ tường thành Hà Nội; đây là công việc khó khăn phức tạp đòi hỏi chủ thầu phải có đầu óc sáng suốt nhạy bén. Cô trả lương cao để thu hút sự cộng tác của những nhà chuyên môn có trình độ năng lực tổ chức, giỏi nghề và có tinh thần trách nhiệm như Nguyễn Quang Minh, Bạch Thái Bưởi ... Cô đích thân về quê tuyển nhân công (ngày ấy gọi là phu). Cô không chỉ là người trực tiếp chỉ đạo quản lý, điều hành công việc mà còn tự mình chỉ vẽ, đôn đốc việc dựng lán trại, xây bếp ăn, trạm xá... để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt cho hàng nghìn con người.

Sau hai năm công việc hoàn thành cô tận thu số lượng lớn gạch đá đem xây biệt thự bề thế ở làng Hội Vũ (nay là phố Hội Vũ); xây dãy nhà ở khu vực Cửa Đông, xây trường Puginier (nay là trường Việt Đức).

Hai chiếc ghế đá đặt ở Lê Thái Tổ ngày nay là di sản từ ngày ấy sót lại.

Với số vốn khổng lồ tích lũy qua buôn bán và trúng thầu, cô được xã hội đánh giá là một nữ "phú gia địch quốc". Cô sống trong ngôi biệt thự đồ sộ, sang trọng, kiến trúc tân kỳ; có điện thoại và ô tô riêng là vật sở hữu cao cấp của quan lại Pháp - Nam thời ấy. Không bằng lòng với hiện tại, cô mở thêm hướng kinh doanh mới: Ký hợp đồng xuất khẩu gạo và phát triển giao thông vận tải đường thủy. Một điều ít người biết là trên tàu của cô chỉ thuyền trưởng và thợ đốt lò là đàn ông, còn hết thảy thủy thủ, nhân viên đều là phụ nữ...

Ngoài tài buôn bán làm giầu, Cô Tư Hồng còn được biết đến là một phụ nữ có lòng thương người, thích làm việc thiện, phóng tài sản cứu giúp người hoạn nạn. Ở đâu có thiên tai mất mùa đói kém, y rằng người của cô đã có mặt kịp thời phát chẩn cứu tế. Cô cũng thường can thiệp với nhà cầm quyền xin giảm án hay tha bổng cho những người phạm tội do nghèo đói.

Có lần hai tàu lớn chở đầy thóc của cô đang trên đường từ Nam ra Bắc qua miền Trung thấy dân bị cơn bão lớn tàn phá nhà cửa ruộng vườn, nhiều người chết đói; cô lệnh cho người nhà đem thóc phát hết cứu dân. Chuyện đến tai triều đình, vua Thành Thái ban cô tấm biển vàng "Lạc quyên nghĩa phụ"; sắc phong nhà vua viết "Nữ trung phong nhã chi bảo, hồng trần bạt tục. Thế thượng vân lôi chi hội, bạch thủ thành gia" nghĩa là Hào hoa phong nhã bậc nhất trong đám chị em, đàn bà khác thường. Gặp thời mây tuôn sấm dậy, tay trắng dựng cơ đồ.”

*

Không rõ bà mất chính xác năm nào, chỉ biết mộ bà đặt ở cổng đền (có bản nói chùa) Hai Bà, bia mộ khắc vẻn vẹn ba chữ CÔ TƯ HỒNG.

Với bà ngày ấy (kể cả bây giờ) luôn có hai luồng dư luận khen - chê khác nhau. Người khen đông hơn, còn chê phần lớn là những người ghen tuông đố kỵ. Một vài nhà thơ còn làm thơ, đặt câu đối moi móc đời tư của bà nhằm bêu riếu lăng nhục bà hết sức bỉ ổi.

Nói gì thì nói, ở giai đoạn lịch sử ấy nước ta còn chìm đắm trong đời sống nông nghiệp lạc hậu đói nghèo; một số người thức thời cũng phải nấp bóng nhà cầm quyền đô hộ để tiến thân, làm giầu. Riêng bà đã tự tìm cho mình con đường riêng không lệ thuộc ai, cạnh tranh với những đối thủ sừng sỏ Hoa kiều, Pháp kiều đủ biết bà là người tài cao chí lớn nhường nào!

Nhưng cái đáng ca ngợi nhất là bà luôn mở rộng vòng tay nhân đạo, nhiều lần cứu giúp đồng bào thoát chết đói ở những vùng thiên tai. Chả thế mà suốt trăm năm nay trên nấm mộ đơn sơ trơ trọi của bà vẫn được nhiều người thành kính thắp hương tưởng nhớ .

 

3. NGÔ VĂN SỞ KHÔNG CHẾT NGẦM QUY HÀNG NHÀ NGUYỄN

Qua những cuốn sử chúng ta được biết thì Ngô Văn Sở là viên tướng kiêu hùng được Quang Trung tin dùng, chức phong đến Đại Tư Mã, Tổng trấn Bắc Thành. Trong trận đại phá quân Thanh ở Thăng Long năm 1789 ông được kể là người lập nhiều chiến công hiển hách.

Năm 1792 vua Quang Trung mất, Quang Toản nối ngôi, triều đình nhà Tây Sơn bị phân hóa trầm trọng, bè phái hãm hại lẫn nhau dẫn đến chính biến 1795. Về cuộc chính biến, sách sử đương thời và sau này đều chép: “Năm 1795 Ngô Văn Sở bị Võ Văn Dũng mạo chiếu vua Quang Toản triệu về Phú Xuân rồi đem dìm chết trên sông Hương”.

Nếu căn cứ vào sử liệu này thì cuộc đời và sự nghiệp Ngô Văn Sở đến đó là kết thúc.

Thế nhưng theo Gia phả dòng họ Ngô Văn, một ở Trảo Nha, Hà Tĩnh, một ở Ninh Sơn, Chương Mỹ, Hà Đông (nay là Hoài Đức, Hà Nội)và căn cứ sách "Đại Nam Chính biên liệt truyện sơ tập" thì sự việc lại hoàn toàn khác.

Gia phả ghi Ngô Văn Sở người gốc Trảo Nha, Thạch Hà, Nghệ Tĩnh (nay là Can Lộc, Hà Tĩnh). Bố ông là Ngô Phúc Diễn dời quê định cư ở Gia Định, Ngô Văn Sở ở với ông nội là võ sư Ngô Mạnh Đức, tước Đô thống của Chúa Nguyễn, trấn thủ Linh Giang, Trường Dực.

Khi Ngô Văn Sở giữ chức Tổng trấn Bắc Thành, ông cho người đem Gia phả họ Ngô Văn ở Trảo Nha do Ngô Phúc Điền soạn, Phan Huy Ích hiệu đính đối chiếu với Gia phả Ngô Văn ở Ninh Sơn, Chương Mỹ thì hoàn toàn khớp nhau.

Theo Đại Nam Chính biên liệt truyện sơ tập, năm 1799 Ngô Văn Sở và Võ Tánh giữ thành Bình Định, năm 1801 thành mất, Sở ngầm về với nhà Nguyễn (tiềm quy vu triều).

Như vậy là Ngô Văn Sở không chết năm 1795 dưới triều Quang Toản như một số sử sách đã chép mà là quy thuận Nguyễn Ánh như hàng trăm cựu thần Tây Sơn khác. Sau khi về với nhà Nguyễn ông được đổi làm Chưởng cơ, giữ chức Quản đạo trấn Thanh Hoa ngoại. Sự việc này có chép trong Đại Nam thực lục, tập 3, Hà Nội - 1963.

Cũng theo Gia phả, năm 1788 Ngô Văn Sở kết duyên với bà Nguyễn Thị Đích người Thăng Long, sinh con gái đặt tên là Ngô Thị Chánh (1792 - 1843).Khi Hoàng tử Đảm (người sau này là vua Minh Mệnh). con thứ tư của Gia Long đến tuổi lập Phủ thiếp, bà Chánh được chọn vào Cung năm 1806; bà sinh ra Miên Hoàng tức Vĩnh Tường Quận Vương. Năm 1836 bà được phong Hiền Phi, sắc phong hiện được thờ tại số nhà 42A đường Nguyễn Chí Thanh, thành phố Huế. Căn cứ tài liệu này thì Ngô Văn Sở là thông gia với vua Gia Long và là nhạc phụ vua Minh Mệnh.

Trong cuốn "Việt Nam thời bành trướng Tây Sơn", Sài Gòn xuất bản năm 1968, Tiến sĩ sử học Nguyễn Phương viết: "Việc Võ Văn Dũng mạo chiếu ra Bắc Thành xin Quang Thùy cho Ngô Văn Sở về kinh, nhưng Sở biết trước đã liệu đầu hàng Nguyễn Ánh", trang 352.

Theo Gia phả nhà Nguyễn và nhà nghiên cứu Huế Nguyễn Đắc Xuân thì Ngô Văn Sở không bị giết mà sau theo phò nhà Nguyễn, có con gái làm vợ vua Minh Mệnh.

*

Năm 1822 Ngô Văn Sở mất do tuổi già, an táng tại cánh đồng thôn Hà Lỗ, Hải Tân, Hải Lăng, Quảng Trị. Lăng mộ xây kiên cố trên gò cao bằng gạch vồ, đá gan gà, rộng khoảng 80m2 có thành trong thành ngoài cao 1,50m, dày 0,60m,bốn góc bổ trụ, có bình phong trước sau Mộ bên trong hình chữ nhật chia hai cấp. Phía trước mộ là hương án kiểu sập chân quỳ, không có bia, đặc biệt không có hình trang trí.

Căn cứ vào các nguồn tài liệu thành văn, các Gia phả gốc và ý kiến của một số nhà sử học uy tín, chúng ta có thể tin Ngô Văn Sở không chết bởi tay Võ Văn Dũng năm1795. Tóm lại, ông theo nhà Tây Sơn từ 1770 đến 1801, còn từ 1801 đến năm 1806 về với nhà Nguyễn, qua đời năm 1822, lăng mộ nay vẫn còn.

 

4. SỐ PHẬN KỲ LẠ CỦA BÀ HOÀNG THỊ THẾ CON GÁI CỤ ĐỀ THÁM

Sáng 1/12/1909, Hoàng Hoa Thám bị tấn công bất ngờ để mất đồn Phồn Xương, ông dẫn quân tháo lui về vùng Yên Thế. Cùng ngày, vợ ba của ông là bà Đặng Thị Nho(có sách chép là Nhu), tục gọi bà Ba Cẩn và con gái Hoàng Thị Thế 8 tuổi trên đường chạy giặc bị trung đội Coucron bắt gần đồn Gồ, Yên Thế. Ngày 24/2/1910 bà Ba và 78 người khác bị tống giam Hỏa Lò, Hà Nội, ít tháng sau giải lên tàu thủy lưu đày ở đảo Guyanne (Nam Mỹ).Ngày 25/12/1910 bà nhảy xuống biển tự tử. (Có tài liệu nói bà bị chết vì bệnh lao ở nơi lưu đầy).

Ba năm sau, chính xác là sáng 10/2/1913 Hoàng Hoa Thám bị ba thủ hạ người Hoa phản bội giết hại đem thủ cấp nộp Pháp lĩnh thưởng, chấm dứt trang sử ba mươi năm chống Pháp vẻ vang của người anh hùng dân tộc mệnh danh là Hùm thiêng Yên Thế!

Ông bà có hai người con, đầu lòng là Hoàng Thị Thế. Hoàng Thị Thế, sinh ngày 31/3/1901 ở Phồn Xương, Yên Thế, Bắc Giang.

Sau khi bị bắt, cô được Toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut bảo lãnh nhận làm con nuôi, giao cho nhà tư sản Nguyễn Hữu Thu ở Hải Phòng chăm sóc, cho học một trường Tây ở Bắc Kỳ. Năm 1917 ,

Albert Sarraut đưa cô sang Pháp học tại trường nội trú Jeanne d'Arc ở Biarritz, cô được đặt tên Pháp là Marie Béatrice Destham. Liền đó, cô được Tổng thống Pháp Paul Doumer nhận là cha đỡ đầu, cho cô hưởng khoản trợ cấp thường niên khá hậu hĩnh. Sau khi đỗ tú tài cô được điều về Hà Nội giữ chức Thủ thư tại tòa Thống sứ từ năm 1925 đến 1927. Cuối năm ấy cô trở lại Pháp.

Năm 1928, thấy cô là một phụ nữ nhan sắc, thông minh, học giỏi và có năng khiếu diễn xuất, hãng phim lớn Paramount của Mỹ mời cô thử vai rồi ký hợp đồng đóng vai chính trong phim La Lettre (Bức thư); kịch bản phim được chuyển thể từ tác phẩm văn học nổi tiếng của nhà văn tên tuổi Somerset Maugham. Năm 1931 cô lại được mời đóng phim La Donna Bianca; phim thứ ba cũng là phim chót cô tham gia là cuốn Le Secret de l'émeraude (Bí mật ngọc lục bảo).

Sau nhiều lần xuất hiện trên màn bạc,hình ảnh và tên tuổi đăng tràn lan trên trang nhất các tờ báo lớn, cô trở thành nổi tiếng, được giới phê bình và công chúng yêu điện ảnh ái mộ, đánh giá cao.

Cô sống tại ngôi nhà số 42,đường Moscou, Paris, người cha đỡ đầu tức Tổng thống Pháp Paul Doumer thường đến thăm. Có lần trước đông đảo mọi người ông nói: "Tôi rất khâm phục lòng nhân đạo, độ lượng của ông Đề Thám, ông đã tha mạng cho tướng Gallieni và một số tướng tá khác khi họ thua trận bị bắt. Ông Đề Thám hơn hẳn chúng tôi. Ông bị coi là giặc nhưng chính ông lại là người quân tử thượng võ. Đề Thám đúng là một con người đáng kính phục!"

Năm 1931 cô kết hôn với Bernard Robert Bourges.Năm 1935 sinh con trai Albert Arthur. Tháng 1/1940 ly hôn. Từ đó mọi tài liệu không thấy nhắc đến người con trai nữa.

Năm 1965 (có tài liệu nói 1963, lại có tài liệu nói 1960), nhận lời mời của phó Thủ tướng Phan Kế Toại, bà trở về Việt Nam sống trong căn hộ tầng ba, tập thể Văn Chương. Trong thời gian này bà thường qua lại quê nhà, cộng tác với Bảo tàng Yên Thế, có tài liệu nói bà giữ chức Giám đốc. Bà dùng thì giờ rỗi viết hồi ký. Bà có nhiều đóng góp cho quê hương như giúp một món tiền lớn sửa chữa con đường từ Bắc Giang đến Cầu Gồ...Bà mất tại bệnh viện Hữu Nghị, Hà Nội năm 1988, hưởng thọ 87 tuổi. Mộ bà đặt tại Yên Thế, Bắc Giang.

 

5. TẠI SAO VIỆT NAM LẠI THỜ QUAN CÔNG?

Trong con mắt nhiều người, Quan Công là bậc anh hùng cái thế, tài đức vẹn toàn, được tôn xưng là Đức Thánh Quan thờ ở đền Ngọc Sơn, Hà Nội và nhiều đền phủ khác trong cả nước.

Quan Công, tên gọi đúng là Quan Vũ, tự Vân Trường, Trường Sinh, sinh khoảng năm 161, người quận Hà Đông, huyện Giải. Ông là một nhân vật lịch sử, mà xưa nay nhân vật lịch sử thường mang ba gương mặt rất khác nhau:

1- Gần với sự thật nhất là gương mặt lịch sử.

2- Gương mặt văn nghệ sai lạc rất nhiều do hư cấu, tiểu thuyết hóa.

3- Gương mặt dân gian thì hoàn toàn biến dạng bởi trí tưởng tượng cộng thói mê tín dị đoan.

Nhân vật Quan Vũ như chúng ta hiểu lâu nay thực ra chỉ là nhân vật tiểu thuyết được xây dựng theo kiểu “chiết cây ghép cành” qua ngòi bút tô vẽ hào nhoáng của La Quán Trung trong “Tam Quốc diễn nghĩa”. Để có sự đánh giá khách quan trung thực về ông chúng tôi phải tìm đến bộ CHÍNH SỬ TAM QUỐC CHÍ của Sử quan Trần Thọ - người từng làm quan với nhà Thục và triều Tây Tấn. Danh tác của ông được nhìn nhận là một trong những bộ sử đồ sộ và đáng tin cậy nhất của Trung Quốc. Sau đây là một số dẫn chứng nêu lên sự thiếu trung thực của “Tam Quốc diễn nghĩa” khi đem so với Chính sử.

Sự thực lịch sử người chém Đô đốc Hoa Hùng là bộ tướng của Tôn Kiên chứ không phải Quan Vũ. Không có sự kiện Quan Vũ qua năm ải chém sáu tướng trong đó có Sái Dương, vì mãi sau này Sái Dương mới chết trong trận Nhữ Nam, (việc này cuối bài sẽ nói kỹ hơn). Diễn nghĩa tâng bốc Quan Vũ giết được 17 thượng tướng, thực ra chỉ giết mỗi Nhan Lương, còn lại là hư cấu. Không hề có việc Quan Vũ tha Tào Tháo ở đường Hoa Dung, vì khi liên quân Ngô - Thục đuổi theo thì Tháo đã thoát khỏi đó lâu rồi. Tướng Văn Xú không chết bởi tay Quan Vũ mà chết trong đám loạn quân. Tình tiết Quan Vũ khai nước làm ngập Phàn Thành là hoàn toàn không có thật. Sử chép: tháng Tám năm 219 mưa lớn kéo dài, nước sông Hán dâng cao dìm chết bảy cánh quân của Vu Cấm; Cấm đầu hàng, Bàng Đức bị giết

Quan Vũ không phải là vị tướng bách chiến bách thắng như “Tam Quốc diễn nghĩa” miêu tả. Vì ít mưu trí, thích được tâng bốc, tự cao, tự đại, khinh địch nên khi đối trận với các danh tướng Tào Ngụy, Quan Vũ thường chuốc thất bại. Quan Vũ từng bị Đô đình hầu Lý Thông đánh lui ở Giang Lăng. Năm 200, Tào Tháo đánh Từ Châu, Quan Vũ bị Trương Liêu đánh bại và bị bắt (không phải Trương Liêu dụ hàng như trong Diễn nghĩa). Quan Vũ bị Văn Sính đánh thua ở Hạ Khẩu và Tầm Khẩu. Quan Vũ bị thua và tháo chạy khỏi Tương Phàn khi đối mặt với Từ Hoảng v.v…

Về tính cách thì Quan Vũ là người kiêu ngạo, hống hách, thường hạ nhục, chèn ép, nhẫn tâm với kẻ dưới nên họ luôn ác cảm với ông. Ngoài ra ông còn mắc tật ăn nói lỗ mãng, khinh rẻ người khác, như lần mắng chửi thậm tệ Sứ thần Đông Ngô sang cầu hôn; cơn giận bốc lên ông còn buông lời xúc phạm danh dự cả Tôn Quyền. Đó cũng là một trong những nguyên nhân khiến Đông Ngô quyết định tập kích Nam quận đoạt lại Kinh Châu.

Cũng xin nói thêm, Chính Sử không đề cập đến hình dong, diện mạo Quan Vũ, mọi miêu tả chân dung ông trong “Tam Quốc diễn nghĩa” là do La Quán Trung tưởng tượng ra. Thanh Long đao của Quan Vũ cũng là vật hư cấu, vì mãi 400 năm sau vào đời nhà Đường thứ binh khí này mới được chế tạo. Về việc “qua năm ải chém sáu tướng”. Chính sử chép: Biết Quan Vũ bỏ trốn, nhiều tướng xin lệnh Tào Tháo đuổi bắt trị tội, nhưng Tào Tháo gạt đi. Nghĩa cử cao đẹp của Tào Tháo được Sử thần đời Tấn Bùi Tùng Chi khen là “Tào Công khoan dung, độ lượng”.

Nhắc lại sự kiện Tương Phàn bị Từ Hoảng truy sát, nếu Quan Vũ chạy về hướng Tây Bắc đến các quận Thượng Dung, Phòng Lăng thì cơ may thoát hiểm rất cao, nhưng vì đã từng gây bất hòa với hai tướng Lưu Phong, Mạnh Đạt ở đấy nên ông cho đầu ngựa quay về hướng Nam. Đến lúc nguy khốn ở Mạch Thành ông sai người cấp báo nhưng Mạnh Đạt, Lưu Phong lờ đi không gửi quân đến cứu. Hy vọng cuối cùng của ông là chạy về hướng Giang lăng, Công An do hai tướng Thục My Phương, Sỹ Nhân trấn giữ. Nhưng than ôi mọi chuyện đã quá muộn, My Phương, Sỹ Nhân đã mở toang cổng thành đầu hàng Đông Ngô, chỉ vì trước đó ít ngày họ bị Quan Vũ đe sẽ trừng trị bởi họ phạm một lỗi không lớn!

Cùng đường, ông và Quan Bình, Nguyên soái Triệu Lũy với mươi tên lính men theo lối tắt tìm kế thoát thân nhưng chẳng may rơi vào ổ mai phục, bị Mã Trung bộ tướng của Phan Chương bắt sống. Cả ba đều bị chém đầu tại trận!

Đây là thất bại vô cùng to lớn của tập đoàn Lưu Bị: Mất Kinh Châu, Đại tướng bị giết, đạo quân hùng hậu bị xóa sổ! Theo nhà nghiên cứu Trương Tác Diệu thì trách nhiệm chủ yếu trong lần thất bại này thuộc về Lưu Bị và Gia Cát Lượng vì đã phó thác Kinh Châu - một vùng đất rộng lớn, đông dân, vị trí chiến lược quan trọng cho Quan Vũ là người hữu dũng vô mưu, quá tin vào sức mình.

Liệu một người tài trí, đức hạnh chỉ ở mức bình thường, lại không phải tổ tiên của ta như Quan Vũ thì có đáng để ta thờ phụng không? Rất có thể có người nói sở dĩ Quan Vũ đáng được tôn thờ vì ông luôn đề cao lòng trung nghĩa đối với Lưu Bị và nhà Thục Hán. Đúng thế, nhưng xét rộng ra thì những người làm quan, làm tướng thời ấy phần đông đều thấm nhuần đạo lý “Trung quân ái quốc” của Khổng - Mạnh. Như Trương Chiêu, Lỗ Túc, Chu Du… bên Đông Ngô; Giả Hủ, Nhạc Tiến, Từ Hoảng… bên Tào Ngụy và hàng nghìn người khác thà chết không thờ hai chủ; đâu chỉ một mình Quan Vũ có đức tính cao đẹp ấy!

 

Mời nhấp chuột đọc thêm:

- Các bài viết về khoa Tử Vi0

- Các bài viết về khoa Phong Thủy0

- Các bài viết về khoa Tướng thuật0

- Các bài viết về Tín ngưỡng0

- Các bài viết về Biên khảo0

- Các bài viết về Kiến thức cuộc sống0

- Các bài viết về Chuyện làng văn0

 

Mời thư giãn với nhạc phẩm BÀI CA TẾT CHO EM

của Quốc Dũng, qua tiếng hát Khưu Huy Vũ:

0 comments:

Đăng nhận xét