NHẤT LINH, NGỌN ĐUỐC TRONG ĐÊM
Nhất Linh tên thật Nguyễn Tường Tam, sinh
ngày 25 tháng 7 năm 1905 tại huyện Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương. Nguyên quán làng
Cẩm Phô, Điện Bàn, Quảng Nam. Ông nội Nhất Linh trước đó làm Tri Huyện Cẩm
Giàng, gọi là Huyện Giám. Ông chỉ có người con trai duy nhất là Nguyễn Tường
Nhu làm Thông Phán, gọi là Thông Nhu. Lập gia đình với bà Nguyễn Thị Sâm, có
được 7 người con.
Trong quyển Hồi Ký Về Gia Đình Nguyễn Tường
của bà Nguyễn Thị Thế (thân mẫu nhà văn Duy Lam), ấn hành năm 1974 ở Sài Gòn:
“Thứ tự gia đình tôi theo đúng tuổi là anh cả Nguyễn Tường Thụy sau nầy làm
Tổng giám đốc bưu điện, sinh năm Quý Mão (1903), anh hai Nguyễn Tường Cẩm, Kỹ
sư canh nông, Giám đốc báo Ngày Nay, sinh năm Giáp Thìn (1904), anh ba Nguyễn
Tường Tam, Nhất Linh, Nhị Linh chủ trương Tự Lực Văn Đoàn, sinh năm Bính Ngọ
(1905), anh tư Nguyễn Tường Long, Tứ Ly, Hoàng Đạo trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn,
sinh năm Đinh Mùi (1907), tôi Nguyễn Thị Thế, sinh năm Kỷ Dậu (1909), em sáu Nguyễn Tường Vinh (Lân), Thạch Lam trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn, sinh năm Canh Tuất (1910), em bẩy Nguyễn Tường Bách,
Bác sĩ, sinh năm Bính Thìn (1916)” (trang 39). Trong thập niên 30, 40 anh em
trong gia đình ông đã dấn thân vào văn học nghệ thuật, và theo dòng thời gian,
thế hệ con cháu trong đại gia đình ông đã hiện diện nhiều khuôn mặt văn nghệ,
trở thành truyền thống trong dòng họ.
Thuở nhỏ, ông theo học tiểu học tại Cẩm
Giàng, học trung học tại trường Bưởi ở Hà Nội, năm 1923, ông đậu bằng Cao Tiểu,
làm thư ký Sở Tài Chánh Hà Nội. Ông lập gia đình với bà Phạm Thị Nguyên, cũng
lối xóm với nhau ở Hà Nội và tiếp tục theo học về ngành Y và Mỹ Thuật, mỗi năm
mỗi ngành rồi lại bỏ. Tuy là người theo Tây học nhưng vấn đề hôn nhân, ông để
cho thân mẫu quyết định, bà Nguyễn Thị Thế viết: “Mẹ dục mãi anh mới chịu đi
coi. Mà có khó khăn gì đâu. Nhà cô ta ở ngay bên nhà bác Ba bạn mẹ tôi... Đám
cưới xong, mẹ tôi lại đi cân gạo với các bà bạn. Anh Tam cũng thôi đi làm xin
vào học trường Cao Đẳng Hội Họa. Chị Tam dọn hàng bán cau ở ngay nhà...”. Năm
1925, ông bước chân vào làng văn với tác phẩm Nho Phong, và sau đó với tác phẩm
Người Quay Tơ.
Năm 1927, ông du học tại Pháp. Theo nhà văn
Duy Lam, chính phủ Pháp tài trợ một nửa cho con cái các vị quan lại có mức sống
trung lưu, một nửa do gia đình. Năm 1930, ông đậu bằng Cử Nhân Khoa Học Giáo Khoa
(Lý Hóa) và trở về nước trong năm đó.
Trong tác phẩm Văn Thi Sĩ Tiền Chiến của
Nguyễn Vỹ, NXB Khai Trí - Sài Gòn 1969:
“Anh Phan Thanh, cựu trợ giáo người Quảng
Nam, nhân viên “Đại Hội Đồng Kinh Tế và Tài Chánh Đông Dương”, và giáo sư Trung
học Tư thục Nguyễn Văn Tòng, giới thiệu tôi dạy Pháp văn và Sử Ký ở trường ấy.
Đó là năm 1930. Hầu hết những giáo sư cũ đều
nghỉ hoặc đi dạy các trường khác. Ông Nguyễn Tường Tam, tân Hiệu Trưởng, dùng
những giáo sư mới của ông, trong số đó có thầy giáo Trần Khánh Giư.
Trường cũng đổi tên là “École Thăng Long”, ở
góc đường Hàng Cột (rue de Takou), và đường Cửa Bắc (Bd Carnot), ngó ngang bót
Cảnh Sát Hàng Đậu (rue des Graines), tức là con đường chạy ra Cầu Sông Cái (Bờ
Sông).
Một năm sau, người ta thấy rải rác trên các
vách tường trong thành phố dán một tờ quảng cáo lớn loan tin một tờ báo hài
hước sắp ra đời, tên là “Phong Hóa tuần báo, Chủ Nhiệm Nguyễn Tường Tam. Tòa
soạn và ban trị sự đặt tại trường Thăng Long, phố Hàng Cót” (sđd trang126-127).
Theo Nhật Thịnh trong quyển Chân Dung Nhất
Linh thì: “Hồi Nhất Linh còn dạy trường Thăng Long, ông để ý tới một bài khảo
luận ngắn trên báo Văn Học, ký tên Bán Than. Chắc anh chàng nầy có họ với ông
Trần Khánh Dư đời Trần, tác giả bài:
“Một gánh kiền khôn ruồi xuống ngàn
Hỏi chi bán đấy? gửi ông than”.
Đột nhiên ông nhớ tới giáo sư Trần Khánh Giư,
một người kín đáo, dễ thương, từ đó hai người biết nhau. Nhất Linh thấy Khái
Hưng có những khả năng hiếm có về văn chương. Ông là con cụ tuần Trần Mỹ theo
học trường Albert Sarraut, đỗ tú tài Triết Học, có đủ điều kiện và thế lực ra
làm quan, mà ông từ chối. Không chịu sống đời lệ thuộc. Nhất Linh nhận thấy rõ
điều đó”.
Theo Viễn Sơn Nguyễn Tường Bách (em út của Nhất
Linh) trong hồi ký Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua: “Năm 1932, cùng một số anh em, anh sáng lập tờ báo Phong Hóa có thể gọi là mở một thời kỳ mới trong văn học. Cùng với số nhà văn tài hoa, anh thành lập Tự Lực Văn Đoàn, đánh dấu sự phồn thịnh văn học. Năm 1935, tờ Ngày Nay được xuất bản. Năm 1936,
anh khởi xướng Phong Trào Ánh Sáng xây dựng nhà rẻ tiền cho người nghèo”.
Năm 1932, tờ Phong Hóa phát hành hằng tuần
vào ngày thứ Năm, không tạo được tiếng vang trong làng báo. Hồi ký Trong Bếp
Núc Của Tự Lực Văn Đoàn, nhà thơ Tú Mỡ viết: “Bấy giờ, nhân dịp có tờ Phong Hóa
của anh Phạm Hữu Ninh quản trị, anh Nguyễn Xuân Mai, giám đốc chính trị, loại
báo vô thưởng vô phạt, đang sống dở chết dở vì không ai buồn đọc, sắp sửa phải
đình bản. Anh Tam đề nghị với hai anh nhượng lại tờ báo cho mình làm chủ bút,
hai anh vẫn đứng tên quản trị và giám đốc chính trị làm vì, mỗi tháng lĩnh mấy
chục bạc lương (tức là tiền cho thuê báo). Tất cả đều hỉ hả: anh Ninh và anh
Mai trút được gánh nặng mà khỏi đình bản; anh Tam sẵn có tờ báo thay cho tờ
Tiếng Cười chắc là không được phép xuất bản” (Tạp chí Văn Học số 5 tháng
6-1988). Nhất Linh hiện diện trên tờ Phong Hóa, số 14 ra mắt ngày 22-9-1932,
dưới hàng chữ Phong Hóa nơi trang đầu: Director politique: Nguyễn Xuân Mai,
Administrateur: Phạm Hữu Minh, Directeur: Nguyễn Tường Tam.
Trong hồi ký của bà Nguyễn Thị Thế đã ghi rõ
về giai đoạn nầy: “Sau khi đi Pháp về, anh Tam dạy học ở trường Thăng Long Hà
Nội được ít lâu, sau mở báo lấy tên “Tiếng Cười” chủ tâm đem tiếng cười ra cho
mọi người vui vì thời bấy giờ nhiều người khóc quá rồi. Nào văn bà Tương Phố
khóc chồng, Đạm Thủy, Tố Tâm truyện cũng lâm ly thảm thiết.
Tiếc thay chính quyền lại không hiểu thiện
chí ấy nên không cho phép, sau có người bạn nhường lại tờ Phong Hóa (1932). Bao
đêm anh Tam cặm cụi viết bài vì lúc đầu chưa ai cộng tác, họ lại lo ế không bán
được, anh đề nghị nếu ế thì cả nhà vừa đi vừa rao bán cho kỳ hết mới chịu. Mẹ
tôi bảo khó gì, nếu bán không hết, mang về cho mợ gói cau càng tiện” (sđd Trang
116)... “Báo Phong Hóa ngày càng gia tăng và số anh em cộng tác cũng nhiều ,
nhưng tiền vốn quá ít nên phải tiết kiệm” (trang119)... “Báo bán chạy, các anh
về nói với mẹ tôi gọi cổ phần hùn vốn mua nhà in vừa in báo vừa in thuê sẽ lời
nhiều. Thế là nhà in Ngày Nay ra đời” (sđd trang 120).
Năm 1933, thành lập Tự Lực Văn Đoàn gồm: Nhất
Linh, Khái Hưng, Tú Mỡ, Thạch Lam, Hoàng Đạo, và Thế Lữ.
Năm 1936 tờ báo Phong Hóa bị đóng cửa, tờ
Ngày Nay do anh ông là Nguyễn Tường Cẩm điều khiển. Tờ báo có rất đông độc giả
trung thành nhưng đến năm 1940, số phát hành chót vào ngày 2-9-1940, thực dân
Pháp ra lịnh cấm chỉ. Tháng 5-1945, tờ Ngày Nay tục bản được vài tháng rồi đình
bản.
Theo Tú Mỡ: “Báo Phong Hóa làm ăn phát đạt,
số báo in càng ngày càng tăng. Lúc đầu gặp hồi kinh tế khó khăn, mấy anh em đem
hết tài lực làm việc quên mình, không vụ lợi. Bốn anh em giường cột trong tòa
soạn (anh Tam, anh Long, anh Giư, anh Thế Lữ) tình nguyện chỉ lĩnh mỗi tháng 50
đồng đủ sống, để dành tiền lãi làm vốn cho báo phát triển...
Nhưng... đến cuối năm đó, tính sổ mới ngã
ngửa ra: lời lãi chia theo số vốn, phần lớn chui vào két nhà tư sản. Anh bèn
họp với anh em phải chấm dứt tình trạng “thằng còng làm thằng ngay ăn”. Không
thể chơi với nhà tư sản được...
Thế là anh em quyết định thành lập “Tự Lực
Văn Đoàn” trên nguyên tắc là làm ăn dựa trên sức mình, theo tinh thần anh em
một nhà: tổ chức không quá sôá 10 người nên không phải xin phép Nhà nước, không
cần có văn bản , điều lệ: lấy lòng tin nhau làm cốt, chỉ nêu ra trong nội bộ
mục đích, tôn chỉ, anh em tự nguyện tự giác tuân theo”... “... Đoàn viên nòng
cốt của Tự Lực Văn Đoàn là những nhà văn trong tòa soạn báo Phong Hóa: Anh Tam
(đứng đầu giám đốc đoàn). Các anh Long, Lân, Giư, Tú Mỡ và Thế Lữ, tất cả chỉ
có 6 người. Anh Tam đề nghị kết nạp thêm một người nữa cho đủ số “thất tinh”.
Anh Giư giới thiệu anh Trần Tiêu, em ruột anh, một giáo viên trường huyện,
thích viết văn, đang viết truyện dài “Con Trâu”, cả đoàn đồng ý. Về sau anh Giư
có ngỏ ý mời anh Đoàn Phú Thứ vào đoàn nhưng anh nầy rất tán thành mục đích,
tôn chỉ của đoàn, song chỉ xin ở ngoài cộng tác cho được hoàn toàn tự do, không
muốn một tí gì ràng buộc. Sau cùng, theo đề nghị của anh Tam, đoàn chỉ kết nạp
thêm anh Xuân Diệu, vị chi là “bát tú”...”
“... Phong hóa bị đóng cửa, Tự Lực Văn Đoàn
không bị bó tay vì đã có sẵn tờ Ngày Nay thay thế... Có thể nói Ngày Nay là
hình ảnh chân thực của tâm trí mọi tầng lớp bình dân trong nước; là người bạn
tri kỷ, vui vẻ khuyên nhủ mọi người mách bảo những sáng kiến hay cần thiết cho cuộc đời mới. Việc biên soạn do những cây bút cũ của Phong Hóa cùng nhiều nhà văn mới hợp thành đội ngũ hài hòa”.
Tính tình điềm đạm, hòa nhã, Nhất Linh biết
trân quý và chân tình từng cây bút, mỗi cây bút đều có sự mến chuộng của một số
độc giả vì vậy phương cách xử sự của ông cũng là kinh nghiệm cho giới làm báo.
Bên cạnh lãnh vực văn hóa, Nhất Linh dấn thân
vào con đường chính trị để chống Pháp, giai đoạn đó được Viễn Sơn Nguyễn Tường
Bách ghi lại: “Nhưng dù đã đạt tới điểm cao của danh vọng, anh cũng quyết tâm
dấn mình vào cuộc đời cách mạng gian nan và đầy chông gai. Năm 1938, cùng với
một số bạn hữu, anh thành lập đảng Đại Việt Dân Chính. Năm 1941, do Pháp khủng
bố, anh phải chạy sang Trung Quốc, kết hợp với Việt Nam Quốc Dân Đảng, và hợp
tác với cụ Nguyễn Hải Thần. Năm 1945, tháng 11, anh trở về Hà Nội, tổ chức hàng
ngũ quốc gia chống lại Việt Minh Cộng Sản. Vì tình thế thúc đẩy, tháng 2 năm 46,
anh giữ chức Bộ Trưởng Ngoại Giao trong chính phủ Liên Hiệp Kháng Chiến. Nhưng
từ tháng 4-46, hai bên phá liệt, anh lại sang Trung Quốc, lưu vong một lần nữa.
Năm 1947, vì phản đối việc thoả hiệp với
Pháp, anh ở lại HongKong cho tới 1951, vì sức khoẻ yếu, anh về nước, với dự
tính chỉ hoạt động về văn học”.
Năm 1951, mở nhà xuất bản Phượng Giang, hậu
thân NXB xuất bản Đời Nay, tái bản sách của Tự Lực Văn Đoàn.
Năm 1953, Nhất Linh lên Đà Lạt, sống ẩn dật
với cây cảnh.
Năm 1954, đất nước bị chia cắt hai miền Nam-Bắc,
Nhất Linh sống tiếp ở Đà Lạt 4 năm rồi mới về Sài Gòn để tiếp tục dấn bước trên
con đường văn học và trở lại con đường chính trị vào năm 1960 khi thành lập Mặt
Trận Quốc Dân Đoàn Kết.
Giai đoạn nầy được ghi rõ qua hồi ký của
người em: “Anh cả đổi vào Saigon làm việc (Giám Đốc Bưu Điện) hai năm trước
hiệp định Genève. Mẹ tôi cũng vào để kịp gặp anh Tam trước khi anh sang Pháp
thăm người con trai lớn du học bên đó. Ở được ít tháng anh lại về, lên ở luôn
Đà Lạt vào rừng kiếm lan.
Anh rủ mấy người bạn mua đất ở Phiên Nôm bên
dòng suối Đa Mê cách Đa -Lạt hai mươi lam cây số, hạ cây rừng xẻ gỗ làm nhà.
Nhà mới dựng lên vì thợ sơ ý không chống kỹ
nên đổ sập xuống, kèo cột gãy hết. Mẹ tôi cho là điềm không hay nên không cho
dựng lại nữa. Thế là hai lần định tạo dựng đều không thành cả. Chỉ còn lại nhà
bếp, mẹ tôi ở được ít lâu thì đau. Anh Tam phải đưa về ở căn nhà nhỏ của chị
Tam mua từ hối 1954 ở đường Lý Thái Tổ” (NTT - sđd trang 147).
Bà Nhất Linh vẫn tiếp tục công việc buôn bán
cau trầu nuôi con cái ở An Đông, Chợ Lớn. Trở về sum họp với gia đình, Nhất
Linh bắt tay vào sinh hoạt văn hóa, ông là vị Chủ Tịch đầu tiên của Văn Bút
Việt Nam được hình thành vào năm 1958. Giai đoạn cuối đời được ghi nhận trong
Thành Ngữ Điển Tích Danh Nhân Tự Điển của GS Trần Văn Thanh, ấn hành tại Sài
Gòn 1967:
“Đến năm 1958, Nhất Linh rời bỏ rừng núi Đà
Lạt về Sài Gòn để cho ra mắt độc giả giai phẩm Văn Hóa Ngày Nay (số 1 Văn Hóa
Ngày Nay xuất bản ngày 17-6-58). Giai phẩm này được chiếm đa số độc giả và đã
thành công rực rỡ. Những người cộng tác thường xuyên trong Văn Hóa Ngày Nay gồm
có: Đỗ Đức Thu, Nguyễn Thị Vịnh, Linh Bảo, Duy Lam, Trương Bảo Sơn, Bình Nguyên
Lộc, Tường Hùng.
Văn Hóa Ngày Nay của Nhất Linh bắt đầu cho
đăng tập trường giang tiểu thuyết. Xóm Cầu Mới gồm có những cuốn khác như: Cô
Mùi, Người Chiến Sĩ, Nhà Mẹ Lê, Người Sát Nhân, Cậu Ấm, Ông Năm Bụng. Theo Nhất
Linh, ông định viết độ hai chục cuốn nữa để thành một bộ tiểu thuyết gồm chừng
một vạn trang mô tả đầy đủ sự phức tạp và muôn mặt của cuộc đời. Mọi người đang
mong thưởng thức công trình to tát ấy thì Văn Hóa Ngày Nay đến số 11 tháng 5
năm 1958 lại đình bản, và hơn một lần nữa truyện Cô Mùi và mối tình của cô cũng
vì đó mà thành ra dang dở.
Trong giai phẩm văn nghệ Tân Phong ra vào
tháng 8 năm 1959, ta chỉ thấy thỉnh thoảng Nhất Linh có một vài truyện ngắn,
còn truyện dài trong Văn Hóa Ngày Nay không thấy ông đăng tiếp.
Năm 1961, ông cho xuất bản một tập khảo luận
về tiểu thuyết nhan đề là Viết Và Đọc Tiểu Thuyết.
Dù sau này Nhất Linh khó lòng lấy lại được phong
độ ngày nào của nhóm Tự Lực Văn Đoàn trên tờ Phong Hóa, Ngày Nay và ngọn đuốc
văn hóa mà ông đã từng cầm trong bao nhiêu năm phải trao về cho những người
trong thế hệ mới, nhưng mọi người không thể phủ nhận được giá trị những công
cuộc tranh đấu của ông và nhóm Tự Lực Văn Đoàn cách đây hơn ba mươi năm, nhằm
mục đích chống phong kiến, chống thực dân, phổ biến những quan niệm nhân quyền
và dân quyền, trình bày những quan niệm tiến bộ về cá nhân, về gia đình và xã
hội.
Để phản đối chính quyền độc tài của Ngô gia.
Nhất Linh đã dùng độc dược quyên sinh vào đêm 7 tháng 7 năm 1963 tại nhà riêng
để lại hình ảnh cao quý trong lòng mọi người thân mến và giới văn nghệ một niềm
luyến tiếc chân thành. Ông thọ 58 tuổi”.
Ông để lại lời tuyên bố:
“Đời tôi để cho lịch sử xử, tôi không chịu để
ai xử cả. Sự bắt bớ và xử tội tất cả các phần tử Đối Lập Quốc Gia là một tội
nặng sẽ làm cho nước mất về tay Cộng Sản. Tôi chống đối sự đó và tự hủy mình
cũng như Hòa Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu để cảnh cáo những người chà đạp mọi
thứ tự do” - Nhất Linh Nguyễn Tường Tam 7-7-1963. Trước linh cữa của người quá
cố, Linh Mục Thanh Lãng, Chủ Tịch Văn Bút Việt Nam (Nhất Linh trở thành cố vấn)
đã ngỏ lời tiễn biệt:
“Anh Nhất Linh, trong lúc nước mắt tràn lên
các khuôn mặt này, trong lúc tiếng nấc trong các cổ họng này, trong lúc những
bàn tay đang run run tung lên anh những vốc đất mà tôi gọi là những Cánh Hoa
Hồng này, thì lại chính là lúc anh đi vào lịch sử giữa huy hoàng, chúng tôi đến
đây để nghiêng mình trước ngai vàng lịch sử đã dọn cho anh”. Sau ba chục năm,
con cháu trong gia tộc đã đưa di cốt nhà văn Nhất Linh ở Sài Gòn và vợ ông ở
Pháp trở về nguyên quán. Trong bài Nắm Cỏ ĐưaVề Tấc Đấc Xưa của nhà văn Phạm
Phú Minh trong Tạp Chí Thế Kỷ 21 (tháng 7-2002) đã ghi:
“... Theo anh Nguyễn Tường Thiết, con trai út
của nhà văn cho biết thì năm 1975, chính quyền cộng sản giải tỏa nghĩa trang
chùa Giác Minh ở Thông Tây Hội (Gia Định), anh Nguyễn Tường Thạch là là con
trai Nhất Linh đã hỏa thiêu di cốt của cha và gửi bình tro tại chùa Kim Cương
đường Trần Quang Diệu tại quận Ba Sài Gòn. Trong khi đó, năm 1982 bà Nguyễn
tường Tam sang Pháp đoàn tụ với con, nhưng cũng trong năm nầy bà qua đời, được
an táng tại nghĩa trang ở Pháp.
Năm ngoái, 2001, các người con của ông bà
Nhất Linh đã quyết định dời mộ ông bà và của người con gái lớn là chị Thư về
Quảng Nam, nguyên quán của gia tộc Nguyễn Tường. Hài cốt của bà đã được hỏa
thiêu tại Orsay (Pháp), sau đó được hai nguòi con là anh Việt và chị Thoa đưa
về Sài Gòn vào tháng Tư 2001. Anh Nguyễn Tường Thiết từ Mỹ đã về Sài Gòn trước,
đón di cốt bà đưa về chùa Kim Cương, nơi nầy di cốt của ông đã được gửi thờ từ
khoảng hai chục năm nay. Ngày 27-4-2001 nhà chùa đã làm lễ cầu siêu trọng thể với
sự có mặt của tất cả thân thích trong họ có mặt ở Sài Gòn. Ngay sau khi lễ, di
cốt của ông bà Nguyễn Tường Tam và của chị Thư được đưa lên tàu hỏa đi Quảng
Nam, miền Trung Việt Nam.
Ngày 28-4-01 cử hành lễ chôn cất các di cốt
tại nghĩa trang riêng của họ Nguyễn Tường ở Hội An. Mộ của ông bà Nguyễn Tường
Tam nằm gần mộ cụ tổ Nguyễn Tường Phổ, người đầu tiên của họ Nguyễn Tường ra
làm quan và lập ngiệp ngoài Bắc, nhưng khi mất đã được mang về an táng tại quê
nhà”.
Nhất Linh là nhà văn nhà báo đã có công đóng
góp cho nền văn học và báo chí Việt Nam trong thế kỷ XX. Ông học Lý Hóa nhưng có năng khiếu trên nhiều lãnh vực về Văn Học Nghệ Thuật và đã thành công rực rỡ. Ông cũng am tường về âm nhạc và hội họa. “Cũng có lần nhờ tài vẽ để kiếm ăn khi lưu lạc ở Cao Miên và Sài Gòn ông đi vẽ phông các rạp
hát” (Một Vài Nét Về Chân Dung Nhất Linh - Tường Hùng, Tạp chí Văn, số 61,
1-7-1966).
Với nhân cách của con người hoạt động chính
trị, văn học và báo chí, Nhất Linh giữ được nhân cách của mình kể từ khi bước
chân vào đời. Hình ảnh đó được thể hiện qua ngòi bút của người cháu: “Trí nhớ
và sự khiêm tốn không cho tôi nói nhiều về một người chú mà tôi kính mến. Đáng
lẽ tôi phải nói vài tật xấu để cho rõ chân dung Nhất Linh hơn, nhưng tôi xin
thú thực sau bao năm ở gần Nhất Linh, tôi chưa được biết một tính xấu nào của
Nhất Linh” (Một Vài Nét Về Chân Dung Nhất Linh - Tường Hùng, Tạp chí Văn số 61,
1-7-1966.
Theo nhận định của nhà thơ Đông Hồ trên tờ
Bách Khoa số 180 (1-7-1964) cũng là ý nghĩa của mọi người về nhà văn Nhất Linh:
“Sự nghiệp của Nhất Linh ở đây thật là một sự
nghiệp đáng kể mà tôi tưởng đương thời và hậu thế cũng đều công nhận”.
Tác phẩm của Nhất Linh: Nho Phong (1924),
Người Quay Tơ (1926), Anh Phải Sống (cùng Khái Hưng, 1932 - 1933), Gánh Hàng
Hoa (cùng Khái Hưng,1934), Đời Mưa Gío (cùng Khái Hưng, 1934), Nắng Thu (1934),
Đoạn Tuyệt (1934-1935), Đi Tây (1935), Lạnh Lùng (1935-1936), Hai Buổi Chiều
Vàng (1934-1937), Thế Rồi Một Buổi Chiều (1934-1937), Đôi Bạn (1936-1937), Bướm
Trắng (1938-1939), Xóm Cầu Mới (1949-1957), Viết Và Đọc Tiểu Thuyết
(1952-1961), Giòng Sông Thanh Thủy (1960-1961) tác phẩm cuối cùng, gồm ba tập:
Ba Người Bộ Hành, Chi Bộ Hai Người, Vọng Quốc.
Dịch phẩm: Đỉnh Gió Hú, Wuthering Heights của
Emily Bronte (đăng báo 1960, xuất bản 1974). (Hoàng Hải Thủy phóng tác tác phẩm
nầy được nhiều độc giả biết đến).
* Lá Thư Tuyệt Mệnh
Trong cuốn Tự Điến Danh Nhân Thế Giới của
Trịnh Chuyết, xuất bản tại Sài Gòn năm 1970 phần nói về Nhất Linh với Lá Thư
Tuyệt Mệnh chỉ có 68 chữ:
"Đời tôi để lịch sử xử. Tôi không chịu
để ai xử tôi cả. Sự bắt bớ và xử tội những phần tử quốc gia đối lập là một tội
nặng, sẽ làm cho nước mất về tay Cộng sản. Vì thế tôi tự hủy mình cũng như Hòa
Thượng Thích Quảng Đức đã tự thiêu là để cảnh cáo những ai chà đạp mọi thứ tự
do."
Qua bài viết Sự Thật Về Cái Chết Của Nhất
Linh của Nguyễn Tường Thiết có scan lại lá thư tuyệt mệnh với 71 chữ:
“"Đời tôi để lịch sử xử. Tôi không chịu để ai xử tôi cả. Sự bắt bớ và xử
tội tất cả các phần tử đối lập quốc là một tội nặng và làm cho nước mất về tay
cộng sản. Tôi chống đối sự đó và tự hủy mình cũng như Hòa Thượng Thích Quảng
Đức đã tự thiêu để cảnh cáo những người chà đạp mọi thứ tự do." Nhất Linh
Nguyễn Tường Tam.
Về cái chết của Nhất Linh có vài bài viết bóp
méo sự thật, hơn bốn thập niên sau, anh Nguyễn Tường Thiết minh chứng sự thật
(trích những đoạn chính):
“... Kể từ ngày đầu tiên đoàn tụ năm 1950 ấy
cho đến ngày ông qua đời 7-7-1963, tôi là người con đã sống gần gũi với cha tôi
nhất trong số tất cả những người con của ông. Lý do là khi cha tôi vào Nam năm
1951, ông kéo tôi đi theo ông, trong khi mẹ và các anh chị tôi ở lại Hà Nội cho
đến năm di cư 1954. Và sau đó năm 1955 khi ông quyết định bỏ Sài Gòn lên sống
trên Đà Lạt, tôi lại là người ông mang theo để sống gần ông. Là người con vừa
thân cận vừa được tín cẩn, tôi là người vừa biết rõ nhất về ông cụ tôi, lại là
người chứng kiến cái chết của ông trong những giờ phút cuối cùng...
... Là người con hiểu rõ ông cụ tôi, tôi tin
rằng khi cha tôi tuyên bố từ bỏ cuộc đời làm chính trị ông đã thành thật với
mình. Tuy nhiên thời cuộc đưa đẩy buộc ông phải sống trái với ý muốn của mình.
Về cuối đời cha tôi bị liên lụy vì liên quan đến một vụ chính biến, đưa đến cái
chết của ông ngày mồng 7 tháng 7 năm 1963.
Cái chết ấy mang mục tiêu chính trị rõ rệt.
Ông tự vẫn để “cảnh cáo những người chà đạp lên mọi thứ tự do”, như ông đã viết
ra trên giấy trắng mực đen.
Nguyên nhân và động lực đưa đến cái chết của
Nhất Linh đã được ông viết ra bằng 71 chữ rất minh bạch và đầy đủ:
Đời tôi để lịch sử xử, tôi không chịu để ai
xử tôi cả. Sự bắt bớ và xử tội tất cả các phần tử đối lập quốc gia là một tội
nặng sẽ làm cho nước mất về tay cộng sản. Tôi chống đối sự đó và tự hủy mình
cũng như hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu để cảnh cáo những người trà đạp
mọi thứ tự do.
7-7-63
Nhất Linh Nguyễn Tường Tam
... Như đã nói ở trên vào năm 1955 cha tôi
quyết định lên Đà Lạt sống và tôi là người ông chọn để đi cùng với ông. Ông cụ
thu xếp cho tôi thi tuyển vào lớp Đệ Lục trường trung học công lập Quang Trung
niên khoá 1955-56. Chúng tôi ở trên lầu 2 nhà hàng Poinsard & Verey số 12
đường Yersin Đà Lạt. Sau này các anh chị tôi cũng thường lên Đà Lạt vào những
dịp hè hoặc Tết nhưng không ai ở luôn trên ấy, chỉ trừ chị Thoa là người chị kế
của tôi. Những năm đầu tiên trên Đà Lạt là những năm thanh bình. Cha tôi chơi
lan, hòa nhạc tại gia vào cuối tuần. Thỉnh thoảng ba chúng tôi (cha tôi, chị
Thoa và tôi) đi pic-nic trên núi Langbian hoặc ở Suối Vàng...
... Năm 1958 cha tôi ra tờ báo Văn Hoá Ngày
Nay. Tự tay cha tôi vẽ và trình bầy bìa cho tờ đặc san này. Ở trên góc bìa đề
hàng chữ lớn: Số ra mắt 17-6-1958. Chúng tôi không một ai để ý đến cái ngày
17-6 có ý nghĩa gì cho mãi đến khi tôi gặp anh Lê Hưng. Anh Hưng nói với tôi
trước bàn thờ ông cụ: ‘Anh Tam làm cái gì cũng tính toán rất kỹ lưỡng. Anh chọn
ngày ra báo 17-6 là ngày giỗ của đảng trưởng Nguyễn Thái Học, cũng như anh chọn
ngày chết 7-7 là ngày chấp chánh của họ Ngô để phản đối chế độ này’.
Ở Sài Gòn báo Văn Hoá Ngày Nay bán rất chạy
ngay từ số đầu tiên... Nhưng báo chỉ ra được 11 số thì tự ý đình bản. Chúng tôi
chưng hửng hỏi ông cụ tại sao báo bán chạy thế mà lại tự ý ngưng? Cha tôi không
trả lời. (Ông không có thói quen tiết lộ mọi chuyện cho con cái). Nhưng thái độ
của ông lúc ấy rất buồn bã...
... Trong cuốn sách “Nhất Linh, Người Nghệ Sĩ
- Người Chiến Sĩ” do Thế Kỷ xuất bản năm 2004, trang 78, ông Trương Bảo Sơn viết: ‘Tờ Văn Hoá Ngày Nay ra được 11 số thì đình bản, mặc dù được độc giả khắp nơi hoan nghênh. Ôi, chỉ vì nó được hoan nghênh quá xá mà chết non...’.
Trong cuốn hồi ký “Nhất Linh Cha Tôi” trang
120 tôi viết: “Bốn mươi mốt năm về trước, một ngày trước cuộc binh biến
11-11-1960 ở Sài Gòn, bố tôi bất thần trở về căn gác chợ An Đông nhìn tôi nói
nghiêm nghị: ‘Ngày mai con có đi chơi đâu thì không được lảng vảng gần khu Dinh
Độc Lập’. Cuộc đảo chính thất bại. Tôi nghe nói là bố tôi sau đó đã lẩn trốn ở
nhiều nơi trong thành phố’...
Sự việc không bắt cha tôi, ngoài lý do không
có bằng cớ, tôi cho còn là một sự tính toán cân nhắc lợi hại của chính quyền họ
Ngô chứ chưa hẳn do cảm tình riêng của ông Diệm đối với ông cụ tôi như nhiều
người nghĩ. Thứ nhất không bắt ông cụ để ông cụ vô can tức là chứng tỏ cho dân
chúng biết Nhất Linh không hề bất mãn và phản đối chế độ ông Diệm. Thứ hai họ
nghĩ rằng chặt hết tay chân của ông cụ tôi thì ông cụ tôi còn làm gì được nữa.
Nhưng không bắt bớ không có nghĩa là để cho
ông cụ tôi được hoàn toàn tự do. Trong cuốn Nhất Linh Cha Tôi trang 36 tôi ghi
lại lời của cha tôi nói với tôi buổi sáng ngày 7-7-1963: ‘Cậu chẳng sợ kết quả
(ra toà) ngày mai ra sao vì ở nhà hay ở tù thì cũng mất tự do như nhau’.
Hãy hình dung cảnh tượng ấy diễn ra thường
xuyên trong một thời gian dài thì mới thấu hiểu câu nói của cha tôi ‘Ở tù hay ở
nhà cũng mất tự do như nhau’.
... Vào tháng 5 năm 1963 vụ Phật Giáo bùng nổ
ở Huế. Sau đó phong trào Phật Giáo đấu tranh lan rộng khắp nước. Tôi không đề
cập chi tiết vụ Phật Giáo này. Hãy để các sử gia nói tới. Tôi chỉ bàn khía cạnh
vụ này tác động ra sao đối với ông cụ tôi và nhất là đối với cái chết của
ông...
... Trong khi hầu hết các chính trị gia đối
lập bị bắt hết sau vụ binh biến 11-11-1960, ông cụ tôi là một trong số ít người
được tại ngoại, do đó việc tăng cường canh giữ ông cụ là một điều tất nhiên.
Ông cụ rất ít ra khỏi nhà. Những tin tức ông biết được bên ngoài là do báo chí
(cha tôi sai tôi đi mua báo Tự Do hàng ngày và ông chỉ đọc tờ báo này thôi),
ngoài ra có hai người bạn thân của ông thường xuyên lui tới. Đó là bác sĩ
Nguyễn Hữu Phiếm và ông Lê Văn Kiểm. Ông Kiểm (mà chúng tôi gọi là chú Kiểm vì
chú nhỏ tuổi hơn ông cụ tôi) thường đến hầu như hàng ngày tường trình diễn tiến
của vụ Phật giáo. Ngày 11-6-1963 khi chú Kiểm đến báo tin Hòa thượng Thích
Quảng Đức tự thiêu ở ngã tư Lê Văn Duyệt & Phan Đình Phùng thì cha tôi sững
sờ...
... Rồi cuối cùng, mãi ba năm sau xảy ra cuộc
binh biến 11-11-1960, vào tháng 6 năm 1963 cha tôi bị mời lên Tiểu Đội Hiến
Binh số 635 đường Nguyễn Trãi để lấy khẩu cung và ở đó người ta cho ông biết
trước là ngày 8 tháng 7 năm 1963 cha tôi phải trình diện tại Phòng xử án Đặc
biệt Toà Án Quân sự, toà Thượng Thẩm, số 131 đường công lý Sài Gòn. Trát đòi
chính thức sẽ được gửi sau. (Cha tôi nhận được trát đòi vào ngày 6-7-1963 lúc
18.00 giờ).
Tin cha tôi sẽ phải ra tòa để xử án này là
động cơ tối hậu làm nên cái chết của Nhất Linh. Ông có một tuần lễ để sửa soạn
cái chết cho chính mình.
Ngày 30-6-1963 (7 ngày trước cái chết) cha
tôi đi dự buổi họp tại trụ sở nhóm Bút Việt. Bác sĩ Nguyễn Hữu Phiếm viết về sự
kiện này như sau (trích trong sách Chân Dung Nhất Linh, tác gỉa Nhật Thịnh,
trang 183): ‘Tôi dám quả quyết là Nhất Linh đã sắp đặt, ít nhất là một tuần lễ
trước cái chết của mình, bằng cớ là ngày 30-6-1963, anh tới dự buổi họp của
Trung Tâm Văn Bút mà trước đó anh là chủ tịch, không phải vì văn hoá, mà chỉ
cốt gặp mặt một lần chót các văn hữu của anh trước khi sang bên kia thế giới. Ở
Trung Tâm Văn Bút ra, Nhất Linh có ghé lại thăm tôi, nhưng tiếc rằng hôm ấy tôi
đi vắng’.
Ngày 2-7-1963 (5 ngày trước cái chết) cha tôi
đến nhà in Trường Sơn làm giấy Ủy Quyền cho con. Trong cuốn sách Nhất Linh Cha
Tôi trang 192, tôi viết: ‘Năm ngày trước khi chết ông đến nhà in Trường Sơn
đánh máy tờ Ủy Quyền: Tôi, Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, giám đốc nhà xuất bản
Phượng Giang và Đời Nay, ký tên dưới đây xác nhận rằng: Trong khi tôi vắng mặt
(bất cứ vì lý do gì) thì con tôi là Nguyễn Tường Thiết sẽ thay thế tôi điều
khiển hai nhà xuất bản kể trên và quyết định việc xuất bản các tác phẩm của
tôi. Làm tại Sài Gòn ngày 2 tháng 7 năm 1963’.
Ngày 7-7-1963 (ngày chết) cha tôi đến vĩnh
biệt người bạn thân nhất của mình vì tuần lễ trước ông đến mà không gặp. Bác sĩ
Nguyễn Hữu Phiếm viết: ‘Chủ Nhật sau nhằm ngày 7-7-63 Nhất Linh lại tới vào
buổi sáng hồi 10 giờ. Tôi đang ngồi trong phòng ăn bỗng anh lặng lẽ đi vào...’,
‘Chúng tôi tiễn anh ra cửa lặng lẽ cầm tay nhau, khi ấy tuyệt nhiên trên nét
mặt Nhất Linh tôi không hề nhận thấy một dấu hiệu nhỏ nào cho biết chỉ trong
vài tiếng đồng hồ nữa anh sẽ xa lánh cõi trần, xa tất cả mọi người thân yêu của
anh để đi vào lịch sử’...
... Buổi sáng hôm ấy sau khi cha tôi đi thăm
bác Phiếm về thì chúng tôi, cha tôi và tôi, trên căn gác của chung cư chợ An
Đông bàn bạc rất lâu về đủ mọi chuyện. Cha tôi vốn ít nói và kín tiếng, nhưng
buổi sáng hôm ấy lạ thay ông lại tâm sự với tôi rất nhiều điều, ông giảng giải
khúc triết và rành rẽ mọi chuyện, và tôi có ghi lại đầy đủ trong chương Niềm
Vui Chết Yểu trong cuốn sách Nhất Linh Cha Tôi...
... Bình tĩnh cha tôi ngồi thảo và viết 71
chữ cuối cùng trong đời ông: 71 chữ cô đọng, đầy đủ, rõ ràng để một người bình
thường có thể hiểu được ý nghĩa trung thực của tờ chúc thư tuyệt mệnh của ông.
Khi thảo tờ chúc thư chính trị ấy cha tôi đã
sáng suốt tiên liệu là mật vụ nhà Ngô có thể tịch thu bản di chúc nên cha tôi
đã cẩn thận viết làm hai bản. Hai bản đó giống nhau, chỉ sai biệt một chữ...
... Nhất Linh đã chuẩn bị cái chết của mình
một cách bình tĩnh. Nhất Linh đã sửa soạn cái chết cho mình trong sự tính toán
sáng suốt”...
♣ ♣ ♣
Trên văn đàn Việt Nam vào tiến bán thế kỷ XX, Tự Lực Văn Đoàn được đánh giá là nhóm cải cách đầu
tiên của nền văn học hiện đại với tiểu thuyết luận đề và tâm lý xã hội. Trong
đó nổi bật qua hai cây bút Nhất Linh và Khái Hưng.
Qua các tác phẩm Nho Phong (1924), Nắng Thu
(1934), Đoạn Tuyệt (1934-1935), Đôi Bạn (1936-1937), Bướm Trắng (1938-1939)...
được đánh giá là tạo dựng ra diện mạo mới trên bước đường khai phóng cho nền
văn học Việt Nam. Trong thời điểm theo quan niệm “trọng nam khinh nữ” thì Nhất
Linh tạo hình ảnh người phụ nữ sống trong xã hội với cá tính mạnh mẽ, hiểu
biết, chống lại sự lạc hậu theo nam niệm cổ hủ. Không thể chấp nhận cái cũ vô
lý để hủy hoại bản thân mà phải “đoạn tuyệt” nó để tạo dựng cuộc sống. Qua ngòi
bút, Nhất Linh quan niệm trai và gái tuy chưa được bình đẳng như nhau nhưng
người phụ nữ không chấp nhận sự gò bó của xã hội trói buộc suy tư, nhận thức
của cá nhân trong tình yêu và cuộc sống.
Khi nói về tiểu thuyết luận đề qua tác phẩm
của Nhất Linh, theo Thụy Khuê:
“Ở Ðoạn Tuyệt, Lạnh Lùng, Nhất Linh vẽ nên
cảnh xung đột trực tiếp giữa lối sống cũ và mới. Ðể bênh vực người phụ nữ, Nhất
Linh đã không ngần ngại đẩy hoàn cảnh đến những mức độ cực đoan nhất, và lấy
phần quyết thắng về phe Loan, người phụ nữ tân thời, tranh đấu cho quyền làm
người trong xã hội Khổng Mạnh.
Ở Ðôi Bạn, Nhất Linh đi xa hơn. Ông không dựa
trên tình tiết, không dựa trên cốt truyện để xây dựng tiểu thuyết nữa. Nhất
Linh đi sâu vào địa hạt phân tích nội tâm, xây dựng nghệ thuật trên sự tinh vi
của nhận thức. Cảm giác, xúc giác, khứu giác là những yếu tố chính trong cơ lực
con người, giao thoa giữa nội tâm và ngoại giới. Nhất Linh cho người đọc thưởng
lãm những mùi hương, những say sưa của hạnh phúc, của ánh nắng chiều, của mầu
thời gian thoáng nhạt...
Với Bướm Trắng, Nhất Linh đi sâu vào khía
cạnh triết lý... Bằng một lối nhìn trầm lặng, ngọn bút Nhất Linh bình thản đi
vào các cửa ngõ nội tâm biến dạng và bối rối của Trương, không phải để tìm kiếm
một lối thoát cho Trương, mà để cùng nhập cuộc phiêu lưu không định hướng của
dòng đời...“.
Nhìn lại những tác phẩm trong Tự Lực Văn Đoàn
nói chung và Nhất Linh nói riêng. Trên lãnh vực văn chương, Nhất Linh dấn thân
trong nghiệp dĩ như ngọn đuốc soi đường trong đêm tối.
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 1l
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 2l
Mời nghe Khề Khà Truyện đọc truyện ngắn
CHUYỆN CỦA GÃ KHỜ của Đặng Xuân Xuyến:
*.
Định cư tại: Little Saigon, quận Cam,
Nam California, Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ.
Email: vuongtrungduong20@gmail.com
.............................................................................................................
- Cập nhật từ email nguyenhung967812@gmail.com
ngày 23.05.2023.
- Ảnh dùng minh họa cho bài viết được sưu tầm
từ nguồn: internet.
- Bài
viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
bài viết rất hấp dẫn
Trả lờiXóa