NHÂN QUẢ VÀ NGHIỆP BÁO
TRONG KINH PHÁP CÚ
Nhân quả nghiệp báo có hai thứ là “biệt nghiệp”
và “cộng nghiệp”. Biệt nghiệp là nghiệp báo riêng biệt của mỗi chúng sinh. Cộng
nghiệp là nghiệp chung cho nhiều chúng sinh đang cùng sống trong một hoàn cảnh.
NHÂN, DUYÊN VÀ QUẢ
Kinh Pháp Cú nói đến “Luật Nhân Quả”. “Nhân”
nghĩa là nguyên nhân, là hạt, tức hạt giống sinh ra một vật hữu hình hay là sức
mạnh sinh ra một vật vô hình. “Quả” là kết quả, là trái, tức là kết quả hữu
hình hoặc vô hình của một hạt đã gieo trồng. Nhân là năng lực phát động, quả là
sự hình thành của năng lực phát động ấy. Nhân và quả là hai trạng thái tiếp nối
nhau mà có. Nếu không có nhân thì không có quả, nếu không có quả thì không có
nhân. Định luật hiển nhiên này mọi người đều nhận thấy. Định luật nhân quả liên
tục kéo dài vô cùng tận, như những lượn sóng chập chùng trên mặt đại dương.
Những đặc tính của “Luật Nhân Quả” như sau đây:
1. Nhân thế nào thì quả thế ấy: Trong giới hữu
hình, vật chất hay trong giới vô hình, tinh thần đều như vậy. Nếu muốn có quả
cam thì ta phải ươm hạt giống cam; nếu muốn có hạt đậu thì ta phải gieo giống
đậu. Cho đến quả địa cầu cũng thuộc nhân quả, như các nhà khoa học nói những
đám bụi xoáy lâu ngày kết tụ thành quả địa cầu, thế nên nhiều hạt bụi là nhân,
trái đất là quả v.v... Gieo việc làm tốt tất sau này sẽ thu được kết quả tốt,
như chăm học thời sẽ giỏi giang và thi đậu. Gieo việc làm xấu sẽ thu được kết
quả xấu, như lười biếng thời sẽ dốt nát, trộm cắp sẽ bị tù tội v.v…
2. Trong nhân có quả, trong quả có nhân: Chính
trong nhân hiện tại đã có hàm chứa cái quả vị lai; cũng chính trong cái quả
hiện tại, đã có hình bóng của nhân quá khứ. Mỗi vật, vì thế, đều có thể gọi là
nhân hay là quả. Đối với quá khứ, thì nó là quả, nhưng đối với tương lai thì nó
là nhân. Nhân và quả tiếp nối nhau quay tròn như thế mãi.
3. Một nhân không thể tự một mình sinh ra quả: Sự
vật trong vũ trụ nầy đều là sự tổ hợp của nhiều nhân duyên. Không có nhân nào
có thể tự tác thành kết quả nếu không có sự giúp đỡ của nhiều nhân khác. Những
nhân giúp đỡ này gọi là “duyên”. Thí dụ hạt lúa cần có sự giúp đỡ của các
“duyên” như đất, hơi ấm, ánh sáng mặt trời, không khí, nước, phân bón, nhân
công v.v… mới sinh ra cây lúa. Vậy “duyên” tức là sức mạnh, những cơ hội thuận
tiện giúp cho “nhân” sinh sôi, nảy nở.
Nhân nào cũng có đủ cả hai tính cách nhân và
duyên, vì nó là nhân để sinh quả của nó và đồng thời cũng là duyên để giúp đỡ
các nhân khác sinh ra những quả khác. Thí dụ như ánh sáng mặt trời là nhân sinh
ra hơi nóng, nhưng đồng thời cũng là duyên để giúp cho hạt cây mọc, cho hoa lá
có sắc mầu, cho mắt người trông thấy cảnh vật v.v...
4. Nhân hữu hình có thể sinh ra quả vô hình và
nhân vô hình có thể sinh ra quả hữu hình: Thí dụ nước hữu hình, khi “duyên” với
sức nóng biến thành hơi vô hình tản mát trong không khí. Khi gặp sức lạnh, hơi
nước vô hình lại biến thành mây hữu hình bay lơ lửng trên bầu trời.
Xác thân hữu hình và tâm linh vô hình của con
người cũng liên can và tiếp tục theo nhau như thế. Thí dụ ý nghĩ oán giận (nhân
vô hình) tạo ra ý nghĩ trả thù (quả vô hình). Quả vô hình này làm thành nhân
sinh ra hành động bạo hành, giết chóc (quả hữu hình). Quả hữu hình này sẽ làm
nhân cho những hình phạt tù tội, xiềng xích (quả hữu hình). Tù tội, xiềng xích
hữu hình lại làm nhân cho những quả vô hình là buồn phiền, đau khổ. Buồn phiền
đau khổ vô hình lại sinh ra những quả hữu hình là xác thân gầy ốm hoặc bị chết
v.v…
Như thế nhân quả, quả nhân trong hai giới hữu
hình và vô hình, trong hai phần xác thịt và tâm linh đều “duyên” với nhau và
“sinh” lẫn nhau, chẳng khác gì chỉ có một giới, một khối duy nhất mà
thôi.
5. Sự phát triển từ nhân đến quả có khi nhanh khi
chậm: Có khi nhân vừa phát khởi thì quả đã xuất hiện, như khi vừa đánh xuống
mặt trống thì tiếng trống liền phát ra. Có khi phải đợi một thời gian ngắn hoặc
dài quả mới hình thành, như từ khi gieo hạt giống cho đến khi gặt lúa, từ ngày
cắp sách đi học cho đến ngày thành tài.
Vì lý do mau chậm, trong sự phát hiện cái quả,
chúng ta không nên hấp tấp, mà cho rằng cái luật nhân quả không hoàn toàn đúng,
khi thấy có những cái nhân chưa phát sinh ra quả. Có nhân sinh quả ngay trong
đời này (hiện báo). Có nhân sinh quả trong đời sau (sinh báo). Và cũng có nhân
sinh quả cách nhau nhiều đời (hậu báo). Đối với thế gian thì có ngày giờ, năm
tháng và đời này kiếp nọ. Nhưng tất cả những thứ ấy chỉ là những cái “mốc” mà
con người tự đặt ra để phân chia một cái gì dài vô tận, không đầu không đuôi,
không hình không tướng là “thời gian” mà thôi. Vì thế những cái chết liên tiếp
của con người (hay của vạn vật) không ảnh hưởng gì đến những nhân đã gieo
trồng. Những nhân này vẫn cứ đeo đuổi cái sức sống của nó trên dòng thời gian
vô tận, để khi nào đến lúc, gặp thời sẽ sinh ra quả.
6. Sự sinh hoạt của những nhân có thể cải biến,
thay đổi bằng những nhân khác: Khi đã gieo rồi, một nhân sẽ sống theo dòng sống
của nó. Nhưng con người có thể gieo nhiều thứ nhân. Nhân này duyên với nhân
kia, để cản trở hoặc giúp đỡ sự tăng trưởng và sinh hoa kết quả. Thí dụ một hạt
mít, nếu bị đem phơi khô ngoài nắng hoặc cất kỹ trong hộp thật kín sẽ không bao
giờ mọc cây, nở hoa và kết trái ra được.
Bởi vậy người ta có thể biến cải nhân này bằng
những nhân khác. Người ta có thể kìm hãm hoặc trừ diệt hẳn đời sống của một
nhân bằng cách tạo những nhân khác, tức là tạo những duyên khác để giúp đỡ hoặc
phá hủy.
7. Phân tích hình tướng của nhân quả: Trong
thực tế ta thấy nhân quả có trong những vật vô tri giác như nước bị lửa đốt thì
nóng, bị gió thổi thì thành sóng, bị hơi lạnh thì đông lại. Nhân quả trong loài
thực vật như hạt ớt thì sinh ra cây ớt, cây ớt thì sinh ra trái ớt. Nhân quả
trong các loài động vật như loài chim sinh ra trứng. Trứng là nhân, chờ khi ấp
nở thành con là quả. Con chim ấy trở lại làm nhân, sinh ra trứng khác là
quả.
Nhân quả nơi con người: Về phương diện thể chất
thời thân tứ đại là do bẩm thụ huyết của cha mẹ và do hoàn cảnh nuôi dưỡng. Vậy
cha mẹ và hoàn cảnh là nhân, người con trưởng thành là quả, và cứ tiếp nối như
thế mãi, nhân sinh quả, quả sinh nhân, không bao giờ dứt. Về phương diện tinh
thần thời tư tưởng và hành vi trong quá khứ là nhân, tạo cho ta tính tình tốt
hay xấu trong nếp sống hiện tại là quả. Tính tình và nếp sống hiện tại này lại
là nhân, để tạo ra những tư tưởng và hành động của ta trong tương lai là quả.
8. Lợi ích đem lại cho chúng ta do sự hiểu biết
và áp dụng luật nhân quả: Luật nhân quả tránh cho ta lòng mê tín dị đoan, tin
tưởng sai lầm vào thần quyền. Luật nhân quả phủ nhận cái thuyết chủ trương rằng
“vạn vật do một vị thần sinh ra và uy quyền thưởng phạt muôn loài”. Theo Phật
Giáo thời không hề có một đấng thiêng liêng nào đứng ra thưởng phạt con người
cả. Chính con người tự thưởng hay tự phạt mình bằng những hành động của chính
mình. Ta gặt hái tương xứng với cái gì mà ta đã gieo. Chính con người tự tạo ra
số phận của mình bằng những hành vi thiện hay ác, tự mình đưa mình lên cõi Niết
Bàn hay tự mình đày mình xuống địa ngục.
Như trên đã nói, thời gian tiến triển từ nhân đến
quả, có khi nhanh khi chậm. Có cái nhân từ đời này, đến đời sau mới hình thành
quả v.v... Vậy nếu có người trong đời hiện tại làm việc hung ác, mà được an
lành, là do kiếp trước họ tạo nhân hiền từ. Còn cái nhân hung ác, mới tạo trong
đời này, thì tương lai hay qua đời sau, họ sẽ chịu quả báo. Còn người đời nay
hiền từ, làm các điều phước thiện, mà vẫn gặp tai nạn, khổ sở, là do đời trước,
họ tạo những nhân không tốt. Cái nhân hiền từ đời nay, qua đời sau họ sẽ hưởng
quả vui.
NGHIỆP BÁO
“Nghiệp” là những hành động, tạo tác do ba nơi
“Thân, Khẩu, Ý”. Ðức Phật hướng dẫn chúng ta ý thức được sự quan trọng của
nghiệp tức là “hành động” của mình làm, vì chỉ có hành động mới là quan trọng,
mới là chủ yếu.
Nhân quả nghiệp báo có hai thứ là “biệt nghiệp”
và “cộng nghiệp”. Biệt nghiệp là nghiệp báo riêng biệt của mỗi chúng sinh. Cộng
nghiệp là nghiệp chung cho nhiều chúng sinh đang cùng sống trong một hoàn cảnh.
Như những người sống trong chiến tranh tại một quốc gia thời đều chịu ảnh hưởng
chung của chiến tranh. Như sinh ở một nước tiên tiến, thì mọi người đều tương
đối được hưởng một đời sống vật chất đầy đủ. Ðã sinh chung một gia đình, một xứ
sở hay một dân tộc, cố nhiên cái nghiệp quả phải có liên quan với nhau. Một
người làm phúc, ngàn người đều được ảnh hưởng, một cây trổ hoa, muôn cây chung
quanh đều được thơm lây.
Nghiệp có thể chia ra ba tính cách: lành là
“thiện nghiệp”, dữ là “ác nghiệp”, hoặc không lành không dữ là “vô ký nghiệp”.
Lành nghĩa là có lợi ích cho chúng sinh trong hiện tại cũng như tương lai. Dữ,
nghĩa là có hại cho chúng sinh trong hiện tại cũng như tương lai. Ðức Phật dạy:
(Pháp Cú 165)
Làm điều ác cũng bởi ta
Nhiễm ô cũng vậy tạo ra bởi mình
Và khi làm những điều lành
Hoặc là thanh tịnh cũng mình tạo ra,
Tịnh hay không tịnh do ta
Chính ta tự tạo, ai mà khác đâu!
Nói suông không đủ, lời nói phải đi theo với việc
làm mới mong có kết quả. Người miệng nói điều lành mà không làm điều lành thì
chẳng ích lợi gì cho ai cả, giống như bông hoa đẹp mà chẳng có hương thơm:
(Pháp Cú 51)
Hoa kia sắc đẹp phô trương
Tiếc rằng chẳng có chút hương thơm
nào
Khác chi người nói ngọt ngào
Trăm điều hoa gấm, trăm câu tốt lành
Nói xong không chịu thực hành
Chẳng đem lợi ích, cũng thành uổng
đi.
Đức Phật dạy câu trên nhân vì có hai bà tín nữ,
cùng là mệnh phụ phu nhân trong triều, đến học giáo pháp với Ðại đức A Nan. Một
bà chăm chú học. Bà kia không tiến bộ nhiều. Ngài mới vạch rõ rằng tựa như cành
hoa không hương vị, giáo pháp trở nên vô ích cho người không cố gắng tu học. Kế
đó Ngài dạy thêm rằng còn như người miệng nói điều lành và làm được điều lành,
đem lại kết quả tốt, như bông hoa tươi đẹp đã có sắc lại thêm hương:
(Pháp Cú 52)
Hoa kia sắc đẹp vô cùng
Lại thêm hương tỏa thơm lừng biết
bao
Khác chi người nói ngọt ngào
Trăm điều hoa gấm, trăm câu tốt lành
Nói xong quyết chí thực hành
Tương lai kết quả tạo thành đẹp
thay.
Đối với người xuất gia, thuyết pháp suông không
đủ. Dù thông suốt nhiều kinh mà không thực hành theo lời dạy, thời chẳng được
sự ích lợi của việc tu hành, không khác gì một kẻ chăn bò thuê, cứ sáng sớm dắt
bò ra đồng, tối lại lùa bò về chuồng giao cho chủ, ngày ngày chỉ lo đếm bò của
người ta mà đổi lấy ít tiền công, nhưng không có con bò nào là của mình, cũng
không hưởng được sữa hay thứ gì của bò cả. Người xuất gia như thế không hưởng
được phần lợi ích của Sa môn:
(Pháp Cú 19)
Dù cho có tụng nhiều kinh
Không theo giáo pháp thực hành sớm
hôm
Tu hành lợi ích đâu còn
Khác chi một kẻ luôn luôn chăn bò
Chăn thuê nên chỉ âu lo
Đếm bò cho chủ, sữa bò hưởng đâu?
Theo Phật Giáo, pháp học sẽ không bổ ích nếu
không thật sự thực hành điều đã học, Phật Giáo không phải là một triết học
suông mà là con đường giác ngộ duy nhất.
Như vậy, chỉ có hành động, chỉ có nghiệp là quan
trọng, vì chính nghiệp mới đem lại kết quả tốt đẹp hay không tốt đẹp cho con
người và chính con người mới thật là chủ nhân của nghiệp, tác thành ra nghiệp,
và khi nghiệp đã làm rồi, thời không thể nào trốn tránh kết quả của nghiệp. Tạo
nghiệp ác không tránh khỏi ác báo.
Một nông dân bị kết tội ăn cắp vì oa trữ những
tang vật bị đánh cắp. Trên đường đưa tới pháp trường để bị xử tử, do tác phong
đặc biệt của anh, anh được quân lính đưa trở lại trình với nhà vua. Vua ra lệnh
đem anh đến trình diện Đức Phật. Đức Phật giải thích rõ ràng sự thật. Anh nông
dân vô tội được thả về. Đức Phật giảng dạy về hậu quả của những hành động bất
thiện và nói thêm rằng “Người hiền trí chẳng hề làm việc gì mà phải hối tiếc về
sau”:
(Pháp Cú 67)
Việc làm chẳng thiện, chẳng lành
Nếu làm xong lại tự mình ăn năn
Dầm dề nhỏ lệ khóc than
Biết rằng quả báo dữ dằn tương lai.
Ba nhóm Tỳ kheo đến yết kiến Ðức Phật. Trên đường
đi, nhóm thứ nhất thấy một con quạ đang bay bị thiêu đốt đến chết. Nhóm thứ nhì
thấy một thiếu phụ bị liệng từ trên thuyền xuống và chết đắm giữa đại dương.
Nhóm thứ ba thì thấy bảy vị Tỳ kheo bị đá rơi xuống bít lối ra nên bị nhốt
trong hang đá bảy ngày. Ba nhóm Tỳ kheo xin Ðức Phật giải thích. Ðức Phật giải
rằng trong một tiền kiếp, con quạ là một anh nông dân hung bạo đã thiêu đốt đến
chết một con bò lười biếng, thiếu phụ trấn nước một con chó và bảy vị Tỳ kheo
là bảy kẻ chăn bò tinh nghịch bít lỗ chui ra của một con kỳ đà ở trong hố suốt
bảy ngày khiến kỳ đà suýt chết. Ðức Phật thêm rằng không ai tránh được hậu quả
của nghiệp ác đã tạo:
(Pháp Cú 127)
Dù bay lên tận không trung,
Hay là lặn xuống tận cùng bể khơi,
Chui vào hang thẳm núi đồi
Khắp trên trần thế chẳng nơi an toàn
Thoát tay nghiệp ác chót mang.
Truyện tích kể rằng một người đứng tuổi có tâm
đạo nhiệt thành xuất gia theo Ðức Phật và tận lực chuyên cần tu niệm. Nếp sống
kiên trì cố gắng sớm đưa vị Tỳ kheo ấy đến đạo quả. Nhưng không may vị đó bị mù
hai mắt. Ngày kia, khi đi kinh hành vị này vô tình làm chết nhiều côn trùng.
Vài vị Tỳ kheo ở nơi khác đến viếng, thấy có dấu máu trên đường kinh hành, mách
với Ðức Phật rằng vị này đã phạm giới sát sinh. Ðức Phật giải thích rằng vị này
không cố ý mà chỉ vô tình làm chết những côn trùng ấy. Lúc bấy giờ mọi người
đều muốn biết tại sao vị này lại phải bị mù.
Ðức Phật thuật rằng trong một kiếp sống trước
kia, vị này làm lương y, có chữa bệnh đau mắt cho một thiếu phụ nghèo. Bà hứa
đến lúc khỏi bệnh, bà và con gái bà sẽ về làm công trong nhà cho ông lương y.
Thuốc quả thật công hiệu, nhưng bà không giữ lời hứa, viện lẽ rằng mắt bà còn
tệ hơn trước. Vị lương y ác độc liền nảy sinh một ý tưởng tội lỗi. Ðể trả thù,
ông cho thiếu phụ nghèo một thứ thuốc làm mù luôn cả hai mắt. Do nghiệp ác
trong quá khứ, nay tuy vị Tỳ kheo đã đắc quả A La Hán, vẫn phải mang tật mù.
Theo tích truyện này thời đây là phương diện nhân
quả tương xứng, gieo giống nào thì gặt giống đó, của định luật nghiệp báo. Một
vị A La Hán, dầu đã thanh lọc mọi ô nhiễm, vẫn còn phải gặt hái những quả mà
chính ngài đã gieo trong quá khứ xa xôi. Chư Phật và chư vị A La Hán không còn
tạo nghiệp mới vì các ngài đã tận diệt mọi căn cội vô minh và ái dục, nhưng
cũng như tất cả chúng sinh khác, các ngài không thể tránh khỏi hậu quả dĩ nhiên
của những hành động, tốt và xấu, của chính các ngài trong quá khứ.
Đức Phật từng bị vu oan là đã giết chết một nữ tu
sĩ theo đạo lõa thể. Kinh sách chép rằng sở dĩ Đức Phật phải chịu tiếng oan như
vậy vì trong một tiền kiếp Ngài đã thiếu lễ độ đối với một vị Phật Độc
Giác.
Đề Bà Đạt Đa toan giết Đức Phật, lăn đá từ trên
núi cao xuống định giết Ngài nhưng đá vỡ làm đôi khi tới nơi và chỉ làm trầy
chân Ngài. Kinh sách chép rằng trong một tiền kiếp Đức Phật đã lỡ tay giết chết
một người em khác mẹ để đoạt của trong một vụ tranh chấp tài sản.
Theo đúng giáo lý của Ðức Phật, ta không thể van
lơn cầu cạnh, hay hối lộ, hoặc gian lận bằng cách nào mà thay đổi được định
luật nhân quả. Cũng không thể lẩn trốn nơi nào trên thế gian, dầu trên trời
rộng mênh mông, giữa đại dương sâu thẳm, hoặc trong thâm sơn cùng cốc mà ta
tránh khỏi hậu quả của nghiệp ác đã tạo. Không có vị Trời nào, chí đến Ðức Phật
đi nữa, có thể can thiệp vào sự báo ứng của nghiệp. Ta chịu trách nhiệm về
nghiệp ác của ta. Quả báo ấy có thể xảy đến tức khắc, thường gọi là quả báo nhãn
tiền, hoặc một thời gian lâu sau ngày thực hiện điều ác mới xảy ra.
Một người có tâm đạo đến chùa nghe Pháp suốt đêm
và đến sáng, xuống ao rửa mặt. Cùng lúc ấy có tên trộm bị rượt, chạy ngang qua,
đánh rơi gói đồ đã trộm bên cạnh anh. Chủ nhà chạy đến đó thấy của cải của mình
gần bên ao, tưởng lầm anh là tên trộm nên hô hoán gia nhân bắt đánh anh đến
chết. Khi nghe thuật lại câu chuyện, Ðức Phật giải thích rằng mặc dầu hoàn toàn
vô tội, anh phải chịu một cái chết thê thảm như vậy là do nghiệp xấu đã tạo
trong quá khứ:
(Pháp Cú 161)
Khi mà nghiệp ác sinh ra
Do mình tự tạo, khó mà thoát thân
Nghiệp này nghiến kẻ ngu đần
Kim cương nghiến đá muôn phần giống
nhau.
Đức Phật cho biết rằng trong một tiền kiếp anh
nạn nhân nói trên là một vị quan cận thần có dính líu tình ái với vợ một người
khác. Ỷ thế làm quan của mình anh vu oan cho người chồng và hại người chồng đến
chết để chiếm đoạt người vợ. Vì tội ác đó nên trong đời này anh phải chết thê
thảm như vậy.
Kiếp tái sinh của con người tùy thuộc vào hành
động. Người thời tái sinh vào bào thai. Nhưng người làm ác sinh vào khổ cảnh,
địa ngục. Người phẩm hạnh tốt sinh vào nhàn cảnh, cõi trời. Bậc không ô nhiễm
nhập diệt vào Niết Bàn.
Truyện tích kể rằng vị Tỳ kheo nọ thường đến nhà
một người chuyên làm nghề kim hoàn và bà vợ người này sắm sửa vật thực để cúng
dường. Ngày kia khi tăng sĩ đến, trong lúc chủ nhà đang chặt thịt thời có sứ
giả của vua mang một viên hồng ngọc tới để sai làm. Chủ nhà cầm viên ngọc. Máu
dính ra viên ngọc. Chủ nhà đi vào trong rửa tay. Một con ngỗng từ phía sau đáp
xuống và thấy có máu, tưởng là đồ ăn, nuốt viên ngọc. Chủ nhà trở ra, thấy mất.
Cật hỏi vị tăng sĩ. Thầy cho biết mình không có lấy, nhưng vì lòng từ bi sợ
ngỗng bị chết, thầy không khai ra con ngỗng. Chủ nhà không tin, đánh đập thầy
một cách tàn nhẫn, máu chảy đọng thành vũng dưới đất. Bà vợ can ngăn không
được. Ngỗng thấy máu, bay trở xuống để uống. Trong cơn giận dữ chủ nhà đá con
ngỗng văng ra chết. Lúc ấy vị Tỳ kheo mới thuật lại tự sự. Chủ nhà mổ bụng
ngỗng, tìm ra viên ngọc và xin sám hối. Vị Tỳ kheo sau này chết vì thương tích
đó. Thầy nhập Niết Bàn. Vợ chủ nhà sinh lên cõi trời. Chủ nhà bị đọa xuống địa
ngục. Khi các Tỳ kheo khác bạch lại đầu đuôi câu chuyện, Ðức Phật dạy rằng
chính hành động hiện tại quyết định cho sự tái sinh trong tương lai:
(Pháp Cú 126)
Con người sinh tự bào thai
Và từ nơi đó ra đời. Lành thay!
Thế nhưng kẻ ác sinh ngay
Vào miền địa ngục đọa đầy triền
miên,
Những người chính trực lành hiền
Sau này sẽ được sinh lên cõi trời,
Nhiễm ô ai diệt hết rồi
Mới lên được cõi thảnh thơi Niết
Bàn.
Kẻ làm điều ác thời sẽ gặp nhiều phiền muộn trong
kiếp này và trong cả kiếp sau. Kẻ ấy sẽ sinh ưu phiền và sầu khổ khi nhìn thấy
kết quả xấu của nghiệp ác do mình gây ra. Một người đồ tể, suốt đời sinh sống
bằng cách giết heo, phải chịu đau khổ cùng cực trong những ngày cuối cùng của
anh. Trước khi lìa trần anh phải lăn lộn trên sàn nhà, kêu la rên siết vô cùng
thảm hại, giống như một con heo bị đem ra làm thịt. Đến khi chết, anh tái sinh
vào khổ cảnh. Đức Phật dạy:
(Pháp Cú 15)
Đau buồn ngay ở kiếp này
Kiếp sau cũng lại tràn đầy buồn đau:
Người làm điều ác hay đâu
Buồn kia theo mãi dài lâu bên mình
Quay nhìn việc ác tạo thành
Chết mòn thân xác, héo nhanh tâm
hồn.
Theo luật nhân quả, những điều mình làm (thân),
mình nói (khẩu), hay mình nghĩ (ý) sẽ tạo ra ảnh hưởng tốt hay xấu cho chính
mình. Gieo nhân nào thì gặt quả ấy. Do vậy, con đường duy nhất là nên tránh xa
điều ác. Điều ác, dù là điều ác nhỏ nhặt, cũng không nên xem thường.
Ðại đức Ðề Bà Ðạt Ða, vốn là em họ của Đức Phật,
vì tham lam và ganh tị nên âm mưu sát hại Ðức Phật nhiều lần, nhưng đều thất
bại. Ðến khi già yếu, thầy ăn năn hối hận và mong muốn được yết kiến Ðức Phật.
Trong khi người ta khiêng thầy đi dọc đường thì thầy chết một cách vô cùng thảm
hại đau thương rồi bị sa vào địa ngục. Đức Phật dạy:
(Pháp Cú 17)
Kiếp này tràn ngập khổ đau
Khổ đau cũng lại kiếp sau ngập tràn
Người gây nghiệp ác thở than:
“Bao điều gian ác mình làm trước
đây!”
Bây giờ đường ác đọa đầy
Trầm luân cõi khổ biết ngày nào
xong.
Do vậy, Ðức Phật khuyên chúng ta hãy gấp làm điều
lành, điều thiện và mau tránh điều ác. Hãy nắm ngay mọi cơ hội để làm điều
thiện. Hãy ngăn đừng cho tâm nghĩ đến điều ác. Vì tâm của người biếng nhác
trong việc làm điều thiện sẽ có khuynh hướng ưa thích làm việc ác.
Ông Cấp Cô Độc phát tâm bố thí rất trong sạch để
hộ độ tăng chúng nên tiêu xài hết phần lớn gia sản của ông. Bị chỉ trích là
phung phí tiền của nhưng ông không màng, cứ tiếp tục cúng dường để phát triển
tăng sự. Đức Phật khen hạnh bố thí này của ông. Ngài dạy rằng “Người làm ác có
thể gặp lành, ngày nào mà quả dữ chưa trổ. Nhưng khi quả trổ, chừng ấy họ mới
thấy hậu quả tai hại. Người hành thiện có thể gặp dữ, ngày nào mà quả lành chưa
trổ. Nhưng khi quả trổ, chừng ấy người hành thiện sẽ gặp quả phúc”:
(Pháp Cú 119)
Khi mà nghiệp ác chưa thành
Người làm điều ác tưởng mình vui
thôi!
Đến khi nghiệp ác tới rồi
Người ta mới thấy cuộc đời khổ đau.
(Pháp Cú 120)
Khi mà nghiệp thiện chưa thành
Người làm điều thiện tưởng mình khổ
thôi!
Đến khi nghiệp thiện tới rồi
Người ta mới thấy cuộc đời an vui.
Khi đã phân biệt được thiện và ác, khi đã cương
quyết tránh xa không làm điều ác, thời chúng ta phải bước thêm một bước nữa.
Tránh điều ác chưa đủ, cần phải làm điều lành, cần phải hành động lành, dù là
những điều lành nhỏ nhoi nhất. Kẻ trí sở dĩ toàn thiện là nhờ góp nhặt và thực
hành điều thiện mỗi lần một ít.
Một người làm vườn mỗi ngày phải cung cấp hoa
tươi cho nhà vua. Một hôm trên đường mang hoa đi đến cho vua thời anh bất chợt
anh gặp Đức Phật đang cùng chư Tăng đi khất thực. Anh trông thấy cảnh trang
nghiêm đó nên phát tâm dâng đến Đức Phật những cành hoa mà anh định mang vào
cho vua. Anh làm như thế có thể nguy đến tính mạng anh. Trái với mọi dự đoán,
vua rất thỏa thích được biết hành động trong sạch ấy và ban thưởng anh xứng
đáng. Nhân cơ hội, Đức Phật giảng về quả lành của những hành động thiện:
(Pháp Cú 68)
Việc làm rất thiện, rất lành
Nếu làm xong thấy lòng mình thảnh
thơi
Chẳng ăn năn, lại mừng vui
Tương lai quả báo đẹp tươi tốt lành.
Một khi đã làm lành, đã hành động thiện, thời quả
lành sẽ chờ đợi chúng ta. Một người giàu có ở thành Ba La Nại, nhiều tâm đạo,
đã làm nhiều điều lành. Ông bỏ tiền ra xây cất một ngôi đại tu viện tại vườn
Lộc Uyển để dâng cúng Đức Phật. Cơ sở kiến trúc này thật đồ sộ. Cho nên ở trên
một cảnh trời đã có nơi sẵn sàng để đón rước ông trong khi ông còn sống ở đây.
Đức Phật dạy “Người thiện đi từ thế gian này đến thế gian kế được hành động
thiện của mình đón rước như người thân thuộc từ phương xa trở về”. Ngài giảng
về hành động lành hiện tại và trạng thái an nhàn trong tương lai:
(Pháp Cú 219 - 220)
Hãy nhìn người khách ly hương
Lâu ngày an ổn từ phương xa về
Bà con cùng với bạn bè
Hân hoan chào đón tràn trề niềm vui,
Người làm lành cũng vậy thôi
Tạo ra nghiệp phước để rồi mất đâu
Qua đời này đến đời sau
Bao nhiêu nghiệp phước khác nào
người thân
Đón mừng họ rất ân cần.
Khi đã làm lành, đã tạo các nghiệp hiền thiện,
người ta có quyền thốt lên nỗi niềm sung sướng an vui khi nhìn thấy kết quả tốt
của nghiệp thiện mà mình tạo ra. Một người từng có tâm đạo nhiệt thành và có
đời sống đạo hạnh. Ông thường hay bố thí, lại hay dưng thực phẩm và cúng dường
các vật dụng cần thiết cho chư Tăng. Các con ông tất cả đều giống tính cha,
biết giữ gìn giới đức và chăm lo bố thí. Khi đang hấp hối trên giường, ông thỏa
thích nhìn thấy những cảnh trạng hạnh phúc . Sau khi trút hơi thở cuối cùng một
cách an vui người ấy tái sinh vào nhàn cảnh. Đức Phật dạy kẻ làm phước, làm
thiện sẽ đươc an vui trong kiếp này và kiếp sau, suốt hai kiếp đều an
vui:
(Pháp Cú 16)
Vui mừng ngay ở kiếp này
Kiếp sau cũng lại tràn đầy mừng vui:
Người làm điều thiện ở đời
Thấy chân hạnh phúc khắp nơi theo
mình
Quay nhìn việc thiện tạo thành
Sướng vui dào dạt, an lành chứa
chan.
Người làm điều thiện, điều phước được hạnh phúc
trọn đời này và đời sau. Cả hai đời hạnh phúc vì đã tạo phước, và còn hạnh phúc
hơn nữa khi kiếp sau được sinh vào cõi lành. Truyện tích kể về cái chết của con
gái út của ông Cấp Cô Ðộc, vị đại thí chủ thời Ðức Phật. Trong giờ lâm chung,
cô con gái út đó gọi cha là “em” và chết một cách an lành. Ông cha lấy làm buồn
nghe con mình, vốn có tâm đạo nhiệt thành, nói những lời mê sảng không có ý
nghĩa trong giờ phút quan trọng như vậy. Khi ông bạch lại với Ðức Phật thì Ngài
giải thích rằng sở dĩ cô gái út của ông gọi ông bằng “em” là vì vào lúc sắp tái
sinh cô đã chứng đắc quả vị cao hơn cha mình:
(Pháp Cú 18)
Đầy tràn vui sướng kiếp này
Sướng vui cũng lại tràn đầy kiếp
sau:
Người làm nghiệp thiện vui sao
Nhủ lòng: “Mình tạo biết bao phước
lành!”
Kiếp sau sẽ được tái sinh
Vào nơi hạnh phúc an bình chứa chan.
Muốn cho niềm an vui tồn tại lâu dài, muốn nuôi
dưỡng thiện nghiệp, người trí cần hướng thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp về
các việc lành. Người trí chẳng những lo kiểm soát Thân mà còn lo điều phục, bảo
vệ Tâm và Ý nữa. Nhân có vài vị tăng sĩ mang guốc đi qua lại làm ồn ào Ðức Phật
liền ra lệnh cấm mang guốc và khuyên thêm là các thầy nên giữ gìn ba nghiệp là
“Thân, Khẩu, Ý” cho thật trong sạch:
(Pháp Cú 234)
Những người trí, những kẻ hiền
Luôn lo kiểm soát, giữ gìn tấm thân
Lời ăn tiếng nói lo luôn
Lại lo cho ý, cho tâm của mình
Chăm lo ba nghiệp nhiệt tình.
Điều ác là những điều nào bắt nguồn từ ba căn bất
thiện là tham, sân, và si. Những điều nào kết hợp với ba căn thiện là lòng
quảng đại hay tâm bố thí (không tham), thiện ý hay tâm từ (không sân) và trí
tuệ (không si) được xem là điều thiện, là việc tạo ra nghiệp thiện. Câu Pháp Cú
sau đây nói rõ hơn con đường ấy, với một vài chi tiết:
(Pháp Cú 185)
Chớ nên phỉ báng một ai
Đừng gây tổn hại cho người xung
quanh
Giữ gìn giới luật nghiêm minh
Uống ăn chừng mực cho thành thói
quen
Lánh riêng sống chỗ tịnh yên
Chuyên tu thiền định, hướng miền
thanh cao
Lời chư Phật dạy lành sao!
Chúng ta có thể nói, lời dạy đầu tiên của Ðức
Phật là chớ có làm điều ác. Ðối với ác, đối với bất thiện, cần có một nhận định
dứt khoát. Một chàng thanh niên mới cưới vợ lấy làm bất mãn với hạnh kiểm dâm ô
ngoại tình của người vợ trẻ. Chàng lánh mặt không dám gặp ai. Cũng chẳng đi
chùa. Một hôm vào ngày rằm anh đến tịnh xá Trúc Lâm. Khi chàng đem câu chuyện
bạch lại với Ðức Phật, Ngài nhân cơ hội khuyên dạy luôn chúng Tăng:
(Pháp Cú 242)
Hư thân, mất nết, hạnh tà
Vết nhơ đối với đàn bà tính hoang,
Lòng người keo kiệt, tham lam
Vết nhơ của kẻ không ham cúng dường,
Nhưng riêng tội ác, bất lương
Luôn là một vết nhơ trong cõi này
Và luôn trong cõi tới đây.
Những người làm ác, người dùng vũ khí để hại
người vô tội và không có gì để tự vệ, kẻ ác tâm đó không thể nào tránh được một
trong các loại khổ sau đây đang chờ đợi họ:
(Pháp Cú 137 - 140)
Ai dùng gậy gộc, gươm đao
Hại người lương thiện, thoát nào đớn
đau
Mười điều khổ não trước sau
Tự mình lại sẽ rước vào thân thôi:
“Một là thống khổ kinh người,
Hai là thương tích khắp nơi thân
mình,
Ba là bệnh nặng thật tình,
Bốn là tán loạn, thần kinh rối bời,
Năm là tai họa trong đời
Vua, quan áp bức, hại thời tránh
đâu,
Sáu là tội nặng ngập đầu
Bị người vu cáo dài lâu, phiền hà,
Bảy là quyến thuộc trong nhà
Bà con ly tán xót xa bội phần,
Tám là tài sản xa gần
Tiêu ma giây phút, nát tan sớm
chiều,
Chín là sẽ bị hỏa thiêu
Cửa nhà cháy hết, tiêu điều tang
thương,
Mười là chết khó tránh đường
Đọa vào địa ngục, diêm vương đón
chờ”.
Đức Phật dạy câu trên nhân cái chết của ngài Mục
Kiền Liên. Ngài là đại đệ tử của Đức Phật. Bọn ngoại đạo lõa thể thuê bọn cướp
giết người bao vây nơi trú ngụ của ngài định hãm hại ngài, ngài trốn thoát
được. Chúng mưu hại lần thứ hai, ngài cũng thoát hiểm. Đến lần thứ ba ngài quán
thấy trong tiền kiếp mình có phạm tội ác nay phải chịu nốt quả báo còn sót lại
nên ngài không trốn tránh nữa. Ngài bị bọn cướp bắt, đánh đập tàn nhẫn và sau
đó qua đời. Nhà vua truy lùng bọn cướp, bắt được cả bọn, đem thiêu sống. Các vị
Tỳ kheo tiếc thương, mới tới hỏi Đức Phật tại sao một người giới đức cao dày
như Mục Kiền Liên mà lại chết thảm như thế. Đức Phật mới kể rằng: “Trong một
tiền kiếp cha mẹ Mục Kiền Liên đều bị mù loà, sống nhờ con phụng dưỡng. Ngài
thờ phụng cha mẹ rất hiếu thảo. Đến khi có vợ, ngài nghe lời nói xúi bẩy của vợ
mới dẫn cha mẹ vào rừng đánh chết và dàn cảnh như là cướp giết chết. Vì tội ác
đó Mục Kiền Liên phải sa vào địa ngục trong nhiều đời. Đến nay vào đời cuối
cùng còn phải chết vào tay bọn cướp để đền tội ác.”
Phật Giáo giảng dạy trách nhiệm của mỗi người đối
với chính mình, và tính cách dĩ nhiên phải có, không thể lẩn tránh, của định
luật nhân quả. Ta phải gặt hái hậu quả của nghiệp đã tạo. Nhưng không nhất
thiết bắt buộc phải gặt hái tất cả hậu quả của tất cả những hành động trong
vòng luân hồi. Nếu phải vậy ắt không thể có giải thoát, không thể thoát ra khỏi
vòng sinh tử.
Nếu trước kia ta dù sống buông lung, phóng dật,
nhưng về sau ta biết tỉnh giác chuyên cần, biết quét dọn sạch sẽ các vọng tưởng
phiền não trong tâm thời vẫn được tán dương. Thầy Tỳ kheo nọ từ sáng đến chiều
chỉ lo quét dọn trong chùa. Về sau, thực hành theo lời khuyên của một vị A La
Hán, thầy chỉ quét dọn vào buổi sáng, rồi lên đường đi khất thực, trở về thọ
trai xong là rút vào tịnh thất chuyên cần hành thiền nhập định. Sau đó thầy đắc
quả A La Hán. Khi đề cập đến sự thay đổi thái độ của thầy, Ðức Phật dạy:
(Pháp Cú 172)
Người nào trước sống buông lung
Sau không phóng dật, một lòng chuyên
tu
Như trăng thoát khỏi mây mù
Sáng soi trần thế, đẹp phô ánh
vàng.
Tiến xa hơn nữa nếu mà ta cố gắng tạo một nghiệp
tốt thật mạnh thời đôi khi ta có thể ngăn chận được nghiệp xấu trổ quả. Nghiệp
xấu đưa con người đến khổ cảnh, nhưng khổ cảnh không phải là địa ngục trường
cửu mà chúng sinh bắt buộc phải ở trong đó một cách vĩnh viễn. Đến lúc trả xong
nghiệp xấu, kẻ bất hạnh cũng có thể tái sinh vào một cảnh giới khác, an vui
hạnh phúc, nhờ các thiện nghiệp đã tạo.
Truyện tích kể rằng anh chàng Vô Não bị các bạn
đồng học ganh tị nên đặt điều nói xấu, vu oan là anh gian díu với vợ của thầy.
Thầy lập mưu là sẽ truyền cho anh một bí quyết huyền diệu, nhưng anh phải giết
người. Vô Não đã giết nhiều nhân mạng để lấy ngón tay xâu lại thành chuỗi đeo ở
cổ cho đủ một trăm ngón. Được Ðức Phật cảm hóa. Về sau, không những anh trở
thành một vị Tỳ kheo giàu lòng từ bi mà còn đắc quả A La Hán và nhập Niết Bàn
sau khi viên tịch. Các vị Tỳ kheo khác muốn biết làm sao một kẻ sát nhân như
vậy có thể đắc quả A La Hán. Ðể giải đáp, Ðức Phật nói:
(Pháp Cú 173)
Người nào làm những việc lành
Xóa mờ nghiệp ác của mình thuở xưa
Như trăng thoát khỏi mây mù
Sáng soi trần thế, đẹp phô ánh vàng.
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Các bài viết về
Chuyện làng văn0
- Các bài viết về
khoa Phong Thủy0
- Các bài viết về
khoa Tướng thuật0
- Các bài viết về
Kiến thức cuộc sống0
10 TIÊN TRI KỲ LẠ ĐÃ TRỞ THÀNH HIỆN THỰC:
Đinh Hoàng Long giới thiệu
Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao - nguồn: chuaadida
Ảnh minh họa sưu tầm từ nguồn: internet
Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.
0 comments:
Đăng nhận xét