VUA TRIỀU NGUYỄN CHỐNG
TÀ THUẬT DỊ ĐOAN NHƯ THẾ NÀO?
Đã hơn 200 năm trôi qua nhưng cuộc chiến chống tà
đạo, trừ dẹp nạn mê tín trong dân gian của hoàng đế Gia Long và sau đó là người
kế nghiệp, hoàng đế Minh Mạng, vẫn còn đẫm tính thời sự!
Trong những năm đầu trị quốc của hoàng đế Gia
Long, cùng với nạn giặc giã, thú dữ hoành hành, vấn nạn mê tín dị đoan cũng là
mối quan tâm hàng đầu của nhà vua. Trước tình trạng dân chúng bị nhiều đạo sĩ
dùng tà thuật mê hoặc, đắm chìm trong cơn đại hồng thủy cầu đảo, quật mồ làm
bùa chú, trù yểm hại người…, vị vua lập nên triều Nguyễn đã quyết liệt vào
cuộc.
Chúa Nguyễn Ánh bình định được nhà Tây Sơn và lên
ngôi hoàng đế lấy niên hiệu Gia Long năm 1802. Thời bấy giờ, nạn mê tín
dị đoan trong dân chúng gần như là quốc nạn, các đạo sĩ với những tà thuật ghê
rợn tung hoành. Tin theo các đạo sĩ, thầy địa lý, nhiều phàm dân có tục “rửa
gân”, “nghiệm gân” bằng cách đào lấy hài cốt cha mẹ, bậc tôn trưởng để
chiêm nghiệm việc tốt xấu. Không những thế, vì mê tín dị đoan mà người ta còn
quật mồ để hủy hoại vất bỏ xác chết, gọt đầu, làm thương tổn đến tử thi, trộm
quần áo của xác chết…
Luật hình – nhân mạng (quyển 196) trong Khâm Định
Đại Nam Hội điển sự lệ đề cập rất rõ tệ mê tín dị đoan trong dân chúng thời bấy
giờ. Không chỉ quật mồ người thân chiêu hồn xem điềm tốt xấu, còn
có tình trạng những kẻ ngu muội, u mê giết người lấy nội tạng luyện bùa thuốc.
Hình luật dành cho tội phạm dạng này, có đoạn: “Phàm những người lấy tai mắt,
tạng phủ của người sống đem mổ xẻ ra làm bùa thuốc, nếu có người thân thuộc tố
giác ra, hoặc bắt giải nộp quan, thì nếu đã hành động rồi, kẻ thủ phạm vẫn không
được tha tội”.
Luật hình – nhân mạng thời bấy giờ còn có tội
danh khá lạ kỳ: làm ra hay nuôi chứa loài sâu có độc để giết người.
Loài sâu độc mà ai đó nuôi để giết người là sâu
gì, cách nuôi ra sao, Luật hình-nhân mạng cũng như các thư tịch cổ triều Nguyễn
còn để lại không nói rõ. Nạn trấn yểm, dùng bùa chú để hại chết người cũng nằm
trong phạm vi cấm đoán của triều đình Gia Long: “Nếu kẻ nào khắc vẽ hình người
để yểm phản, làm phù chú nguyền rủa, muốn làm chết người khác (kể cả người
thường, con cháu, nô tỳ, người ở đợ, bậc tôn trưởng, hạng dưới, ít tuổi)
đều khép vào tội mưu giết người (đã hành động nhưng chưa làm cho bị thương) mà
trị tội. Vì thế mà đến nỗi chết người, đều chiếu luật “mưu giết người”, mà trị
tội. Nếu chỉ muốn làm cho người ta bị tật bệnh khốn khổ thì được giảm kém tội
mưu giết người đã hành động rồi, nhưng chưa làm cho bị thương 2 bậc”.
Hoàng đế Gia Long đã nhìn ra nguồn gốc của sự ngu
muội trong dân chúng với các hình thái quật mồ chiêu hồn, nuôi sâu độc giết
người, yểm phản làm phù chú, rồi nạn cầu đảo, giải hạn, trừ tà… xuất phát từ
những kẻ làm nghề phù thủy, đồng cốt, thầy cúng, phường đồng cốt.
Hoàng đế Gia Long khẳng định trước triều thần
rằng, những kẻ thầy bà đã lợi dụng sự ngu muội trong dân chúng làm trò ma mị,
đục khoét, gây thanh thế nên cần phải nghiêm trị: “Những thuật cầu đảo, sám
hối, giải ách đều là vô ích cả. Đời xưa kẻ đồng cốt, bói toán khinh nhờn thần
thánh, họ Cao Tân (họ của vua Đế Cốc ngày xưa) chỉ cúng tế vị thần chính đáng,
bọn tà đạo làm mê hoặc dân chúng, chế độ của vương giả giết đi, đều là trừ khử
sự mê hoặc, bỏ thuyết gian tà, để cho tục dân hết thảy theo về chính đạo. Như
Tây Môn Báo ném người đàn bà làm đồng cốt xuống sông, Địch Nhân Kiệt phá bỏ đền
dâm thần, đều có định kiến cả”..
Tây Môn Báo mà hoàng đế Gia Long nhắc đến, là
người nước Ngụy, làm quan ở quận Nghiệp thời Chiến quốc (Trung Quốc). Cổ sử ghi
dân chúng thời bấy giờ vì bị phường đồng cốt làm cho u mê hằng năm góp tiền làm
lễ chọn một người con gái tế sống, quăng xuống sông gọi là cưới vợ cho Hà Bá để
tránh bị quấy nhiễu. Bọn cường hào ác bá nhân đó lợi dụng làm tiền, khiến nhân
dân khốn khổ. Tây Môn Báo biết chuyệt đã cho bắt hết phường đồng cốt quăng
xuống sông, trừ được mối tệ cho dân.
Còn Địch Nhân Kiệt làm quan thời Đường (Trung
Quốc). Lúc còn làm tuần phủ Hoa Nam và thứ sử Dự Châu, thấy dân trong hạt thờ
những Dâm thần vốn dĩ là những “thần bậy bạ không đáng thờ”, ông đã cho phá hết
những đền thờ dâm thần trong hạt!
Trong bản Dụ vào năm 1804 (năm Gia Long thứ 3),
hoàng đế Gia Long nhìn nhận thực trạng “dân chúng tin theo quỷ thần, mê muội đã
quá, hơi một tí cũng đi mời thầy vẽ bùa, đọc chú, ninh hầu kẻ đồng cốt”.
Vị vua lập nên triều Nguyễn, khẳng định: “Kẻ có
tà thuật đều giả trá, lừa dối cho người nghe sinh biến đổi rối loạn trong lòng,
vẽ bùa, viết khoán, nhờ pháp thuật để sinh nhai; chuộc mạng, chiêu hồn, lấy con
bệnh làm của báu. Thậm chí có kẻ phù đồng ấp bóng, bịa ra lời nói của thần,
kiêng ăn, cấm thuốc, kẻ đau ốm không thể cứu lại được. Lại có những thuật làm
người bằng giấy, làm ngựa bằng cỏ, ném gạch đá vào nhà, đốt cháy nhà cửa, cùng
những bùa thuốc làm mê hoặc, đã lấy pháp thuật để quấy nhiễu người lại đến tận
nhà để xin chữa, lừa dối trăm cách, thực là mối hại lớn của nhân dân”.
Xác định phường thầy bà đồng cốt là mối hại lớn
của nhân dân, để an dân, triều đình Gia Long cấm ngặt những kẻ hành nghề phù
thủy, làm đồng cốt. Không những thế, theo lệnh vua, bộ Hình định rõ tội danh và
trừng trị thẳng tay những kẻ can phạm. Nhẹ thì đánh đòn, bắt làm phu dịch, bắt
đi giã gạo, lưu đày xa xứ, nặng thì phạt tội trảm (chém), giảo (thắt cổ)…
Điều luật Cấm chỉ các bọn thầy cúng, đồng cốt và
tà thuật (Luật lễ – nói về tế tự, quyển 186) đề cập chi tiết các hình
phạt dành cho phường đồng cốt, thầy cúng, tăng đạo cả gan vi phạm cấm lệnh bài
trừ tệ nạn mê tín trong nhân dân.
Phạt xuy nghĩa là lý trưởng sẽ bị nọc ra đánh
đòn, vừa bị đánh vừa bị răn cho biết nhục. Roi phạt xuy lý trưởng là sợi mây
nhỏ, riêng tội phạt trượng thì dùng sợi mây to vừa. Và “lưu 3.000 dặm” nghĩa là
can phạm sẽ bị đưa đi an trí nơi phương xa đến 3.000 dặm, suốt đời không được
trở về bản quán. Với đàn bà phạm tội làm đồng cốt, hình phạt sẵn dành là “phạt
xuy 100 roi, bắt đi giã gạo 6 tháng”.Theo đó hình phạt giảo giam hậu (giam chờ
ngày treo cổ) sẽ được áp dụng với những thầy cúng, đồng cốt giả làm tờ thần
giáng xuống, vẽ bùa đọc chú vào bát nước hầu giá lên đồng tự xưng là Đoan Công,
Thái Bảo, sư bà…, cùng xưng càn là Phật Di lặc, các hội Bạch Liên xã, Minh Tôn
Giáo, Bạch Vân Tôn. Theo điều luật này, kẻ tòng phạm sẽ bị phạt 100 trượng, lưu
3.000 dặm. Nếu là quân, dân đóng giả thần tượng, gõ thanh la, đánh trống, đón
thần mở hội, phạt 100 trượng (chỉ bắt tội kẻ đứng đầu). Lý trưởng biết không tố
cáo, phạt xuy 40 roi.
Luật hình định danh tội “Đào mả người khác” với
hình phạt dành cho kẻ đào mồ chưa đến quan quách “phạt 100 trượng, đày 3 năm”,
đào đến quan quách “phạt 100 trượng, lưu 3.000 dặm”, nếu đã mở quan quách thấy
xác người sẽ bị “tội giảo giam hậu” (giam chờ ngày treo cổ). Luật cũng ghi rõ
hình phạt lăng trì (xẻo thịt cho đến chết) với những kẻ lấy tai mắt, tạng phủ
của người sống làm thuốc. Vợ con kẻ can phạm cùng người nhà tuy không biết
chuyện cũng bị xử vạ lây, bị xử lưu 2.000 dặm (cho đi ở cách nơi ở cũ
2.000 dặm).
Nhận định của thiên tử về tội ác này: “Tội lấy
tai mắt tạng phủ của người sống đem mổ xẻ ra, tội này cũng giống như tội mổ xẻ
thân thể người. Nhưng tội mổ xẻ thân thể người, chỉ muốn giết chết người ấy
thôi, còn tội này thì giết chết người ấy làm bùa thuốc để mê hoặc người khác,
cho nên tội lại nặng hơn”. Với góc nhìn ấy, hình phạt dành cho thủ phạm nếu
hành động nhưng chưa làm bị thương nạn nhân cũng là “xử trảm”, vợ con bị
“xử lưu 2.000 dặm”, kẻ tòng phạm (có giúp sức) thì xử phạt 100 trượng, lưu
3.000 dặm!
Với những kẻ “làm ra hay nuôi chứa loài sâu có
chất độc để giết người”, nếu bị phát giác, can phạm sẽ bị xử trảm (chém đầu),
vợ con và người ở chung nhà tuy không biết chuyện cũng bị xử lưu 2.000 dặm.
Trong trường hợp kẻ phạm tội lấy chất độc của loài sâu độc đánh thuốc độc
người ở chung nhà mà người thân không hay biết, thì được miễn tội xử lưu. Luật
ghi: “nếu có biết chuyện, tuy là người của bên bị đánh thuốc độc vẫn phải tội
lây”.
Kẻ khắc vẽ hình người để yểm phản, làm phú chú
nguyền rủa muốn làm chết người khác, sẽ bị khép vào tội mưu giết người, tội này
theo luật hình thời bấy giờ là trảm!
Những hình thức xử phạt kể trên cho thấy hoàng đế
Gia Long rất nghiêm khắc và quyết tâm trong việc trừ dẹp tệ mê tín dị đoan
trong nhân dân. Năm 1820, sau 18 năm trị vì thiên hạ, hoàng đế Gia Long băng
hà, kế tục sự nghiệp của vua cha, hoàng đế Minh Mạng (1791-1841) cũng dốc lòng
dốc sức tuyên chiến với tệ mê tín dị đoan nói chung, nạn thầy bà giở những
thuật quái gở nói riêng. Thời trị vì của hoàng đế Minh Mạng, đã có không ít
“thầy bà” hay những kẻ ngu muội bị đánh đòn và xử tử.
Năm Minh Mạng thứ 8 (1827), Trần Đăng Luật ở
xã Phan Xá (huyện Phong Lộc, phủ Quảng Ninh) đến triều đường kêu dâng các
giấy tờ biên chép lời sấm của người cha quá cố là Trần Đăng Triều gọi là “Thái
Bình sách”. Việc đến tai vua Minh Mạng, theo luật Trần Đăng Luật sẽ bị xử tử,
nhưng xét thấy Luật là “dân mọn, ngu tối không biết gì, tưởng lầm vật quý của
nhà đem mê hoặc dân chúng” nên vị vua thứ 2 của triều Nguyễn ban đặc ân, cho
khoan giảm tội, phạt 100 trượng, rồi giao về cho địa phương quản thúc nghiêm
ngặt!
Không được may mắn như Trần Đăng Luật, 10 năm sau
(1837- năm Minh Mạng thứ 18), có 3 can phạm đã phải trả giá bằng mạng sống khi
vi phạm tội danh được định khung của bộ Hình thời bấy giờ là “Làm ra sách và
lời nói quái đản”: “Tên Dao là người thổ ở Trấn Tây, nói dối có phép thuật quái
gở, làm cờ ngụy, bọn tên Nguyên, tên Ban cùng nhau tuyên truyền, mê hoặc
người đem sang đất giặc, 3 tên ấy đều xử tội trảm đem thi hành ngay”…
Hoàng đế Minh Mạng cũng có chính sách phạt nặng
với quan chức địa phương mà cụ thể là lý trưởng, nếu “biết mà không cáo giác ra
thì xử phạt 100 trượng”. Và để khuyến khích dân chúng góp sức cùng triều đình
chống tệ nạn trên, những người cáo giác bắt được kẻ vi phạm các cấm lệnh sẽ
được hậu thưởng đến 20 lạng bạc. Tiền thưởng ấy được trích từ tài sản của kẻ
phạm tội. Trường hợp quan binh phát hiện vụ việc và thực thi việc bắt giữ, cũng
được thưởng số tiền là 10 lạng bạc trích từ tài sản của can phạm!
Ngày nay, nạn mê tín dị đoan vẫn phổ biến với đủ
hình thức ngu muội, buôn thần bán thánh… tồn tại như một thứ dịch bệnh khó loại
trừ. Xem ra, kinh nghiệm xử phạt thật nặng, và trọng thưởng cho người tố giác
trích từ tài sản của kẻ phạm tội, mà hoàng đế triều Nguyễn áp dụng, chính là
chìa khóa vàng để triệt dẹp thói tệ này!
Mời nhấp chuột đọc thêm:
Mời nghe nhạc phẩm KHÚC XUÂN của Võ Thiện Thanh
qua tiếng hát Thanh Thảo và Dương Triệu Vũ:
Vũ Quế Lâm giới thiệu
Tác giả: N.T.Dũng - nguồn: nghiencuuquocte
Ảnh minh họa sưu tầm từ nguồn: internet
Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.
0 comments:
Đăng nhận xét