HƯ CẤU TRONG NGHỆ THUẬT
HƯ CẤU TRONG TUYÊN TRUYỀN
1
Có hai điều cần
khẳng định ngay.
Một là hư cấu là
một quyền năng lớn lao, cao cả của nghệ thuật. Không có hư cấu sẽ không có
nhiều tác phẩm nghệ thuật kinh điển. Hiện thực không hề có con khỉ có phép thần
thông biến hoá nhưng hư cấu đã tạo ra Tôn Ngộ Không đi mây về gió, biến hoá như
hồn ma bóng quỉ. Không có hư cấu, không có Tôn Ngộ Không. không có Tây Du Ký
bất hủ. Không có hư cấu, không có Don Quixote, không có hình tượng hiệp sĩ
trung cổ lênh khênh trên con ngựa gầy guộc, tay cầm giáo dài lao vào chiến đấu
với cánh quạt cối xay gió. Hình tượng đã khắc vào tâm trí con người từ Âu sang
Á hơn bốn trăm năm qua và sẽ còn mãi trong kho tàng văn hoá nhân loại.
Đó là hư cấu nghệ
thuật. Hư cấu nghệ thuật đề cao tính người, năng cao phẩm giá con người, nâng
con người lên những giá trị thẩm mỹ cao cả.
Hai là thời chiến
tranh, lại trong thể chế độc đảng độc tài, dù muốn hay không người làm nghệ
thuật không thể thoát khỏi thân phận là công cụ trên mặt trận văn hoá, tư
tưởng, công cụ tuyên truyền của thể chế độc tài nơi mình đang sống. Người làm
nghệ thuật phải hư cấu theo đòi hỏi của tuyên truyền chính trị. Vì vậy hình
tượng hư cấu bí thư cộng sản Thuận ở bờ Nam sông Bến Hải bị lính miền Nam trói
vào cột, chất củi thiêu sống trong phim Vĩ Tuyến 17 Ngày Và Đêm rất phản mỹ
cảm vẫn được xã hội dễ dàng chấp nhận.
Tiểu thuyết Hòn
Đất hư cấu ra tên sĩ quan quân đội miền Nam tên Xăm ác ôn đến mức bắt
được Việt Cộng liền mổ bụng, moi gan, nổi lửa xào gan Việt Cộng làm mồi nhậu.
Hãm hiếp phụ nữ rồi cắt vú, lấy ly hứng máu hoà với rượu, say sưa nhậu máu
người. Thứ văn chương hư cấu tạo ra nhân vật mất tính người, phản thẩm mỹ như
vậy vẫn được xã hội sống trong tuyên truyền áp đặt chấp nhận, được đưa vào sách
giáo khoa giáo dục lý tưởng thẩm mĩ cho lớp lớp thế hệ trẻ!
Đó là hư cấu tuyên
truyền. Hư cấu tuyên truyền tạo ra thứ nghệ thuật phản nghệ thuật, phản thẩm
mỹ, phá hoại thẩm mỹ xã hội, đầu độc cả xã hội.
Chiến tranh qua
rồi. Những đòi hỏi khắc nghiệt của thể chế độc tài thời chiến tranh qua rồi.
Đòi hỏi người làm nghệ thuật phải đánh mất mình, phải gồng mình lên làm nghĩa
vụ thần dân không còn gay gắt nữa và người làm nghệ thuật đích thực cũng không
thể cam tâm, an phận mãi mãi là thần dân, là công cụ tuyên truyền của quyền lực
chính tri.
Người làm nghệ
thuật phải trở về con người công dân, nhận lấy trách nhiệm công dân với xã hội.
Người làm nghệ thuật đích thực, nghệ sĩ chân chính phải tự giải phóng mình
thoát khỏi thân phận công cụ của chính trị, của quyền lực, trở về với thiên
chức của nghệ thuật là phát hiện ra cái Đẹp trong con người nhân loại, phát
hiện ra cái Đẹp trong cuộc sống và sáng tạo ra cái Đẹp cho cuộc sống. Cái Đẹp
căn cốt nhất, cái Đẹp vĩnh hằng trong con người nhân loại làm nên tính Người là
tình yêu. Yêu thiên nhiên. Yêu cuộc sống. Yêu thương con người.
2
Xin có đôi dòng để
thấy cuộc chiến tranh Việt Nam 1960 - 1975 thực sự là cuộc nội chiến Nam Bắc
tương tàn, cuộc nội chiến do thế cuộc đẩy người Việt cùng bọc trăm trứng của Mẹ
Âu Cơ, cùng dòng giống Lạc Việt, cùng là những tâm hồn và trí tuệ sáng tạo ra
nền văn minh sông Hồng rực rỡ lại bị chia tách thành hai thế lực hận thù nhau,
bắn giết nhau!
Hiệp định Genève
1954 đã tạo ra tạm thời hai chính quyền Việt Nam cùng chính danh như nhau, chia
nhau trách nhiệm quản trị hai phần lãnh thổ Việt Nam. Chính quyền Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hoà, quản trị lãnh thổ phía Bắc vĩ tuyến 17. Chính quyền Việt Nam Cộng
Hoà, quản trị lãnh thổ còn lại phía Nam. Ngày 20.7.1956, hai chính quyền cùng
tổ chức tổng tuyển cừ để người dân hai miền bầu chọn một chính quyền chung,
thống nhất lại đất nước.
Nhưng thay vì tổng
tuyển cử để người dân bầu chọn một chính quyền chung của cả nước thì cả hai
chính quyền quản trị hai miền Nam-Bắc Việt Nam lại ráo riết gây dựng lực lượng
bạo lực loại bỏ nhau để độc chiếm cả lãnh thổ Việt Nam. Những người cộng sản
nằm vùng ém lại trong tỉnh uỷ Bến Tre đã gậy dựng lực lượng du kích vũ trang
khắp xóm làng cả tỉnh và ngày 17.1.1960 tỉnh uỷ Bến Tre đã phát lệnh cho du
kích ba xã Định Thuỷ, Phước Hiệp, Bình Khánh huyện Mỏ Cày đồng loạt nổ súng
chống lại chính quyền nhà nước Việt Nam Cộng Hoà.
Tiếng súng du kích
Bến Tre chống lại chính quyền Việt Nam Cộng Hoà ngày 17.1.1960 đi vào lịch sử
đảng cộng sản Việt Nam là tiếng súng đồng khởi theo nghị quyết 15 của trung
ương đảng cộng sản Việt Nam, nghị quyết cách mạng bạo lực giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước trong thể chế độc đảng, độc tài cộng sản. Tiếng súng đồng
khởi Bến Tre ngày 17.1.1960 đi vào trang sử Việt Nam đau thương là tiếng súng
mở đầu cuộc nội chiến Nam Bắc Việt Nam 1960 – 1975!
Để giành chính
nghĩa, giành lẽ phải, huy động được sức mạnh của nền văn minh sông Hồng, chính
quyền cộng sản Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà miền Bắc, những người phát động cuộc
nội chiến tương tàn tự nhận là yêu nước, vu cho chính quyền chính danh Việt Nam
Cộng Hoà là bán nước, là nguỵ quyền và người Việt sống ở lãnh thổ phía Nam cầm
súng bảo vệ chính quyền chính danh của mình, bảo vệ cuộc sống bình yên của mình
bị bộ máy tuyên truyền của chính quyền miền Bắc chụp cái mũ “tay sai bán nước”!
Từ đồng khởi Bến
Tre, nội chiến lan rộng đẩy chính quyền chính danh Việt Nam Cộng Hoà cận kề vực
thẳm sụp đổ. Mùa hè năm 1965 nước Mỹ và nhiều đồng minh của Việt Nam Cộng Hoà
phải gấp gáp đổ hơn nửa triệu quân vào lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà duy trì sự
sống còn của nhà nước chính danh Việt Nam Cộng Hoà, bảo vệ thể chế tự do, dân
chủ của người dân Việt Nam Cộng Hoà.
Quân Mỹ và đồng
minh đổ vào Việt Nam Cộng Hoà thực sự không phải là đội quân xâm lược như quân
Minh, quân Thanh phương Bắc, như quân Pháp thế kỉ 19 mà chỉ là đội quân chữa
cháy, đội quân tình thế nhất thời. Chính quyền chính danh Việt Nam Cộng Hoà qua
cơn chao đảo, nước Mỹ liền có ngay đề án rút quân ra khỏi cuộc nội chiến Việt
Nam bằng Chương trình Việt Nam hoá chiến tranh, Plan to Vietnamize the war
(Vietnamization)
Thực hiện Plan to
Vietnamize the war đến 30.6.1970 lính Mỹ chiến đấu trên bộ đã rút hết khỏi lãnh
thổ Việt Nam Cộng Hoà. Đến 31.12.1971 cũng không còn lính Mỹ chiến đấu trên
sông, trên biển và trên bầu trời Việt Nam Cộng Hoà. Quân Mỹ chi làm cố vấn ở
cấp chiến dịch và chi viện tối đa phi pháo trong phần còn lại cuộc nội chiến
Việt Nam. Từ sau 30.6.1970 cuộc chiến tranh Việt Nam lại trở về nguyên dạng là
cuộc nội chiến, họng súng người Việt lại đối mặt với họng súng người Việt. Cuộc
chiến giữa những đứa con tội nghiệp của Mẹ Âu Cơ!
3
Sau 5 năm đôi co,
đến năm 1972 cuộc mặc cả ở Paris giữa hai phía trong cuộc nội chiến Việt Nam
cũng phải đi đến thoả thuận ngừng chiến, thoả thuận tách hai khối thuốc nổ của
hai lực lượng đối kháng ra hai vùng lãnh thổ riêng biệt ở miền Nam.
Chính quyền kháng
chiến ở miền Nam với danh xưng Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hoà Miền Nam
Việt Nam ra đời từ năm 1969 do chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà miền Bắc
dựng lên đến 1972, vẫn lẩn lút trong những căn hầm chìm sâu trong lòng đất,
dưới tán rừng Tây Ninh. Để chính quyền kháng chiến miến Nam có vị thế chững
chạc, có sức mạnh trong tiếng nói ở cuộc mặc cả Paris, Chính Phủ Cách Mạng Lâm
Thời Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam cần có chỗ đứng công khai như một thủ đô hành
chính. Với những người phát động cuộc nội chiến Nam Bắc thì chỗ đứng lý tưởng
của chính phủ kháng chiến miền Nam Việt Nam là thị xã An Lộc tỉnh Bình Long,
liền kề căn cứ Tây Ninh. Và An Lộc liền trở thành điểm quyết chiến chiến lược
1972.
Đã thành truyền
thống, mùa khô cuối năm mới là mùa lên đường chiến dịch của quân đội cách mạng.
Nhưng năm 1972, truyền thống đó đã bị phá bỏ. Ngay từ đầu năm 1972 những sư
đoàn dày dạn trận mạc từ miến Bắc rầm rập tràn qua vĩ tuyến 17 đổ vào miền Nam
như thác lũ mùa bão giông. Ngay từ mùa hè 1972, mưa đạn, sấm sét pháo xối xả
dội xuống An Lộc, bùng nổ ở Kon Tum, trùm xuống khắp tỉnh Quảng Trị.
Ba mươi lâm ngàn
quân chính quy miền Bắc khép chặt lưới lửa quanh thị xã An Lộc nhỏ bé, đìu hiu,
khuất nẻo giữa rừng già biên giới chỉ vẻn vẹn mười lăm ngàn dân. Tiếng súng rát
rạt rộ lên ở Kon Tum, ở Quảng Trị chỉ để thu hút, phân tán lực lượng quân miền
Nam, không để quân miền Nam tập trung sức mạnh vào An Lộc.
Phải lôi kéo một
lực lượng lớn quân tinh nhuệ miền Nam ra mảnh đất cực Bắc lãnh thổ miền Nam,
mặt trận Quảng Trị còn là phương án dự phòng của An Lộc. Dự phòng khi quân miền
Bắc không giành được thị xã An Lộc thì có thị xã Quảng Trị thay thế. Vì vậy
lính miền Bắc đã chiếm được thị xã Quảng Trị phải lấy máu giữ bằng được thị xã
Quảng Trị. Quân miền Nam cũng không thể để quân miền Bắc mở toang cánh cửa ở
cửa ngõ phía Bắc lãnh thổ miền Nam. Và thị xã Quảng Trị nhỏ bé trở thành cối
xay thịt khổng lồ, nghiền xương thịt lính người Việt ở cả hai phía suốt tám
mươi mốt ngày đêm cuối hè 1972!
Kết quả chiến dịch
1972, quân miền Bắc đã thất bại hoàn toàn ở cả ba mặt trận lớn. Không chiếm
được An Lộc. Không giữ được thị xã Kon Tum và thị xã Quảng Tri. Thị xã An Lộc,
thị xã Kon Tum, thị xã Quảng Trị trở thành ba mảnh đất đẫm máu người Việt mang
hai sắc lính trong chiến dịch 1972 và đẫm máu nhất là mảnh đất thị xã Quảng
Trị. Thị xã Quảng Trị cuối hè năm 1972 còn đẫm máu người Việt hơn cả Huế Mậu
Thân 1968!
4
Cùng với Mậu Thân
1968, Quảng Trị tám mươi mốt ngày đêm cuối hè 1972 là nỗi đau muôn đời của
giống nòi Việt Nam. Không có gì để tự hào khi hai sắc lính cùng là người Việt
xả đạn vào nhau, xả cái chết cho nhau, xả nỗi đau thương cho những người Mẹ
Việt Nam.
Không thấy nỗi đau
của giống nòi Việt Nam, không thấy nỗi đau của những người Mẹ ở cả hai miền Nam
Bắc mất con ở Quảng Trị, mất con trong cuộc nội chiến 1960 – 1975, cả tiểu
thuyết Mưa Đỏ, cả phim truyện Mưa Đỏ tái hiện nỗi đau Quảng Trị
1972 đều với cảm hứng anh hùng ca. Tráng ca cuộc chiến tranh. Cao cả, lẫm liệt
người lính miền Bắc. Nguyền rủa và thấp hèn hoá người lính miền Nam.
Mưa Đỏ hư cấu chi tiết người lính miền Nam
đổ xăng thiêu sống tù binh lính miền Bắc không chỉ thấp hèn hoá người Việt lính
miền Nam mà thấp hèn hoá chính dân tộc Việt Nam và nuôi dưỡng hận thù người Việt
với người Việt trong lòng dân tộc Việt Nam.
Anh hùng ca cuộc
nội chiến do những người cộng sản phát động, những người viết sách và làm phim Mưa
Đỏ vẫn chưa thoát khỏi thân phận công cụ của chính trị, của tuyên
truyền. Vẫn là những người làm nghệ thuật không phải với tư cách nghệ sĩ mà chỉ
là công cụ của quyền lực!
Mời
nhấp chuột đọc thêm:
- Phim “Mưa đỏ” -
Nhận xét của một cựu binhl
- “Mưa đỏ” và câu
hỏi về giới hạn của hư cấul
- Phim “Mưa đỏ”
dưới góc nhìn học thuậtl
- Khi người trong
cuộc nói về phim “Mưa đỏ”l
- Vài trao đổi với
nhà văn Chu Lai và đạo diễn Đặng Thái Huyềnl
- Phim “Mưa đỏ”: 3
tình tiết điện ảnh dưới góc nhìn ký hiệu học…l
- Hôn quân Lưu Tử
Nghiệp và vai diễn của Trương Dật Kiệtl
- Vài cảm nhận khi
xem phim BỐ GIÀ (web drama) của Trấn Thànhl
Mời nghe Khề Khà Truyện đọc
truyện ngắn
CHUYỆN CỦA GÃ KHỜ của Đặng Xuân
Xuyến:
Đạo diễn Nguyễn Anh Tuấn giới thiệu
Tác giả: Phạm Đình Trọng - Nguồn: facebook
Ảnh minh họa sưu tầm từ nguồn: internet
Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.
0 comments:
Đăng nhận xét