VỀ ĐỒNG BẰNG
Vừa mệt mỏi, vừa nản chí, tôi mơ màng hình như đã ngủ một giấc dài.
Trong mơ tôi đã gặp một ông già râu tóc bạc phơ đang ngồi trên một phiến đá.
Ông già đang mỉm cười nhìn tôi:
- Cậu trẻ, cậu đã đánh một giấc năm trăm năm rồi đấy!
Nghe nói thế, tôi không hề ngạc nhiên mà còn vui mừng nữa. Tôi
muốn ngủ một giấc ngủ xuyên thời gian để xóa bỏ cái hiện tại không hứa hẹn điều
gì tốt lành. Trong mơ tôi cũng chợt nhớ hình như lúc nhỏ đã từng đọc ở đâu đó
một câu chuyện kể rằng, có một anh kia đang gặp cảnh khốn cùng, nợ như chúa
chổm. Một hôm say rượu dựa lưng vào một gốc cây trong vườn ngủ mê man như chết.
Khi tỉnh dậy mọi vật quanh anh đã hoàn toàn thay đổi. Khắp xóm giềng không còn
ai quen biết. Thì ra anh vừa say một giấc dài cả năm trăm năm.
Trong cơn mơ của tôi, ông già kia nói xong, vụt biến mất. Tôi giật
mình mở mắt nhìn quanh, ngơ ngác. Thằng Minh mặt mày hớn hở, cà khịa:
- Đào ngũ bị bắt mà làm một giấc ngon dữ!
Lúc này, đã hoàn toàn quay trở về thực tại, không nhìn thấy hai
anh cảnh vệ kia đâu, tôi vừa mừng vừa lo hỏi Minh:
- Họ đâu rồi?
- Đi cả rồi!
- Ô! Thật vậy sao!?
Thằng Minh gục gặc cái đầu húi cua. Tôi thì quá vui mừng. Không
thể cắt nghĩa được giấc mộng là sự thật hay sự thật là giấc mộng. Chỉ biết ràng
sự việc chuyển biến thật bất ngờ. Cho đến giờ này, tôi vẫn không hiểu được
nguyên nhân vì đâu hai anh cảnh binh kia không bắt chúng tôi giải về Trung đoàn
bộ. Tôi đoán già đoán non là có thể họ tin lời tôi nói dối rằng chúng tôi là
công nhân Nông trường Hà Tam. Nhưng nghĩ kỹ lại, người ngồi trên chiếc xe Jeep
(chắc là sĩ quan cao cấp) đã nghi ngờ, nên mới sai hai anh cảnh binh đến khống
chế bọn tôi. Nhưng vì sao cuối cùng họ lại tha bổng? Quả tình, thật khó hiểu!
Dù sao hai đứa cũng thoát một nạn kiếp đã là may phúc lắm rồi. Chúng tôi không
cần nghĩ ngợi chi nhiều và chỉ cầu mong đừng xảy ra chuyện gì nữa. Trong lòng
thầm cảm ơn các anh vệ binh nọ vô biên!
Được tự do quả thật đáng
quý làm sao!. Tôi đứng dậy vươn vai, hít thở không khí trong lành buổi sớm của
miền núi cao. Mặt trời đã lên khỏi đỉnh đèo An Khê từ lúc nào. Những tia nắng
ấm áp làm cho cả người khoan khoái, dễ chịu hẳn. Bỗng thằng Minh reo lên, tay
chỉ về phía chân đèo:
- Có xe kìa!
Tôi bảo nó:
- Nhìn kỹ xem xe gì!
Đã đón nhầm xe của xếp lớn một lần, tôi quá tởn, không dám vội
vàng xông ra như trước.
- Xe bốn bánh! – Thằng Minh nói và đi ra vệ đường.
Bấy giờ, tôi cũng vừa nhận ra đó là một chiếc xe khách nhỏ màu
nước cơm đang chạy ì ạch lên dốc. Bọn tôi đưa tay ra vẫy. Chiếc xe dừng lại, lơ
xe giục tôi leo lên. Minh trả tiền rồi lên sau. Trên xe quang gánh đầy sàn. Hai
băng ghế toàn đàn bà. Họ bảo tôi và thằng Minh ngồi vào trong. Tôi cứ ngờ ngợ
không biết họ có nhận ra mình là lính đào ngũ không? Tôi nhã nhặn từ chối, nói
rằng qua hết đèo sẽ xuống. Một chị xích vào trong nhường chỗ. Tôi ghé đít ngồi
vào khoảng băng ghế trống. Minh đu ngay cửa xe. Chiếc xe chạy chậm rề rề, nhưng
cuối cùng cũng qua hết cái đèo khúc khuỷu. Khi còn cách trạm kiểm soát Phú
Phong chừng 200 mét thằng Minh đập vào thùng xe bảo tài xế dừng lại. Chúng tôi
xuống xe. Trong lòng sung sướng khôn tả vì không gặp cảnh binh. Tôi thầm nghĩ,
chắc họ đã rút hết từ lâu. Không ngờ bọn tôi đã vượt được đoạn đèo hiểm trở và
may mắn thoát nạn một cách khó tin trên dặm đường đào tẩu về xuôi.
Xuống xe, tôi mới để ý, thằng Minh hoạt bát, nhanh nhẹn hẳn lên.
Nó không ngừng cười nói luôn miệng. Có lẽ nó khá quen thuộc vùng này. Nó dẫn
tôi đi ngược lên phía bắc, qua một cánh đồng ruộng, một xóm nhà. Lại thêm một
quãng đồng nữa thì nhìn thấy dòng sông Côn. Từ đó hai đứa cứ nương theo bờ sông
mà đi, băng ngang nhiều cánh đồng và nhiều bãi đất hoang. Thằng Minh quả là
thông thạo vùng đất này Nó luôn luôn đi trước dẫn đường cho tôi.. Nó chỉ con
sông Côn cuồn cuộn nước, bảo tôi, bơi qua sông là về đến nhà chị nó. Có dám bơi
không? Tôi nhìn dòng sông, dù là đoạn trung du vẫn rộng và sâu gấp mấy lần con
sông Thoa quê tôi. Nước sông đầy ăm ắp, chảy xiết. Tôi lắc đầu. Nó cười. Nụ
cười rất đểu. Chắc nó chê tôi nhát gan. Tôi giả vờ không trông thấy hỏi nó:
- Ở gần đây không có cây cầu nào à?
Nó tỏ vẻ bí mật:
- Có cầu đã không rủ mày bơi qua sông!
- Thế còn đò?
- Cũng không có! – Nó nói xong cười vang.
Xế chiều, chúng tôi đến một cây cầu bê tông khá rộng, lâu lâu mới
thấy người qua lại. Tôi đập tay vào vai nó reo lên:
- Có cầu kia kìa! Mày xạo ke!
Hai đứa thoang thả, bình tĩnh bước lên cầu giả vờ như những khách
bộ hành bình thường. Thỉnh thoảng gặp một vài người đi ngược chiều nhưng chẳng
ai để ý gì. Giữa chốn thanh thiên bạch nhật ai cũng như ai. Người khác chú ý
đến chúng tôi làm gì? Chỉ khéo có tật giật mình. Biết là đã đào ngũ trót lọt,
chỉ dăm ba kilomet nữa là về đến phố thị nên cả hai không khỏi sướng rơn. Đến
líc này chúng tôi như muốn reo to lên:
"Chúng tôi đã về tới đồng bằng!"
Thằng Minh tạm coi như đã đào tẩu thành công; còn tôi chỉ mới được
nửa đường thiên lý. Nhưng dù là vậy niềm vui trong lòng tôi cũng đầy ăm ắp như
con sông Côn!
Minh dẫn tôi vào một khu chợ lồng. Tới một cái sạp cháo vịt, nó
kêu hai tô. Cả hai ngồi húp xì xụp. Tiếng là tô cháo vịt nhưng kỳ thực lỏng
chỏng chỉ có nước và gạo, chẳng thấy miếng thịt nào. Chỉ có ít da và khúc xương
cổ. Ăn xong thằng Minh còn ngồi tán chuyện với bà chủ bán cháo một lát. Tôi
giục vài lần, nó mới trả tiền và đứng lên. Lúc ra tới đường cái nó bảo tôi, tới
nhà rồi, nhưng cứ chờ đến tối hãy về, không việc gì phải hấp tấp. Nó nói có lý.
Không ai trong xóm đó nhìn thấy chúng tôi mới là thượng sách.
Đến chín giờ đêm, hai đứa tôi về đến nhà chị nó, một căn nhà tranh
trong cái xóm làm chiếu gần thị trấn Đập Đá. Nó gõ cửa, chị nó cầm cái đèn ra
xem là ai. Vừa trông thấy nó, chị mừng rỡ xuýt làm rớt cái đèn hột vịt. Chúng
tôi vào nhà, nghỉ ngơi một lát rồi ra cái giếng bên hông nhà tắm rửa. Bôn ba
suốt hai đêm hai ngày, bữa nay mới thật sự được thoải mái. Thằng Minh hỏi chị
nó kiếm cho tôi một bộ đồ khác để thay. Cái áo của tôi đã rách bươm. Cái quần
toạc ống, hỏng dây phéc-mơ-tuya.
Tắm xong, hai chúng tôi mệt
mỏi, nằm dài trên tấm phảng gỗ nghỉ ngơi một lúc lâu. Tôi mới vừa thiu thiu ngủ
đã bị đánh thức dậy. Tưởng là có chuyện gì khong ổn, hoá ra bà chị thằng Minh
đã lục tục dọn một nồi cháo gà bốc hơi nghi ngút, nên kêu dậy ăn. Hú hồn! Đúng
là chim bị ná sợ cành cong! Anh chồng chị chủ nhà đi ngủ từ sớm. Thằng Minh đớp
ngon lành. Còn tôi hơi lo vì không biết làm cách nào để về Đức Phổ khi trong
túi không có tiền, không còn bạn đồng hành nên ăn cũng chả thấy ngon.
Sáng hôm sau, Minh bảo tôi ở lại Đập đá chơi ít ngày để nó dẫn đi
tán gái Bình Định! Tôi cười như mếu. Cái thằng! Buồn thúi ruột, nó còn nghĩ đến
chuyện gái gú! Tôi tỏ ý muốn ngày mai đi về nhưng không có tiền. Chị nó bảo vài
hôm nữa chị có chuyến hàng đi Đà Nẵng, lúc đó hãy đi với chị một thể.
Hai đêm liền, thằng Minh dẫn tôi đến nhà những cô gái mà nó quen
biết. Mặc cho nó tán hưu tán vượn với các cô, tôi chỉ quan tâm đến công việc họ
làm. Đó là lần đầu tiên tôi thấy người ta làm ra một chiếc chiếu hoa nó như thế
nào. Dù ở Tư Nghĩa, Quảng Ngãi cũng có nghề dệt chiếu nhưng tôi chưa hề được
nhìn thấy lúc thợ đan. Muốn làm ra một chiếc chiếu lát tiêu tốn thời gian công
sức không phải ít. Ngoài giai đoạn làm sợi cói, nhuộm màu; khâu quan trọng nhất
là đan kết chúng lại từng sợi từng sợi dựa theo mẫu mã để tạo thành tấm chiếu
có hoa văn. Khi dệt cần phải có hai người phối hợp nhịp nhàng, ăn ý với nhau.
Hễ một người đưa cái khung lược ra xa để cho những sợi dọc tạo thành hai hàng
trên dưới, thì người kia phải nhanh tay phóng sợi ngang qua khoảng giữa bằng
một cái que dài và nhỏ, rồi thu que về ngay. Lúc này người thợ chính mới kéo
cái lược về phía họ, ép cho sợi cói ngang sát vào nhau. Cứ thế hết sợi này đến
sợi khác tạo thành tấm chiếu hoa xinh đẹp. Tôi thấy các cô gái ở đây tay làm
thoăn thoắt mà miệng vẫn đối đáp với thằng Minh trôi chảy. Nhưng chiếc chiếu
không bị lỗi, thật đáng khâm phục tài nghệ thủ công của các cô vô cùng.
Ở lại Đập Đá đến sáng ngày thứ ba, thì tôi chào từ biệt thằng
Minh, theo chị nó xuống ga Diêu Trì. Kể từ đó tôi và Minh không còn gặp lại
nhau lần nào nữa. Đúng là bèo dạt mây trôi. Bây giờ mày ở đâu hở Minh?
Đến ga Diêu Trì, chị thằng Minh và tôi ngồi đợi hơn một tiếng đồng
hồ, chuyến tàu chợ Sài Gòn – Đà Nẵng mới tới nơi. Chị Hai thằng Minh bảo tôi
khuân một đống bao tải lớn chất vào toa tàu. Tôi không tiện hỏi nên chẳng biết
trong bao chứa những thứ gì. Cứ im lặng làm theo lời bà chị. Xong việc, hai chị
em mới bước lên toa sau. Trong toa hàng hóa chất ngổn ngang, chỉ có dăm ba
người ngồi trên sàn, không có ghế. Toa này dùng để chở hàng. Những người ngồi
đây là chủ số hàng hóa chất đầy khắp nơi trong toa. Tàu hú còi rời ga. Chạy
được một lát, có anh nhân viên soát vé từ đầu tàu đi lại. Tay anh ta cầm cuốn
sổ nhỏ và cây viết. Vừa đến bên tôi, anh chưa kịp mở miệng hỏi vé, chị thằng
Minh đã nói nhỏ:
- Em họ tôi đấy, xếp!
- Đi đâu?
- Nó về Đức Phổ. – Vừa nói chị vừa nhét vào tay anh này một tờ
giấy bạc. Anh ta mỉm cười chớt nhả:
- Tưởng ai chứ em của người đẹp thì vô tư! - Anh ta nói, rồi bước đi
đến chỗ người khác.
Tàu dừng lại ở ga Tam Quan hơi lâu để tránh một đoàn tàu Thống
Nhất chạy ngược chiều. Vài cô bé bán trà đá, bánh tráng (bột) mì trộn nước dừa,
đặc sản địa phương, chào khách í ới. Có một bà sồn sồn quảy gánh cơm lên toa
bán cho mọi người. Một bên quang gánh là nồi cơm trắng còn đương bốc khói, bên
kia là xoong thịt kho trứng sắc nâu, điểm thêm mấy trái ớt màu đỏ thơm lừng. Đã
quá trưa, chị Hai thằng Minh mua một tô cơm. Chị cho tôi mười đồng, bảo có đói
bụng thì mua ăn. Tôi cũng đã đói bụng lắm, nhưng nghĩ để tiền đó phòng thân, và
thấy cũng gần về đến nhà nên rán nhịn.
Tàu vào ga Đức Phổ khoảng ba giờ chiều. Tôi cảm ơn và chào tạm
biệt bà chị tốt bụng, rồi lật đật bươc xuống sân ga. Đức Phổ là một nhà ga nhỏ
nên không mấy người lên xuống. Chỉ có vài người đàn bà chở những can nước mắm
từ Nha Trang về lục tục gánh gồng vào nhà ga. Tôi vì không có vé nên chẳng dám
theo chân họ. Tôi đi dọc theo đường rầy, qua khỏi nhà ga có một lối đi nhỏ, rẽ
phải về thị trấn. Xuống đến thị trấn, xem như đã an toàn về đến nhà. Bây giờ
tôi mới cảm thấy bụng đói cồn cào. Ghé vào một quán phở tôi gọi một tô phở bò
và vài điếu thuốc lá. Cái thói hư hút thuốc là do mấy thằng ‘đàn anh’ hồi học
cấp hai tập tành cho tôi. Lúc ở nhà tôi vẫn thường lấy thuốc bổi của mẹ tôi
dùng để chà răng mỗi lúc ăn trầu, vấn hút. Vào quân đội không có tiền nên tôi
đã bỏ. Không hiểu sao hôm nay tôi lại cảm thấy thèm thuốc nên mua để phì phà.
Trả tiền xong, tôi theo con đường tắc băng ngang Gò Hội đi về Phổ
Minh. Lúc đi qua cánh đồng Tân Tự tôi gặp anh bạn thơ Mai Hoàng Dũng (tức nhà
thơ Vũ Thụy Nhung, tác giả bài thơ Em Có Về Quảng Ngãi Với Anh Không được phổ
nhạc, có nhiều ca sĩ hát.) Thấy tôi đang bước lang thang, Dũng ngạc nhiên hỏi:
- Uả, nghe nói anh đi bộ đội rồi mà?
Không muốn cho Dũng biết rõ sự tình, tôi đáp:
- Đơn vị cho về ăn Tết!
Nói xong, tôi vội vàng từ biệt Dũng để về cho kịp chuyến đò cuối
ngày. Đến bến đò Du Quang cũng vừa đúng lúc hoàng hôn. Con đò đang cắm sào phía
bên này sông, để đợi những người khách muộn. Sông Thoa tiết cuối tháng Chạp
nước duềnh lên hai bên bờ. Những con sóng nhỏ lăn tăn vỗ nhẹ vào mạn thuyền.
Anh lái đò đang ngồi phía sau lái, ngắm trời mây. Có lẽ đã chờ khách khá lâu,
cũng đang muốn về nhà, nên thấy tôi bước lên liền nhổ sào, đẩy thuyền lướt băng
băng trên sông. Sang đến bờ bên kia, còn một ít tiền lẻ, tôi đưa cả cho anh lái
rồi bước lên bờ.
Nhà chị Hai tôi ở sát bến đò Du Quang. Anh rể tôi là đảng viên, có
chân trong Hội đồng nhân dân xã, vì thế tôi không muốn ghé vào. Nhà chị Ba ở
giữa thôn Du Quang, tôi cũng không ghé đến. Dù trời đã tối, và phải đi ngang
qua một cái trảng lớn có rất nhiều mồ mả, tôi vẫn quyết định đi thẳng về nhà để
gặp mẹ tôi.
Tôi bước vào trong ngõ nhà mình. Bên góc sân trước hè một ngọn đèn
hột vịt chong leo lắt. Mẹ tôi đang ngồi chăm chú xắt khoai. Rất nhiều cảm xúc
dâng trào trong tôi. Dù mẹ vẫn còn khỏe mạnh nhưng mái tóc của Người đã bạc rất
sớm. Có lẽ vì nỗi đau mất chồng lúc tuổi còn trẻ, và quãng đời cơ cực từ thời
tấm bé đến giờ. Mái tóc bạc của mẹ như trắng xóa hơn dưới ánh đèn. Tôi đứng
lặng yên không lên tiếng một hồi lâu để cho cảm xúc lắng dịu xuống mà mẹ vẫn
không hề hay biết là có người vào trong sân. Tôi rón rén đi lại gần. Khi còn
cách mấy bước tôi khẽ gọi:
- Mẹ...!
Mẹ tôi nghe tiếng gọi giật mình, ngước lên, quay sang nhìn tôi.
Ngập ngừng một chút mẹ mới nhận ra tôi. Hai mẹ con ôm nhau cùng khóc. Vào nhà,
tôi nói sơ lược tình hình cho mẹ biết. Em trai tôi hôm ấy đi biển ở Đà Nẵng gần
Tết mà cũng chưa về. Mẹ quyết định tức khắc dẫn tôi xuống nhà chị Ba tá túc qua
một đêm, rồi sáng mai cho tôi vào Nha Trang. Tôi liền thay bộ đồ khác. Còn cơm
nguội, mẹ dọn ra cho tôi ăn. Vừa xong bữa cơm là hai mẹ con đi ngay.
Nhà chị Ba tuy ở giữa thôn nhưng khu vườn rất rộng, cách xa nhà
hàng xóm xung quanh. Thấy mẹ dẫn tôi đến anh chị tôi đều có vẻ vô cùng sửng
sốt. Mẹ nói chuyện với hai anh chị một lúc, dặn dò tôi ở lại, rồi ra về. Chị Ba
dọn giưòng mắc màn cho tôi ngủ qua đêm. Tôi nằm thao thức mãi không sao yên
giấc. Chẳng biết cuộc đời mình từ nay sẽ ra sao. Nhất định là tôi không thể nào
sống yên ở quê nhà rồi, nhưng vào Nha Trang sống bám vào gia đình anh chị Sáu
thì tôi không muốn. Tính tôi xưa nay thích tự lập. Vả lại nếu địa phương mà
biết được tôi đã đào ngũ thì thế nào cũng làm khó dễ gia đình. Em trai tôi sang
năm là đúng mười tám tuổi, chẳng biết rồi chính quyền có bắt nó đi lính để thế
chỗ cho tôi? Mẹ già ở nhà một mình trông thật cô đơn, hiu quạnh. Biết bao nhiêu
là vấn đề, bao nhiêu là nỗi niềm làm sao mà ngủ được?
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Thơ về rượu của
Đặng Xuân Xuyếnl
- Hỏi chuyện Meta
AI về nhà thơ Ái Nhân Bùi Cao Thếl
- Trò chuyện với
Meta AI về “Bài thơ áo trắng” của Trần Mạnh Hảol
- Phiếm đàm ngoài
lề về thơ ca cùng AIl
- “Ký ức đêm” của
Đặng Xuân Xuyến: những khoảnh khắc thơ hay hay những mảnh vụn ngôn từl
- Các bài viết của
(về) tác giả Trần Vấn Lệ0
- Các bài viết của
(về) tác giả Trần Đức Phổ0
- Các bài viết của
(về) tác giả Trần Hạ Vi0
Mời nghe Đặng Xuân Xuyến đọc bài thơ
NGÕ LẠ, thơ của Đặng Xuân Xuyến:
TRẦN ĐỨC PHỔ
Địa chỉ: 819 Kleinburg Dr,
London
tỉnh bang Ontario, Canada.
Email: ducphot946@gmail.com
,
.............................................................................................................
- Cập nhật theo nguyên bản từ email tác giả gửi ngày 27.02.2024.
- Ảnh dùng minh họa cho bài viết được sưu tầm từ nguồn: internet.
- Bài viết không thể hiện
quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
0 comments:
Đăng nhận xét