SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM:
TỪ CÔNG CỤ THI ĐUA ĐẾN RÀO CẢN
PHÁT TRIỂN NGHỀ NGHIỆP GIÁO VIÊN VIỆT NAM
1. Một Thủ Tục Hành Chính Đã Để Lại Những Hệ Lụy Khôn Lường
Trong hệ thống giáo dục Việt
Nam, “sáng kiến kinh nghiệm” đã trở thành một yêu cầu bắt buộc không thể thiếu,
một phần tất yếu của đời sống giáo viên từ bậc học mầm non đến đại học. Mỗi
năm, hàng trăm nghìn bản “sáng kiến kinh nghiệm” được viết, nộp, chấm điểm và lưu trữ trong các
hội đồng thi đua. Trên danh nghĩa, đó là những “nghiên cứu nhỏ” của giáo viên
nhằm cải tiến dạy học, nâng cao chất lượng giáo dục. Nhưng trên thực tế, nó đã
phát triển thành một văn hóa hành chính đặc thù, nơi việc viết để đủ thủ tục,
để có hồ sơ, nhiều khi quan trọng hơn việc học hỏi từ thực tiễn.
Hệ quả là một công cụ được
kỳ vọng sẽ thúc đẩy sáng tạo lại đang âm thầm bào mòn năng lượng, thời gian và
cả sự chân thành trong nghề nghiệp của đội ngũ giáo viên. Đã đến lúc cần nhìn
nhận “sáng kiến kinh nghiệm” không chỉ
như một quy định, mà như một hiện tượng cần được phân tích để thấy rõ những mặt
trái của nó.
2. Nguồn Gốc Của Mẫu Sáng Kiến Kinh Nghiệm: Sự Lai Tạo Giữa Hành
Chính và Học Thuật
Cấu trúc tám mục quen thuộc
gồm “Lý do chọn đề tài”, “Cơ sở lý luận”, “Cơ sở thực tiễn”, “Đối tượng và
phương pháp nghiên cứu” cho đến “Kết luận và kiến nghị” không thực sự xuất phát
từ truyền thống nghiên cứu giáo dục quốc tế.
Nó được hình thành từ mẫu
báo cáo thi đua hành chính của ngành giáo dục Việt Nam cuối những năm 1990, với
mục đích ban đầu là tạo ra một căn cứ có vẻ khoa học để xét duyệt các danh hiệu
“Lao động tiên tiến” hay “Chiến sĩ thi đua”.
Về sau, để tăng tính học
thuật và hợp thức hóa, mẫu này được ghép thêm một cách gượng ép các phần lý
thuyết, tạo thành một mẫu lai kỳ lạ, nửa hành chính, nửa nghiên cứu.
Điều nghịch lý là, không có
một văn bản quốc gia chính thức nào ban hành mẫu chuẩn này, nhưng vì mọi cấp
quản lý từ Phòng, Sở đến các trường đều cùng sử dụng và áp đặt một cấu trúc
tương tự, nó dần trở thành một chuẩn mặc định bất di bất dịch. Sự áp đặt ngầm
ấy khiến “sáng kiến kinh nghiệm” mất đi
tính linh hoạt vốn có của một sản phẩm sáng tạo và biến nó thành một dạng bài
tập lớn mà mọi giáo viên phải hoàn thành mỗi năm.
3. Bản Chất Hành Chính Hóa Tri Thức: Khi Sáng Tạo Bị Nhốt Trong
Khuôn Khổ
Về bản chất, sáng kiến kinh
nghiệm đáng lẽ phải là không gian để giáo viên ghi lại, phản tỉnh một cách chân
thực và chia sẻ những trải nghiệm nghề nghiệp quý báu. Nhưng khi nó bị buộc
chặt vào các tiêu chí xét thi đua, chấm điểm, nâng lương, nâng hạng chức danh,
nó nhanh chóng biến thành một thủ tục hành chính nặng nề.
Mẫu “sáng kiến kinh nghiệm” hiện hành buộc giáo viên phải mô phỏng một cấu
trúc nghiên cứu hàn lâm, trong khi phần lớn họ không được đào tạo bài bản về
phương pháp luận nghiên cứu khoa học. Khoảng cách giữa yêu cầu và năng lực thực
tế tạo ra một loạt hệ quả tiêu cực:
• Người viết tập trung vào
việc điền vào ô trống cho đủ các phần, hơn là dành thời gian để suy ngẫm sâu
sắc về vấn đề thực tiễn.
• Nhiều sáng kiến trở nên
giống nhau một cách đáng ngờ, được sao chép, chỉnh sửa tên đề tài hoặc số liệu
từ năm này sang năm khác, hoặc giữa đồng nghiệp.
• Tri thức nghề nghiệp
(phronesis), tức là tri thức đúc kết từ kinh nghiệm và sự nhạy cảm trong xử lý
tình huống sư phạm, bị thay thế bằng ngôn ngữ khuôn mẫu, sáo rỗng và đầy khẩu
hiệu.
Đây chính là biểu hiện điển
hình của hành chính hóa tri thức, khi quá trình học nghề và phát triển năng lực
chuyên môn bị đồng nhất với việc hoàn thành các thủ tục giấy tờ. Giá trị thực
bị đánh tráo bởi hình thức.
4. Đối Chiếu Với Truyền Thống Quốc Tế Và Sự Biến Dạng Của Một Mô
Hình Tốt
Ở các nền giáo dục tiên tiến
như Mỹ, Anh, New Zealand, Úc, giáo viên không hề bị bắt buộc phải có sáng kiến
kinh nghiệm hay đề tài nghiên cứu hàng năm. Thay vào đó, họ được đánh giá dựa
trên:
• Hiệu quả giảng dạy thực tế
và sự tiến bộ rõ rệt của học sinh.
• Năng lực hợp tác, tinh
thần chuyên nghiệp và những đóng góp cụ thể cho cộng đồng nhà trường.
• Quá trình bồi dưỡng nghề
nghiệp liên tục (professional development) mang tính tự nguyện và thiết thực.
Giáo viên có thể tự nguyện
tham gia các dự án “Nghiên cứu Hành động” (Action Research), nhưng đó là hoạt
động học hỏi nội tại, không mang tính ép buộc và không gắn với thi đua.
Một ví dụ thực tế: năm 2003,
trong khuôn khổ một dự án của Bộ Giáo dục và Đào tạo tại New Zealand, tôi được
Trường Cao đẳng Sư phạm Dunedin (Dunedin College of Education) giới thiệu về mô
hình Action Research. Người hướng dẫn, một giáo sư giàu kinh nghiệm từng làm
việc với thực tập sinh Việt Nam, nhận xét thẳng thắn:
“Cách làm nghiên cứu của
giáo viên Việt Nam quá phức tạp, nặng về hình thức và cấu trúc, nên cuối cùng
thường không có nhiều giá trị thực tiễn.”
Ông trình bày một mô hình
Action Research giản dị nhưng hiệu quả. Nếu trong lớp học xuất hiện một vấn đề,
chẳng hạn sự kỳ thị giới tính, bạo lực học đường ngầm hay mâu thuẫn giữa các
nhóm sắc tộc ảnh hưởng đến không khí học tập, giáo viên có thể chọn đó làm đề
tài. Tuy nhiên, ông nhấn mạnh:
“Vấn đề phải đủ lớn để ảnh
hưởng đến cả cộng đồng lớp học, chứ không chỉ là vấn đề của một vài cá nhân.”
Quy trình ông giới thiệu chỉ
gồm bốn bước cơ bản:
1. Quan sát và nhận diện vấn
đề một cách có hệ thống.
2. Đưa ra giả thuyết và
phương án hành động cụ thể để can thiệp.
3. Thực hiện hành động và
theo dõi diễn biến.
4. Đánh giá lại hiệu quả,
nếu chưa đạt, điều chỉnh và làm lại từ đầu.
Ông kết luận:
“Action research không phải
để viết một báo cáo dày cộp, mà để hiểu rõ hơn về học sinh và về chính nghề dạy
học của mình.”
Tuy nhiên, khi mô hình này
du nhập vào Việt Nam khoảng năm 2005 trong Dự án Việt – Bỉ giai đoạn 2, nó bị
phức tạp hóa quá mức. Đợt triển khai này diễn ra sau khi một số người được chọn
sang Singapore để tham quan học hỏi. Chuyên viên giám sát của bộ là một người
có chuyên môn Mỹ thuật đã can thiệp và biến nó thành nghiên cứu thống kê rườm
rà. Giáo viên tham gia dự án phải xem các phép tính như Chi-square mà không
hiểu mục đích ban đầu. Kết quả, một mô hình học hỏi linh hoạt, đơn giản bị biến
thành thủ tục vô ích và xa rời thực tiễn lớp học. Cuối cùng không ai hiểu bản
chất của vấn đề là gì cả. Thế rồi dự án này vẫn được coi là thành công tốt đẹp.
5. Tác Động Lâu Dài Và Rào Cản Vô Hình Đối Với Sự Phát Triển Nghề
Nghiệp
Việc duy trì “sáng kiến kinh
nghiệm” như một tiêu chí cứng nhắc trong
thi đua không chỉ gây mệt mỏi nhất thời mà còn tạo ra rào cản lâu dài đối với
sự phát triển nghề nghiệp của giáo viên:
1. Phân tán thời gian và
năng lượng: thay vì đầu tư vào soạn bài, nghiên cứu tài liệu, trò chuyện với
học sinh hoặc trao đổi chuyên môn, giáo viên phải dồn sức cho việc chế tác “sáng
kiến kinh nghiệm”.
2. Sai lệch mục tiêu phản
tỉnh: phản tỉnh (reflection) vốn là linh hồn của phát triển chuyên môn, nhưng
khi bị ép vào khuôn mẫu cứng nhắc, nó đánh mất ý nghĩa tự thân.
3. Tê liệt động lực đổi mới:
trong môi trường mà sáng kiến đúng mẫu dễ được công nhận hơn sáng kiến thực
tiễn, giáo viên dần học cách đối phó. Họ viết đúng quy trình, nhưng không viết
thật. Đây là sự bào mòn đạo đức nghề nghiệp một cách nguy hiểm.
Hệ thống ấy vô tình tạo ra
lớp giáo viên khôn ngoan trong đối phó, nhưng mất dần khát vọng sáng tạo và
dũng cảm đổi mới.
6. Kết luận: Giải Phóng Sáng Kiến, Trả Lại Ý Nghĩa Nhân Văn Cho
Nghề Dạy Học
Giải pháp không phải là xóa
bỏ việc viết sáng kiến, mà là giải phóng nó khỏi cơ chế hành chính hóa và thi
đua hóa. Giáo viên không cần và cũng không thể trở thành nhà nghiên cứu hàn
lâm. Điều họ cần là tinh thần gốc của sáng kiến, tinh thần tìm tòi, thử nghiệm,
quan sát phản ứng của học sinh, rút kinh nghiệm thực tiễn và chia sẻ chân thành
với đồng nghiệp.
Hình thức sáng kiến cần được
đa dạng hóa. Một bản ghi chép ngắn gọn, một video, hay một hồ sơ điện tử ghi
lại minh chứng về sự tiến bộ của học sinh, tất cả đều đáng giá hơn những đề tài
chuẩn mẫu dày cộp mà vô hồn.
Muốn vậy, hệ thống thi đua
và khen thưởng phải thay đổi căn bản, chuyển từ đánh giá hồ sơ giấy tờ sang
đánh giá năng lực phát triển nghề nghiệp thực sự. Hãy tôn vinh sự chân thật,
tận tâm và hiệu quả thực tế, thay vì sự khéo léo trong việc tuân thủ quy định.
Chỉ khi đó, sáng kiến kinh
nghiệm mới trở lại đúng với cái tên và ý nghĩa nhân văn ban đầu của nó.
-------------
Tài
liệu tham khảo:
1. Báo Dân trí (2023). Sáng kiến kinh nghiệm
- 'Bệnh thành tích' trong ngành giáo dục.
2. Báo Giáo dục & Thời đại (2023). Thực
hộ chuyện 'mua - bán' sáng kiến kinh nghiệm trong giáo dục.
3. Báo Thanh Niên (2024). Sáng kiến kinh
nghiệm và nỗi ám ảnh của giáo viên.
4. Báo Tuổi Trẻ (2023). Sáng kiến kinh
nghiệm: Chuyện 'trên bảo dưới không nghe'.
5. Tạp chí Tổ chức Nhà nước (2023). Thực
trạng áp dụng Luật Thi đua, khen thưởng 2022 trong ngành giáo dục.
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Phùng Hiệu “sửa thơ”
của Đặng Xuân Xuyếnl
- Thế thái nhân
tình qua thơ Đặng Xuân Xuyếnl
- Về “Chân dung 99
nhà văn Việt Nam đương đại”l
- Đọc bài thơ “Say
Yêu” nghĩ về thơ tình Đặng Xuân Xuyếnl
- Thơ về rượu của
Đặng Xuân Xuyếnl
- “Kiến, chuột và
ruồi…” – Bài thơ châm biếm của Đặng Xuân Xuyếnl
- Gã Khờ hay thằng
ngốc còn sót lại ở thế kỷ XXI nàyl
- Cảm nhận khi đọc
truyện ngắn “Cô Sướng cưới vợ”l
- Phong cách độc
đáo và khác biệt trong thơ về rượu của Đặng Xuân Xuyếnl
- “Ký ức đêm” của
Đặng Xuân Xuyến: những khoảnh khắc thơ hay hay những mảnh vụn ngôn từl
VÀI HÌNH ẢNH NGÀY KHAI TRƯƠNG NHÀ SÁCH VĂN HIẾN
- CÔNG TY TNHH VĂN HÓA BẢO THẮNG:
BÙI VĂN ĐỊNH
(Giảng viên trường Cao Đẳng Sư
Phạm Hòa Bình)
Địa chỉ: Chung cư Dạ Hợp 12 tầng, Tân Thịnh,
thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa
Bình.
Email:
buidinhhb1@gmail.com
Điện thoại: 091 539 65 47
.............................................................................................................
- Cập nhật theo nguyên bản tác
giả gửi ngày 28 tháng10 năm 2025.
- Ảnh dùng minh họa cho bài viết
được sưu tầm từ nguồn: internet.
- Bài viết không
thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.jpg)


0 comments:
Đăng nhận xét