TÂM ÁC QUỶ THEO SAU
TÂM LÀNH PHÚC TÌM ĐẾN
Quý độc giả thân mến, cổ huấn phương Đông có một câu nói rất phổ
biến như thế này: “Thiện ý một câu ấm ba đông, Lời ác lạnh người sáu tháng
ròng!” vậy nên từng ý từng niệm trong đầu của con người ta là vô cùng quan
trọng, nếu là thiện niệm sẽ mang đến vận may và phúc báo; còn nếu là ác niệm sẽ
sinh ra phiền toái, khiến quỷ ma tương thông mà đeo bám theo sau, thậm chí là
đem tới tai họa tán gia, bại sản, diệt thân…
Câu chuyện về một người phú nông vì bị quỵt nợ mà xuất ra ác
niệm muốn sát nhân báo oán, sau kịp dừng tay, chuyển ý hồi tâm, lại nhận được
phúc báo được kể sau đây sẽ minh chứng cho điều này…
Nghĩ ác ma quỷ theo
sau; xuất ra thiện niệm phúc đâu tự về!…
Ý niệm của con người rất quan trọng, nếu là thiện niệm sẽ mang
đến vận may, còn nếu là ác niệm sẽ sinh ra phiền toái, thậm chí là tai họa diệt
thân.
Chuyện xưa chép rằng: Vào triều đại nhà Nguyên, ở Sơn Đông có
một người phú nông mù chữ tên là Nguyên Tự Thực. Tuy không tường con chữ nhưng
gia cảnh nhà anh ta rất giàu có, nhờ có nhiều đồng ruộng và trang viên rộng
lớn. Thuở ấy, cùng quê với Nguyên Tự Thực có một người tên là Mâu Quân, Mâu
Quân may mắn được triều đình bổ nhiệm cho làm một chức quan nhỏ tại Phúc Kiến.
Vì thiếu tiền lên đường nhậm chức nên Mâu Quân đã đến nhà Tự Thực vay 200 lượng
bạc. Tự Thực vì có tình cảm đồng hương nên đã cấp đủ số tiền đó cho Mâu Quân.
Vào những năm cuối triều Nguyên, Sơn Đông đại loạn, Tự Thực bị
nhiều toán cướp đến cướp bóc nên gia tài mất trắng không còn gì cả. Lúc ấy, ở
Phúc Kiến lại rất yên ổn. Vì vậy, Tự Thực đã dẫn vợ và con đến huyện lỵ Phúc
Châu thuộc phủ Phúc Kiến với ý định tìm kiếm Mâu Quân để nhờ vả nương tựa.
Vậy là cả nhà Nguyên Tự Thực đến Mâu gia, họ vào gặp Mâu Quân
bái kiến, lúc này Nguyên Tự Thực vừa khóc vừa nói: “Năm mới sắp đến, vợ
con tôi đói khổ lạnh lẽo, trong túi không có một đồng xu, trong hộc cũng không
còn một chút lương thực hay thức ăn nào. Trước đây, ngài có vay tôi 200 lượng
bạc, hôm nay tôi cũng không dám yêu cầu ngài trả lại, chỉ mong ngài cứu giúp
chúng tôi khỏi cảnh chết đói là cũng coi như đã ban ơn cho bạn bè xưa cũ rồi.
Mong ngài thương cảm chúng tôi một chút!”
Nói xong, cả nhà họ quỳ gối, dập đầu xuống mặt đất.
Mâu Quân vội tới đỡ họ đứng dậy rồi đưa ngón tay ra tính toán,
đoạn nói: “Hơn 10 ngày nữa sẽ là giao thừa, anh có thể đưa toàn gia quay
trở về nhà chờ đợi. Tôi sẽ phái người mang đến nhà anh hai thạch gạo, hai nén
bạc để tạm làm chi phí mừng Tết năm mới. Hy vọng anh không chê ít”. Hơn
nữa, Mâu Quân còn cẩn thận dặn dò cả nhà họ Nguyên cứ yên tâm chờ đợi, không
cần ra ngoài mong ngóng.
Nguyên Tự Thực cảm kích quay về, cũng nhắc lại những lời nói của
Mâu Quân để an ủi vợ con. Nhưng cứ hết ngày này qua ngày nọ, họ mòn mỏi đợi chờ
trong vô vọng mà vẫn không nhận được những thứ mà Mâu Quân đã hứa.
Thêm một ngày nữa đã là sang năm mới, vì bị thất hứa nên gia
đình Tự Thực không có lấy một chút cơm để ăn, vợ con đói khổ sụt sùi khóc lóc.
Tự Thực quẫn chí phẫn nộ, lặng thầm mài sẵn một con dao thật sắc, đợi khi trời
sáng.
Đến lúc tiếng trống canh vừa dứt, Nguyên Tự Thực với vẻ mặt đằng
đằng sát khí, một mạch chạy đến nhà Mâu Quân, chỉ đợi anh ta ra ngoài sẽ đâm
chết. Lúc này, trời vẫn đang tờ mờ chưa sáng hẳn, trên đường không có bóng dáng
một ai qua lại, chỉ có vị hòa thượng tên là Hiên Viên đang ngồi trong ngôi chùa
nhỏ ngay phía bên đường thắp nến tụng kinh. Vị hòa thượng trông thấy Nguyên Tự
Thực đi phía trước, theo sau có mười mấy tên quỷ sứ hình thù kỳ quái đi theo,
có tên quỷ cầm đao kiếm, có tên thì lại cầm gậy tóc tai hung đỏ bù xù, bộ dạng
xem chừng rất chi là hung ác.
Một lúc lâu Hiên Viên hòa thượng lại trông thấy Tự Thực lững
thững quay trở về. Phía sau anh ta khi này lại có khoảng trên dưới 100 người
đầu đội mũ lấp lánh ánh kim quang, thân đeo ngọc bội, vẻ mặt hết sức từ ái
tường hòa đi theo. Có người giương cao cờ phướn và lọng che, có người lại giơ
cao tấm biểu ghi lời khen ngợi… đoàn người tiền hô hậu ủng với không khí vui
mừng, điệu bộ của họ xem ra vô cùng thảnh thơi mãn nguyện. Hiên Viên hòa thượng
khi ấy bất chợt máy động tâm linh và thầm nghĩ rằng: Tự Thực chắc chắn đã gặp
phải hung sự mà chết rồi!… Vậy là ngay sau khi vừa tụng kinh xong, ông liền vội
vội vàng vàng tìm đến thăm Nguyên Tự Thực. Nhưng quả thật bất ngờ, ông thấy Tự
Thực vẫn bình an vô sự.
Hiên Viên hỏi Tự Thực: “Sáng sớm nay, ông đi đến đâu mà sao
lúc đi lại vội vội vàng vàng, điệu bộ hầm hầm tức giận, nhưng lúc về lại chậm
rãi khoan thai và thư thái như vậy? Hy vọng ông nói cho tôi nghe một chút được
không?“
Tự Thực không giấu giếm chút gì, liền kể hết cho vị hòa thượng
nghe: “Mâu Quân vô ân bội nghĩa nghĩa, mượn tiền không trả, khiến cả nhà tôi
rơi vào cảnh vô cùng khốn đốn. Buổi sáng sớm nay, tôi đúng là đã mang theo dao,
định đến giết chết anh ta cho thỏa nỗi uất ức trong lòng. Nhưng đến lúc cổng
nhà họ mở ra, tôi lại đột nhiên nghĩ: “Anh ta đúng là đã đắc tội với mình,
nhưng vợ con của anh ta đâu có tội tình gì? Hơn nữa, anh ta còn có mẹ già cần
chăm nom hiếu đễ. Nếu như hôm nay ta giết chết anh ta thì cả nhà họ biết nương
nhờ vào ai? Thà rằng để người ta phụ lòng mình cũng không để mình phụ lòng
người ta được”. Thế là tôi đành nhịn cơn tức giận ấy mà quay trở về”.
Hòa thượng Hiên Viên sau khi nghe xong, chắp tay hành lễ mà chúc
mừng, nói: “Ông làm như vậy chắc chắn toàn gia sẽ có hậu phúc, bởi vì Thần
linh đã minh tỏ chuyện này”. Tự Thực lấy làm lạ lắm, liền hỏi nguyên do.
Hiên Viên trả lời: “Ông có niệm ác thì ác quỷ đến, ông có niệm
thiện thì Phúc thần sẽ ban phúc lành xuống. Điều này là nhân quả, thiện ác hữu
báo như hình với bóng, ắt không sai chệch được, đó chính là “gieo nhân nào được
quả nấy” nó cũng hiển nhiên giống như việc con người ta trồng dưa được dưa,
trồng đậu được đậu mà thôi! Cho nên làm người thì quyết đừng nảy sinh ý niệm
làm điều ác, lại càng không thể hành ác phạm tội mà tổn đức”. Hiên Viên
hòa thường còn đem câu chuyện mình đã nhìn thấy khi sáng kể lại hết cho Nguyên
Tự Thực nghe, đồng thời cũng tận tình an ủi anh ta. Vị hòa thượng nhân từ này
còn lấy ra một ít gạo và tiền công đức để cứu trợ cho gia đình họ.
Kiếp trước cậy tài kiêu
ngạo – kiếp sau thiếu gạo, mù chữ!…
Tuy nhiên, Tự Thực vẫn không thể lấy đó làm vui, do quá tuyệt
vọng vì gia cảnh túng quẫn, lòng người đen bạc, đến tối hôm đó, anh ta đã tìm
tới một cái giếng hoang phía sau một ngọn núi để tự vẫn.
Ai ngờ, khi Nguyên Tự Thực vừa gieo mình nhảy xuống, nước giếng
đột nhiên rẽ ra, lại thấy hai bên bờ đá dốc đứng, chính giữa có một đường hầm
hẹp chỉ đủ cho một người đi. Tự Thực vừa mò mẫm vừa đi vào trong địa đạo, chỉ
khoảng mấy trăm bước sau thì đi hết con đường và ngay phía trước lộ ra cả một
thế giới khác lạ. Ở đây có thể nhìn thấy trời đất rộng lớn, ánh sáng chiếu rọi
chan hòa, chim muông hòa thanh ríu rít…
Đang vừa đi vừa mải miết ngắm nhìn, thốt nhiên Tự Thực thấy mình
đang bước vào một tòa cung điện lớn, trên bức đại tự phía cửa chính có viết 4
chữ bằng vàng: “Tam sơn phúc địa”. Sau khi đọc xong, Tự Thực liền đi vào
phía trong, chỉ thấy toàn hành lang đều im ắng. Anh ta không dám bước tiếp,
nhìn xem tứ phía xung quanh, xa ngút ngàn dặm cũng không có một bóng người, chỉ
nghe thấy tiếng chuông ngân vang, loáng thoáng có mây bay đến. Lúc này, Tự Thực
đã rất đói khát, không thể đi nổi nên nằm thiếp đi bên cạnh thạch đàn (thạch
đàn là đàn tế lễ bằng đá cổ ngày xưa).
Bỗng nhiên có một vị đạo sĩ đi đến trước mặt Tự Thực, gọi anh ta
dậy rồi cười hỏi: “Hàn Lâm công đi ra ngoài tìm hiểu đã hiểu rõ mùi vị bên
ngoài chưa?”
Nguyên Tự Thực chắp tay trả lời: “Rời xa quê nhà, tôi đã
thưởng thức đủ mùi vị rồi! Nhưng vì sao ngài lại gọi tôi là “Hàn Lâm” vậy?”
Đạo sĩ nói: “Ngài chẳng lẽ không nhớ gì về chuyện từng khởi
thảo chiếu thư ở Hưng Thánh Điện sao?“
Tự Thực nói: “Tôi là một nông dân ở Sơn Đông, vốn thuộc
tầng lớp dân đen hèn hạ, mù chữ dốt nát, cả cuộc đời chưa từng dạo chơi
qua kinh thành, sao có thể có chuyện khởi thảo ra chiếu thư mà ngài nói vậy?”
Đạo sĩ cười nói: “Ngài chính là bị rối loạn tâm thức nên
không còn nhớ sự tình xảy ra trước đây rồi!” Thế là, ông ta liền lấy mấy
miếng lê táo giấu trong tay áo ra cho Tự Thực ăn, còn nói: “Sau khi ăn
hết, ngài sẽ biết rõ sự tình trong quá khứ và tương lai”.
Nguyên Tự Thực ăn xong vài miếng lê táo, liền như choàng tỉnh
ngộ mà nhớ lại thời mình còn là một học sĩ khi xưa. Những việc khởi thảo chiếu
thư trong Hưng Thánh Điện tại kinh thành như mới vừa xảy ra ngày hôm qua vậy!
Tự Thực lập tức nói: “Xin hỏi ngài, kiếp trước Tự Thực phạm phải tội gì mà
kiếp này phải chịu báo ứng như vậy?”
Đạo sĩ nói: “Ngài cũng không phạm tội gì lớn cả, chỉ là lúc
đương chức đã tự cao tự đại, kiêu mạn về học vấn của mình, không chịu cất nhắc
dạy bảo học trò, cho nên kiếp này phải chịu cảnh ngu muội không biết chữ. Ngài
cũng cậy có tước vị cao không kết giao với những kẻ tha phương dốt nát có tước
vị thấp, cho nên kiếp này phải chịu cảnh mù chữ và phiêu bạt”.
Nguyên Tự Thực liền đem chuyện Mâu Quân thiếu nợ của mình ra hỏi
nguyên do. Đạo sĩ nói: “Người đó chính là người quản kho của Vương Tướng quân,
tài vật sao có thể tùy tiện lộn xộn sử dụng được? Không tới ba năm, thế đạo sẽ
có đại biến động, đại họa sắp sửa tiến đến, vô cùng đáng sợ. Ngài nên lựa chọn
rời khỏi địa phương, nếu không chỉ sợ sẽ bị liên lụy đến việc này mà lọt vào
tai hoạ”.
Tự Thực cầu xin đạo sĩ chỉ cho nơi có thể sinh sống để tránh né
chiến tranh, loạn lạc. Đạo sĩ nói: “Phúc Thanh có thể sống.” Rồi lại nói:
“Nhưng không bằng Phúc Ninh”. Đạo sĩ còn nói thêm: “Ngài đến đây đã lâu
rồi, mọi người trong nhà đều đang rất mong mỏi, hiện tại ngài có thể trở về
đi!”.
Nói xong đạo sĩ chỉ cho Nguyên Tự Thực một con đường ngay cạnh
cung điện để trở về, Nguyên Tự Thực đi hơn hai dặm đường và phát hiện phía sau
núi có một cái động thông ra bên ngoài.
Trở về đến nhà mới biết đã 6 tháng trôi qua. Tự Thực vội vàng
mang vợ con đến Phúc Ninh, khai hoang ruộng đồng, trồng trọt sinh sống qua
ngày. Lúc anh ta cuốc đất, chợt nghe thấy tiếng loong coong, moi lên thì phát
hiện ra bốn đĩnh bạc chôn dưới đất, vì vậy cuộc sống cũng đỡ khó khăn hơn. Còn
Mâu Quân sau này vì chiến tranh loạn lạc nên bị Vương Tướng quân giết chết và
cướp hết gia tài, mọi việc xảy ra giống như lời đạo sĩ đã nói khi trước.
Nguyên Tự Thực vào thời khắc mấu chốt có thiện niệm đã cải biến
được phần đời còn lại. Đối với con người ngày nay có lẽ cũng là bài học để tham
chiếu vậy.
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Các bài viết về
khoa Phong Thủy0
- Các bài viết về
khoa Tướng thuật0
- Các bài phê
bình, cảm nhận thơ0
- Các bài viết về
chăm sóc sức khỏe0
- Các bài viết về
Kiến thức cuộc sống0
- Các bài viết về
Chuyện làng văn0
Mời nghe Đặng Xuân Xuyến đọc bài thơ CUỒNG YÊU:
Đào Anh Dũng giới thiệu
Tác giả: Đường Phong -
nguồn: vandieuhay
Ảnh minh họa sưu tầm từ nguồn: internet
Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.


0 comments:
Đăng nhận xét