NHÀ NGÔ
VÀ LOẠN 12 SỨ QUÂN (939-968)
Nhà Ngô 
(Tác giả Lý Thành Phương)
Năm 939, Ngô Quyền, sau khi đánh thắng quân Nam Hán, lên
ngôi, đóng đô ở Cổ Loa, lập Dương thị làm hoàng hậu, đặt trăm quan, chế
định triều nghi phẩm phục. Nhà Ngô là một triều đại trong lịch sử
Việt Nam, truyền được hai đời nhưng có tới ba vị vua, kéo dài từ
năm 939 đến năm 965.
Khoảng thời gian xen giữa từ 944 đến 950 còn
có Dương Bình Vương tức Dương Tam Kha. Hậu duệ nhà Ngô không đủ khả năng
cai trị đất nước. Nước Việt non trẻ bước vào một thời kỳ hỗn loạn mà lịch sử
gọi là loạn 12 sứ quân.
Loạn 12 sứ quân, là một giai đoạn các vùng cát cứ quân gây sự giao
tranh với nhau và tạo ra loạn lạc trong lịch sử Việt Nam mà đỉnh cao
của nó xen giữa thời kỳ nhà Ngô và nhà Đinh. Cuộc loạn lạc này
có nguyên nhân sâu xa từ quá trình phân hóa xã hội thời Bắc thuộc, dẫn đến việc
xuất hiện tầng lớp thổ hào, quan lại có thế lực mạnh về kinh tế, chính trị và
tạo ra sự phân tán cát cứ. Thực chất của cuộc nội chiến này là việc đấu tranh
giành quyền lực tối cao trên đất Văn Lang của các thủ lĩnh địa phương
khi nhà Đường suy yếu, người Việt có cơ hội đứng lên tranh giành
quyền lãnh đạo. Giai đoạn này có mầm mống từ đầu thế kỷ thứ 10 và có cơ hội
phát triển mạnh từ khi Dương Tam Kha cướp ngôi nhà Ngô, các nơi
không chịu thuần phục, các thủ lĩnh nổi lên cát cứ một vùng, thậm chí
xưng Vương và đem quân đánh chiếm lẫn nhau.
Giai đoạn 12 sứ quân kéo dài hơn 20 năm (944 – 968) và
kết thúc khi Đinh Tiên Hoàng thống nhất đất nước, lập ra nhà
nước Đại Cồ Việt – nhà nước phong kiến tập quyền đầu tiên trong lịch
sử.
Bối cảnh và lịch sử
Năm 905, nhà Đường suy yếu, Khúc Thừa
Dụ là Hào trưởng Chu Diên, được dân chúng ủng hộ, đã tiến quân ra chiếm
đóng phủ thành Đại La (Hà Nội), tự xưng là Tiết độ sứ. Họ Khúc đã mở đầu thời
kỳ tự chủ của người Việt sau hơn 1.000 năm Bắc thuộc.
Năm 906, tướng Nguyễn Nê theo lệnh vua Đường đem 7.000 quân sang
nước Việt đòi họ Khúc triều cống. Nguyễn Nê dựng bản doanh ở Thành Quả lấy vợ
Việt sinh ra ba con trai sau này là các sứ quân nguyễn Khoan, Nguyễn Thủ Tiệp
và Nguyễn Siêu. Cũng trong thời kỳ nhà Đường suy yếu, nhiều thủ lĩnh Trung
Hoa chạy loạn xuống Tĩnh Hải quân lập ấp mà con cháu họ sau này trở thành các
sứ quân như Đỗ Cảnh Thạc và sứ quân Trần Lãm
Năm 918, Khúc Hạo mất, Khúc Thừa Mỹ lên thay hèn yếu,
bất lực dù đã có Đại La vẫn không khống chế nổi các hào trưởng địa
phương, phải cầu viện ngoại viện nhà Lương. Quân Nam Hán tiến sang, bắt Khúc
Thừa Mỹ và đem về Quảng Châu.
Năm 931, hào trưởng Dương Đình Nghệ từ Ái châu đánh đuổi
thứ sử Lý Tiến của nước Nam Hán, giải phóng thành Đại La. Lưu Cung sai Trần Bảo
mang quân sang tiếp viện. Dương Đình Nghệ chủ động mở cửa thành
nghênh đón địch, tiêu diệt viện binh Nam Hán, chém chết Trần Bảo. Sau đó ông tự
lập làm Tiết độ sứ, dùng Ngô Quyền, Đinh Công Trứ (thân sinh
của Đinh Bộ Lĩnh), Kiều Công Tiễn làm nha tướng.
Năm 937, Kiều Công Tiễn, hào trưởng Phong Châu, một tướng
dưới quyền đã giết hại Dương Đình Nghệ để cướp quyền với lý do Đình Nghệ là
người gây ra cái chết của Khúc Thừa Mỹ, chúa cũ của Tĩnh Hải quân. Hai cháu nội
Tiễn là Kiều Công Hãn và Kiều Thuận sau này trở thành các
sứ quân ở gần khu vực Phong Châu.
Năm 938, Ngô Quyền là con rể Dương Đình
Nghệ ra giết Kiều Công Tiễn rồi dẹp giặc Nam Hán ở sông
Bạch Đằng, lên ngôi Vua, lập ra nhà Ngô, dựng lại quyền tự chủ. Trong số các
tướng có sứ quân Đỗ Cảnh Thạc, sứ quân Kiều Công Hãn và sứ
quân Phạm Bạch Hổ. Tàn dư họ Kiều còn lại là sứ quân Kiều
Thuận chạy về chiếm vùng núi Hồi Hồ và liên kết với Ma Xuân Trường
thâu tóm các tộc trưởng miền núi.
Triều đình Cổ Loa dẹp
loạn
Năm 944, Ngô Quyền mất, con trai Dương Đình Nghệ
là Dương Tam Kha, anh của Dương hoàng hậu, cướp ngôi, tự lập mình làm
vua, xưng Dương Bình Vương. Ngô Xương Ngập chạy về nhà một hào trưởng
– Phạm Lệnh Công ở làng Trà Hương (Hải Dương). Dương Tam
Kha ba lần sai quân đi bắt Ngô Xương Ngập mà không được.
Từ khi Dương Tam Kha lấy ngôi của nhà Ngô, thêm
nhiều nơi không chịu thần phục. Đặc biệt là loạn ở hai thôn Đường – Nguyễn,
nhiều thủ lĩnh nổi lên chống đối như sứ quân Ngô Nhật Khánh ở Đường
Lâm (thôn Đường) và sứ quân Nguyễn Khoan nổi dậy ở Tam Đái (thôn
Nguyễn), sứ quân Phạm Bạch Hổ là con của Phạm Lệnh Công chiếm Đằng
Châu, sứ quân Trần Lãm chiếm giữ ở Bố Hải Khẩu.
Năm 950, Dương Tam Kha sai Ngô Xương Văn đi đánh 2 thôn
Đường Lâm và Nguyễn Gia Loan ở Thái Bình. Ngô Xương Văn cho rằng đây là các ấp
vô tội và thuyết phục 2 tướng dẫn quân quay lại lật đổ Dương Tam Kha. Xương Văn
không giết Tam Kha, chỉ giáng xuống làm Chương Dương công. Năm 950, Ngô Xương
Văn tự xưng làm Nam Tấn Vương, đóng đô ở Cổ Loa. Ngô Xương Văn cho người
đón anh trai Ngô Xương Ngập về cùng làm vua, là Thiên Sách Vương. Lúc
đó cùng tồn tại hai vua Nam Tấn Vương và Thiên Sách Vương. Sử sách gọi là Hậu
Ngô Vương.
Năm 951, Hậu Ngô Vương tiến đánh Đinh Bộ Lĩnh ở Hoa
Lư hơn một tháng không được đành bắt Đinh Liễn, con cả của Đinh Bộ
Lĩnh về Cổ Loa làm con tin. Cũng từ đó Ngô Xương Ngập chuyên quyền, không cho
Xương Văn tham dự chính sự nữa.
Năm 954, Ngô Xương Ngập bị bệnh thượng mã phong mà
chết, chỉ còn một vua là Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn.
Sau khi Thiên Sách vương mất, thủ lĩnh ở quận Thao Giang là Chu
Thái quật cường không thần phục nhà Ngô. Nam Tấn vương thân chinh đi đánh, chém
được Chu Thái. Cũng sau thời gian này, Ngô Xương Văn đi đánh giặc Lý Huy/Dương
Huy ở châu Tây Long, đóng quân ở cửa Phù Lan, suốt tháng trời giặc tan mới
rút quân trở về.
12 Sứ quân
Năm 965, Ngô Xương Văn đi đánh thôn Đường tức Đường Lâm
của sứ quân Ngô Nhật Khánh và thôn Nguyễn Gia Loan của sứ
quân Nguyễn Thái Bình bị phục binh bắn nỏ chết. Khi Ngô Xương Xí
nối ngôi, Ngô Nhật Khánh là anh em cùng họ cũng kéo quân từ Đường Lâm về Cổ Loa
tranh giành.
Cũng trong năm 965 thứ sử Phong Châu Kiều Công Hãn kéo
quân về triều đình Cổ Loa cùng tranh ngôi vua với Lã Xử Bình. Con của
Ngô Xương Ngập là Ngô Xương Xí phải lui về giữ đất Bình Kiều, trở
thành Ngô sứ quân. Theo sử gia Ngô Thì Sỹ thì lúc đó Nam Tấn Vương mới mất,
trong nước rối ren, Đinh Liễn nhân lúc loạn lạc mà trốn về. Đinh
Liễn sau 15 năm làm con tin ở Cổ Loa trở về Hoa Lư, cùng
cha Đinh Bộ Lĩnh sang đầu quân cho sứ quân Trần Lãm ở Thái
Bình.
Năm 966 thứ sử Dương Huy, thứ sử Kiều Công Hãn, tham
mưu Lã Xử Bình và nha tướng Đỗ Cảnh Thạc tranh nhau làm
vua. Đinh Bộ Lĩnh giết được Lã Xử Bình, kiểm soát được
thành Cổ Loa. Các tướng Kiều Công Hãn, Đỗ Cảnh Thạc thua chạy về
Phong Châu và Đỗ Động, nổi dậy thành sứ quân.
Tổng cộng có 12 sứ quân. Họ là:
1. Trần Lãm: là người gốc Hoa, sau
trở thành một sứ quân mạnh, trấn giữ vùng cửa biển sông Hồng, có tiềm lực về
kinh tế dựa vào lợi thế của nghề đánh cá biển. Lực lượng của Trần
Lãm ở Bố Hải Khẩu có sự liên kết, phối hợp với Đinh Bộ Lĩnh.
Khi Tràn Lãm mất, Đinh Bộ Lĩnh hợp nhất lực lượng Bố Hải
Khẩu về Hoa Lư để đánh dẹp các sứ quân khác.
2. Ngô Xương Xí: vốn là dòng dõi nhà
Ngô. Khi Ngô Xương Văn mất, các tướng Lã Xử Bình, Kiều Tri
Hựu, Đỗ Cảnh Thạc, Dương Huy tranh nhau làm vua. Ngô Xương
Xí phải rời bỏ Kinh đô về chiếm vùng núi Bình Kiều, Thanh Hóa, trở
thành một sứ quân. Ngô sứ quân chiếm đóng và xây dựng thành Bình Kiều. Sau ông
cùng với Phạm Bạch Hổ và Ngô Nhật Khánh hàng phục nhà
Đinh.
3. Đỗ Cảnh Thạc: vốn người gốc Hoa. Ông
từng là tướng nhà Ngô, rồi Dương Tam Kha. Tham gia tranh ngôi vua khi Ngô Xương
Văn mất. Đỗ Cảnh Thạc lập hành cung có cung thành chắc chắn và hào
sâu bao quanh, gồm 72 trại sở, tu tạo thuyền chiến, tích trữ lương thảo, binh
sĩ trở và thành một sứ quân rất mạnh ở vùng Đỗ Động Giang. Lực lượng của ông
giao tranh hơn một năm với lực lượng của Đinh Bộ Lĩnh rồi bị giết năm
967.
4. Phạm Bạch Hổ: vốn là tướng nhà Ngô,
trấn giữ Hải Đông (vùng Quảng Ninh, Hải Dương, Hải Phòng, Hưng Yên ngày nay).
Khi nhà Ngô mất, ông trở thành một sứ quân mạnh, được tôn xưng là Vua Mây. Sau
một số lần giao tranh, ông hàng phục nhà Đinh. Hiện được nhiều nơi ở vùng
châu thổ sông Hồng lập đền thờ.
5. Kiều Công Hãn: vốn là tướng nhà Ngô.
Giữ chức thứ sử Phong Châu, từng tham gia tranh ngôi vua khi Ngô Xương Văn mất
và trở thành một trong 12 sứ quân chiếm giữ 3 châu Hào, Thái, Phong. Kiều Công
Hãn cho xây thành Tam Giang rồi thành Phù Lập ở Phong Châu và mở rộng căn cứ
chiếm đóng. Năm 967 khi giao chiến với quân Hoa Lư, trên đường tháo chạy
bị một hào trưởng là Nguyễn Tấn chặn đón chém chết ở khu vực đền Gin, Nam
Định ngày nay.
6. Nguyễn Khoan: cùng với 2 sứ quân
khác, Nguyễn Siêu và Nguyễn Thủ Tiệp, là con của một vị tướng Trung Hoa có công
chiêu mộ và huấn luyện dân binh vùng chiếm đóng để xây dựng lực lượng và phát
triển kinh tế. Nguyễn Khoan là sứ quân rất mạnh, được dân bản xứ tôn xưng là
Quảng Trí Quân, nghĩa là vị vua có đức lớn tài cao, rộng hiểu biết và đầy tình
bác ái, biết canh tân mỹ tục cai trị triều đình nhỏ ở Tam Đái. Sau ông bị lực
lượng Hoa Lư tấn công, chống không nổi và bị giết.
7. Ngô Nhật Khánh: vốn là dòng dõi hoàng
thân nhà Ngô. Sau cũng trở thành sứ quân mạnh chiếm đóng ở quê hương Đường Lâm.
Khi Ngô Xương Xí nối ngôi, Ngô Nhật Khánh cũng kéo quân từ Đường Lâm về Cổ
Loa tranh giành, tự xưng An Vương. Giữ Đường Lâm, mở rộng địa bàn sang Cổ Loa
và Đỗ Động Giang, Bố Hải Khẩu… Sau hàng phục nhà Đinh, trở thành phò mã.
Khi vua Đinh mất, Nhật Khánh chạy sang Chiêm Thành đem quân tấn công Hoa
Lư bị bão dìm chết năm 979 ở cửa Thần Phù.
8. Nguyễn Siêu: cùng với 2 sứ quân
khác, Nguyễn Khoan và Nguyễn Thủ Tiệp, là con của một vị tướng Trung Hoa. Khi
giàu mạnh, Nguyễn Siêu nuôi dưỡng môn đệ trên 8.000 người, binh mã có trên 10
vạn, không ngừng thu phục anh hào, thế lực ngày càng lớn. Nguyễn Siêu trở thành
một sứ quân rất mạnh có thành hào vững chắc. Lực lượng của ông bị đánh bại sau
lần tấn công thứ hai của Đinh Bộ Lĩnh.
9. Kiều Thuận: thuộc lực lượng
của Kiều Công Tiễn. Gia tộc họ Kiều của ông vốn là một thế lực lớn ở Phong
Châu. Ông xây dựng căn cứ Tam Thành, xây thành Hưng Hoá, mở rộng sự liên kết
với các hào trưởng, tộc trưởng miền núi. Kiều Thuận trở thành một sứ
quân mạnh, có địa bàn rộng lớn và vững chắc ở xa các sứ quân khác. Sau ông bị
lực lượng Hoa Lư tấn công, chống không nổi và bị giết.
10. Nguyễn Thủ Tiệp: cùng với 2 sứ quân
khác, Nguyễn Siêu và Nguyễn Khoan, là con của một vị tướng Trung Hoa. Ông kế
thừa sự nghiệp của cha với nhiều của cải. Ông trở thành một sứ quân mạnh. Sau
mở rộng thực ấp, lấy cả châu Vũ Ninh. Ông tự xưng là Vũ Ninh Vương. Khi bị
quân Hoa Lư tấn công ông tháo chạy về Cần Hải (Nghệ An) giao tranh
vài trận rồi chết ở đó.
11. Lý Khuê: là một thổ hào địa
phương, sau trở thành một sứ quân nổi dậy trong thời loạn 12 sứ quân. Ông vốn
là một hào trưởng, chiếm đóng tại vùng Siêu Loại giáp ranh Bắc
Ninh và Hưng Yên ngày nay. Năm 968 ông bị tướng Lưu Cơ của Đinh
Bộ Lĩnh ở Hoa Lư dẹp tan, một bước trong quá trình chấm
dứt tình trạng cát cứ lập ra nhà nước Đại Cồ Việt trong lịch sử.
12. Lã Đường: vốn là một thổ hào địa
phương ở vùng Tế Giang. Khi nhà Ngô suy yếu, không còn khả năng kiểm soát địa
phương, Lã Đường tự chiêu mộ và xây dựng lực lượng cát cứ, dựa vào
địa thế hiểm yếu bùn lầy, lau sậy để cố thủ. Sau ông bị lực lượng của Đinh
Bộ Lĩnh tấn công, chống không nổi và bị giết.
Các sứ quân ra mặt đánh chiếm lẫn nhau: Lã Đường tấn
công Đỗ Cảnh Thạc; Kiều Công Hãn tấn công Nguyễn Khoan; Nguyễn
Thủ Tiệp giết Dương Huy chiếm Vũ Ninh và tự xưng là Vũ Ninh
Vương.
Năm 967, sứ quân Trần Lãm mất, sứ quân Ngô Nhật
Khánh từ Đường Lâm, Đỗ Động Giang tập hợp 500 con em Ngô tiên chúa đánh Bố
Hải Khẩu, khi đến đất Ô Man thì bị Ngô phó sứ chặn đánh phải bỏ về. Đinh
Bộ Lĩnh liền cất quân đi đánh, không bộ lạc nào ở đó không hàng phục. Các sứ
quân Phạm Bạch Hổ, Ngô Nhật Khánh, Ngô Xương Xí đem quân về hàng, lực lượng họ
Đinh ngày càng lớn mạnh. Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp các sứ quân Đỗ Cảnh Thạc, Nguyễn
Siêu, Nguyễn Khoan, Kiều Công Hãn, Kiều Thuận.
Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh tiếp tục đánh dẹp và đánh bại các sứ
quân Lý Khuê, Lã Đường và thống nhất Tĩnh hải quân, lên ngôi
Hoàng đế ở kinh đô Hoa Lư, chính thức lập ra triều đại nhà Đinh trong lịch
sử Việt Nam.
Giai thoại về Đinh Bộ
Lĩnh – Cờ lau tập trận
Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép::” Đinh Bộ
Lĩnh mồ côi cha từ bé (cha là Đinh Công Trứ – bộ tướng của Dương
Đình Nghệ), mẹ họ Đàm đưa gia thuộc vào ở cạnh đền sơn thần trong động. Vào
tuổi nhi đồng, ông thường cùng bọn trẻ con chăn trâu ngoài đồng. Bọn trẻ
tự hiểu kiến thức không bằng ông, bèn cùng nhau suy tôn ông làm trưởng.
Phàm khi chơi đùa, thường bắt bọn chúng chéo tay làm kiệu khiêng và cầm hoa lau
đi hai bên để rước như nghi trượng thiên tử. Ngày rỗi, thường kéo nhau đi đánh
trẻ con thôn khác, đến đâu bọn trẻ đều sợ phục, hàng ngày rủ nhau đến phục dịch
kiếm củi, thổi cơm. Bà mẹ thấy vậy mừng lắm, mổ lợn nhà cho bọn chúng ăn. Phụ
lão các sách bảo nhau: “Đứa bé này khí lượng như thế ắt làm nên sự nghiệp, Chúng
ta nếu không theo về, ngày sau hối thì đã muộn.” Bèn dẫn con em đến theo, rồi
lập ông làm trưởng ở sách (huyện) Đào Áo. Người chú của ông giữ sách
Bông chống đánh với ông. Bấy giờ, Đinh Bộ Lĩnh còn ít
tuổi, thế quân chưa mạnh, phải thua chạy. Khi qua cầu ở Đàm Gia Nương
Loan, cầu gãy, ông rơi xuống bùn, người chú toan đâm, bỗng thấy
hai con rồng vàng hộ vệ ông, nên sợ mà lui. Đinh Bộ
Lĩnh thu nhặt quân còn sót, quay lại đánh, người chú phải hàng.
Năm 951, Đinh Bộ Lĩnh ở động Hoa Lư dựa vào vùng núi khe
hiểm yếu, không chịu tuân lệnh triều đình nhà Ngô. Hai vua Ngô là Ngô Xương
Ngập và Ngô Xương Văn muốn cất quân đi đánh; Bộ Lĩnh sợ, sai con là Đinh
Liễn vào triều làm con tin để ngăn chặn việc xuất quân. Hai vua Ngô vương
trách Bộ Lĩnh không tự mình đến chầu, rồi bắt giữ Đinh Liễn đem theo quân đi
đánh Hoa Lư.
Quân Ngô tấn công hơn một tháng, không đánh nổi. Hai vua Ngô bèn
treo Đinh Liễn lên ngọn sào, sai người bảo Bộ Lĩnh, nếu không chịu hàng thì
giết Liễn. Nhưng Bộ Lĩnh không vẫn thần phục, lại sai hơn mười tay nỏ nhắm con
mình mà bắn. Ngô Xương Ngập và Ngô Xương Văn kinh sợ nói rằng:”Ta treo con nó
lên là muốn để nó đoái tiếc con mà ra hàng cho chóng. Nó tàn nhẫn như thế, còn
treo con nó làm gì”. Vì vậy hai anh em vua Ngô không giết Đinh Liễn mà đem quân
về.
Sau này hai cha con Đinh Bộ Lĩnh đem quân bản bộ gia nhập vào lực
lượng của sứ quân Trần Lãm. Khi Trần Lãm mất. Đinh Bộ Lĩnh kế thừa sự nghiệp.
Với tài trí hơn người, ông đánh đâu thắng đó, được tướng sĩ suy tôn là Vạn
Thắng Vương.” Đến năm 968, Đinh Bộ Lĩnh đánh bại các sứ quân khác và lên ngôi
vua, lấy hiệu là Đinh Tiên Hoàng.
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Cuộc chiến tranh
Biên giới 1979l
- Không được quên
tội ác của bá quyền Trung Quốcl
- Trận chiến cầu
Khánh Khê và giờ học lịch sửl
- Vị Xuyên ơi! Nỗi
đau không quên!l
- Bàn thêm về nước
Nam Việt của Triệu Đà và lịch sử nước Việt Naml
- Gạc Ma - Nỗi đau
không được quênl
- Vai trò của Mao
Trạch Đông trong chiến dịch tiến chiếm Hoàng Sa năm 1974l
- Cuộc chiến chống
quân Trung Quốc xâm lược: Hoàng Sa năm
1974l
- Vạch trần dã tâm
thâm đọc của Trung Quốc nhằm độc chiếm biển Đôngl
- Sự thật về quan
hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năml
- Đại nạn Trung
Hoa thời Cổ sửl
- Đại nạn Trung
Hoa thời Trung sửl
- Đại nạn Trung
Hoa thời Cận đạil
Mời nghe Phạm Giang đọc
truyện ngắn
“CÔ” SƯỚNG CƯỚI VỢ của Đặng
Xuân Xuyến:
*.
LÝ THÀNH PHƯƠNG
Quê quán: Núi Sập, Thoại Sơn,
tỉnh An Giang.
Định cư: thành phố San Diego,
California, Hoa Kỳ.
…………………………………………………………………………
- Cập nhật từ email tranchicuong27@gmail.com gửi ngày 28.11.2025.
- Ảnh dùng minh họa cho bài viết được sưu tầm từ nguồn: internet.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.


0 comments:
Đăng nhận xét