(Nguồn ảnh: Internet) |
(Tác giả Đặng Xuân Xuyến) |
Thực
ra sự sắp xếp, phân loại hạng người trong Tử Vi chỉ mang tính chất tương đối,
khái quát nên người coi số phải thật cẩn trọng khi đưa ra lời luận giải.
- NGƯỜI HƯỞNG PHÚC SỐNG LÂU:
Thái
Thứ Lang cho rằng: “Sinh ở phương Nam (nhà ở mở cửa hướng Nam) Mệnh có Đồng,
Lương sáng sủa tốt đẹp toạ thủ, hay sinh ở phương Bắc, Mệnh có Tử, Phủ,Vũ, Phá,
Liêm Tham sáng sủa tốt đẹp toạ thủ, như vậy được hưởng phúc và sống lâu.
Nên
xem xét cung phúc đức thật cẩn thận, nếu thấy phúc đức thật rực rỡ, tốt đẹp,
mới có thể quyết đoán được như trên.”
- NGƯỜI GIÀU CÓ:
Thái
Thứ Lang cho rằng: “Mệnh, Thân xa lánh được Đại, Tiểu Hao và Sát tinh, cung Tài
Bạch rực rỡ tốt đẹp, có Tài tinh, như vậy chắc chắn là giàu có.
Tốt
đẹp nhất là Nguyệt chiếu sáng cung Điền Trạch, Vũ sáng sủa tốt đẹp toạ thủ tại
cung Tài Bạch ở Tứ Mộ.”
- NGƯỜI BẦN TIỆN, NGHÈO HÈN:
Thái
Thứ Lang cho rằng: “Mệnh, Thân không có những sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp. Xấu
xa nhất là Mệnh, Thân an tại Tứ sinh gặp nhiều Sát Tinh xâm phạm. Nên xem xét
ba cung Phúc Đức, Tài Bạch và Điền Trạch. Nếu tất cả đều mờ ám xấu xa, phải
quyết đoán là bần tiện.”
Vậy
như thế nào là người bần tiện? Trộm cắp, đĩ điếm hay gian tà, nghèo khổ? Thái
Thứ Lang không đưa ra khái niệm. Các tác giả khác cũng không đề cập đến. Tất cả
đều ngầm quy kết bần tiện là những người có cuộc sống cơ cực, nghèo hèn, tận
đáy của xã hội. Đây là điều hết sức phi lý, chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng
Khổng Giáo: Coi thường cuộc sống và nhân tính của người dân. Đây cũng chính là
điều còn hạn hẹp về quan niệm nhân sinh của Tử - Vi: Trọng phú khinh bần.
Trong “Nhận
xét số mệnh của một vài hạng người” (Tử Vi đẩu số, trang 301), Thái Thứ
Lang xếp những kẻ gian tà, trộm cắp là một “hạng” người cuối cùng của xã hội.
Ông cho rằng: “Mệnh, Thân có Sát, Phá, Liêm, Tham, mờ ám xấu xa toạ thủ, gặp
Sát tinh hội hợp với Bại Tinh, như vậy là hạng gian tà trộm cướp.”
Sách
Tử - Vi liệt kê một số bộ sao tiêu biểu như sau:
- Liêm
Trinh Dần, Thân: Mệnh an tại Dần, Thân có Liêm Trinh tọa thủ, lại gặp
Tuần, Triệt án ngữ là người sinh bất phùng thời nên nghèo hèn.
-
Tham, Kiếp đồng cung: Mệnh có Tham Lang, Địa Kiếp tọa thủ đồng cung nên
cuộc đời cùng khổ, phiêu bạt và hay mắc tai nạn sông nước.
- Tham
Lang, Thất Sát đồng cung: Trai trộm cướp, gái giang hồ.
-
Thiên Lương, Thái Âm hãm hội chiếu: Nghèo hèn, tha phương lập nghiệp và
dâm đãng.
- Mã
lạc không vong: Mệnh có Thiên Mã gặp Tuần, Triệt án ngữ là người bần tiện.
- Lộc
phùng lưỡng sát: Mệnh có Song Lộc gặp Không, Kiếp đồng cung là người bần
tiện. Trường hợp Hoá Lộc hay Lộc Tồn gặp Kiếp Sát và Tuần (Triệt) đồng cung thì
số nghèo hèn.
- Thái
Âm, Thiên Cơ đồng cung ở Dần, Thân gặp Xương, Khúc (Riêu): Dâm đãng, sa
đọa, hay làm thơ văn dâm tình.
- Thái
Âm hãm gặp sát tinh: Trai trộm cắp, gái giang hồ.
-
Kiếp, Không giáp Mệnh: Mệnh tại Tỵ, Hợi giáp Kiếp, Không là người nghèo
khổ, cô đơn và vất vả.
-
Vũ, Sát, Phá, Liêm ở Mão: Cô đơn, bần hàn.
- Cự
Môn hãm gặp Kình, Đà: Trộm cắp, lăng loàn, đĩ điếm.
- NGƯỜI THÔNG MINH:
Thái
Thứ Lang cho rằng: “Cần thiết nhất là cung Phúc Đức phải có Văn tinh toạ thủ,
Mệnh, Thân lại phải có Xương, Khúc, Khôi, Việt, Tả, Hữu hội hợp.
Mệnh
Thân có Tướng Phá sáng sủa tốt đẹp toạ thủ, lại thêm Văn tinh hội hợp, như vậy
rất thông minh, có nhiều mưu trí và khéo léo chân tay, nếu làm nghề thủ công
cũng phát đạt, có tiếng tăm.
Thông
minh đến tột bậc, nếu Mệnh, Thân có Phủ Tướng, Xương, Khúc, Khôi, Việt, Tả,
Hữu, Long, Phượng, Thai, Toạ hội hợp.”
- NGƯỜI YỂU TỬ:
Người
yểu tử được hiểu theo nghĩa của Tử Vi là người có sức khỏe không tốt, nhiều
bệnh tật, hoặc bị tàn tật và tuổi thọ không cao, thường dưới 50 tuổi.
Thái
Thứ Lang cho rằng: “Ba cung Mệnh, Thân và Phúc Đức đều mờ ám, xấu xa, đại hạn
10 năm cũng không được tốt đẹp, như vậy không thể sống lâu được. Sát thủ Thân
nếu giàu sang tất chết non, trái lại nếu nghèo hèn thì lại sống lâu.”
Sách
Tử - Vi liệt kê một số bộ sao tiêu biểu như sau:
-
Xương, Khúc hãm địa: Mệnh có Xương, Khúc hãm địa hội nhiều sát tinh, nhất
là Hóa Kỵ nên cùng khổ, cô đơn, nếu không tàn tật tất sẽ yểu tử. Riêng nữ số là
người ti tiện, hoặc gái giang hồ nhưng thường chết non.
- Tử -
Vi, Không, Kiếp, Đào, Hồng: Mệnh hội họp Tử - Vi, Không, Kiếp, Đào (Hồng)
là người đa tình và yểu Mệnh. Trường hợp chỉ hội họp Kiếp, Không, Đào
(Hồng) tại Mệnh thì cũng vậy.
- Kỵ
ngộ Đào (Hồng): Mệnh có Kỵ đồng cung với Đào (Hồng) là người đau khổ vì
tình, đàn bà thất tiết, tuổi thọ bị chiết giảm.
-
Liêm, Khúc, Xương đồng cung: Mệnh an tại Mão, Dậu, Tỵ, Hợi, Sửu, Mùi có
Liêm tọa thủ gặp Xương (Khúc) đồng cung là người cùng khổ, hay mắc tai họa, tù
tội và thường yểu tử.
- Kình
Dương ở Tứ Chính: Mệnh ở Tý, Ngọ, Mão, Dậu có Kình Dương hội sát tinh là
người vất vả và thường chết non, nhất là khi Mệnh ở Ngọ. Còn Mệnh ở Mão. Dậu
thì tuổi thọ trung bình.
- Tả,
Hữu gặp sát tinh: Mệnh có Tả, Hữu tọa thủ, gặp nhiều sao mờ ám xấu xa,
nhất là Cự Môn, Phá Quân hãm địa, hoặc sát tinh hội họp là người cùng khổ và
thường yểu tử.
- Kỵ
ngộ Tuế, Đà: Cung Mệnh có Kỵ ngộ Thái Tuế, Đà La là người lắm điều, hay bị
tranh chấp, kiện cáo và yểu tử.
- Kỵ
ngộ Tham, Xương: Mệnh tại Tỵ có Tham Lang, Văn Xương, Hóa Kỵ đồng cung thì
chết non.
-
Thiên Cơ ngộ Kình, Đà: Mệnh có Thiên Cơ hãm địa, ngộ Kình (Đà) đồng cung
thì yểu tử.
-
Kình, Đà hãm địa hội hung sát tinh: Mệnh có Đà La hoặc Kình Dương hãm địa
hội nhiều hung sát tinh, nhất là Địa Kiếp thì là người cùng khổ, hay bị tai
nạn, tàn tật và thường yểu tử.
- Sát,
Phá, Liêm, Tham ngộ Hỏa, Linh: Mệnh có các sao này hội họp mà đều hãm địa
cả thì chết non.
- Âm
Dương phản bối: Thái dương từ cung Dậu đến cung Sửu, Thái âm từ cung Dần
đến cung Thân thì nghèo hèn và yểu, duy có tuổi Thìn và tuổi Tý tuy có chết non
nhưng được nhiều người tiếc.
- Sát
tinh thủ hoặc chiếu Mệnh: Các sao Kình Dương, Đà La, Thiên Không, Địa
Không, Địa Kiếp thủ Mệnh hoặc chiếu Mệnh lại bị hãm thì chết non, duy người
tuổi Ngọ, Mão và Dần tuy chết non nhưng là người danh giá.
-
Thiên Không thủ Mệnh tại Tý, Ngọ, Tỵ, Hợi: Mệnh có Thiên Không mà Mệnh lại
an tại cung Tỵ, Hợi, Tý, Ngọ lại đẻ vào các giờ ấy thì chết non, nếu gặp các
sao tốt cứu giả thì tuổi thọ cũng chỉ bình thường.
- Tật
cung hội họp Không, Đào: Không Đào đồng cung tại
Tật thì chết bất ngờ.
- NGƯỜI BUÔN BÁN:
Thái
Thứ Lang cho rằng: “Trước hết phải xem xét cung Mệnh, Thân, Thiên Di, Tài và
Quan để biết qua sinh kế, nghề nghiệp đồng thời để biết có thể buôn bán được
hay không?
(...)
Mệnh, Thân có Tử, Phủ sáng sủa tốt đẹp toạ thủ gặp Kình đồng cung: buôn bán
phát đạt, có tài kinh doanh.
Mệnh
có Tham, Sát, Đồng, Nguyệt Cơ, Lương sáng sủa, tốt đẹp toạ thủ: hay tính toán,
thích ganh đua, mưu cầu lợi lộc. Nếu cung Thiên Di, Tài Bạch lại có nhiều Tài
Tinh, chắn chắn là buôn bán giỏi, tiền của như nước.
Mệnh
có Sát, Phá, Liêm, Tham sáng sủa tốt đẹp toạ thủ gặp Tả, Hữu hội hợp cùng với
nhiều Sát Tinh sáng sủa tốt đẹp: kinh doanh buôn bán ở xa nhà, trước thành bại
bất thường, sau giàu có lớn.
Những
cung Mệnh, Thân, Thiên Di hay Tài Bạch an tại Tử sinh, có Không, Kiếp toạ thủ:
buôn lậu rất giỏi, nhưng chẳng giữ được tiền của bền lâu.
Cung
Thiên Di an tại Tứ Mộ, có Vũ toạ thủ: buôn bán giỏi và tài lộc ngày càng thăng
tiến.”
Chúng
tôi giới thiệu lá số của Nhà văn, nhà kinh doanh đại tài Nguyễn Văn Vĩnh (Cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX) qua bài luận của cụ Thiên Lương trong cuốn TỬ VI
NGHIỆM LÝ: LÝ MỆNH HỌC, xuất bản năm 1974, để bạn đọc làm mẫu tham khảo.
“Ông
Nguyễn Văn Vĩnh tuổi Nhâm Ngọ (1882), sanh ngày 30 tháng 04, giờ Dậu, nghĩa là
ông hơn ông Phạm Quỳnh 10 tuổi.
Tuổi
Nhâm Ngọ, Mệnh Vô chính Diệu ở cung Thân, Thân đắc Đồng - Lương ở Dần. Ở đây có
thể nói hai vị trí đi song đôi với nhau, mặc dầu Tang Môn vẫn là thế nghịch của
Bạch Hổ và Thân cung vẫn ở thế đàn áp Dần cung.
Người
này sinh ra ở đời ở hoàn cảnh cứ canh cánh lo âu tính toán (Mệnh) mà khi đã
tính toán rồi là (phải) thực hành lao đầu làm việc (Thân).
Mệnh
Vô chính Diệu thấy Tang Môn nằm chình ình (Mộc) nghiễm nhiên đóng vai trò chủ
động cho đương số (Mộc Mệnh). Người ta thường nói gộp Tang Môn, Bạch Hổ đắc địa
ở Mão Dậu, Dần Thân, cũng nên phân tích cho rõ hơn: Bạch Hổ (Kim) đắc địa ở
Thân Dậu (Kim) còn Tang Môn (Mộc) đắc địa ở Dần Mão (Mộc) thì Tang Môn ở đây là
trong nghịch cảnh hội với Đại Hao, Địa Kiếp (Hỏa) một bầy hung hãn dầu là hai
sao này đều đắc địa phải kể là đắc Tuần ngự chế (bớt sinh xuất) nếu Triệt thì
hết thảy từ Mã, Trường Sinh, Hao, Kiếp, Tang Môn gì đều tan nát hết. Với Mệnh
Vô chính Diệu đắc Tuần này (tạm kể vì chỉ có Hỏa Mệnh hay Kim Mệnh mới toại
nguyện) bảo toàn được chủ đích là sự lo toan để cho Thân kinh doanh sự nghiệp
dầu có bôn ba đây đó cũng xông pha không quản ngại.
Cũng
nên kể Thiên Mã này chính lẽ không phải của ông, bằng ông cố sử dụng thì chỉ
mất công sự nghiệp trồi trụt không có gì là bền vững mà ông còn lao tâm khổ xác
vì ông Mộc Mệnh. Nhưng Tuần này còn lưu Mã có lúc đắc dụng.
Ngắm
đến Thân ở Dần Đồng - Lương đắc cách, phải nhìn nhận ông được thành danh là vì
Đồng - Lương được Cơ - Âm cũng đắc cách hợp chiếu. Bộ Cơ - Nguyệt - Đồng -
Lương được tối hảo chỉ có ở Dần đủ cả nghĩa một sức thông minh hơn người và một
văn nghiệp xuất chúng. Nhưng nào ông có theo hẳn văn nghiệp (Đồng - Lương
Triệt) định mệnh đặt ông phải lo âu tính toán, trí óc ông là làm việc kinh
doanh cho nên lời văn của ông nó cũng giản dị bình thường, hoạt bát, nó không
chứa đựng nhiều từ ngữ nặng nề như một số đồng nghiệp cùng thời. Ngay đến tư
tưởng ông cũng thực tế hơn ông Phạm Quỳnh chủ trương lập luận muốn giữ phần nào
chủ quyền hình thức bằng thuyết lập hiến. Trái lại ông Nguyễn Văn Vĩnh nói
huỵch toẹt là đã bị trị thì nên áp dụng chương trình trực trị cho rồi, đừng nên
nửa trắng nửa đen thành không đi đến đâu. Có lẽ vì thế người đời mới gán cho cả
hai ông là thân Pháp bán nước.
Cái
nỗi khổ tâm của ông Quỳnh là tin vào lòng nhân hậu và khả năng của mình (Thiên
Lương, Tả - Hữu). Nước dầu đã mất nhưng tiếng nói của dân Việt Nam còn là
còn... Đối với một số văn nhân trong nghịch cảnh (Tuổi Nhâm ở Hợi) kể cũng đáng
thương. Ông Vĩnh cũng vậy: Nước Việt Nam sau này hay dở là ở chữ
quốc ngữ. Hai ông cũng chủ trương nên bảo toàn tiếng nói mẹ đẻ làm sao cho nó
đừng mất và phổ biến rộng rãi là được, cũng như cụ Phan Chu Trinh thường nói:
Điều làm trước là khai thông dân trí đã.
Cái
chủ trương kinh doanh của ông Vĩnh không phải là không có hậu ý (Thân trong Tam
hợp tuổi không phải là không chính nghĩa). Chỉ vì Thân (Đồng - Lương) bị Triệt
mà sự nghiệp ông không toại khi trồi khi trụt (Mã mượn). Với ông ta thấy con
đường văn nghiệp chỉ là phương tiện, cái chí hướng kinh doanh mới là mục đích
xa xăm của ông. Không phải là ông không biết thân phận của kẻ mất nước (thế Tang
Môn) cho nên ông cố hành động theo con đường chính nghĩa (Bạch Hổ) riêng tư của
ông tưởng không phải là không có tâm hồn với đất nước.
Đời
ông đi vào cung Tuất là giai đoạn bắt đầu làm báo (1908) đạt được chí hướng của
mình với nhiều hy vọng sau này (Thái Âm miếu địa đắc Long Trì) bị Đà La không
hẳn là La Võng nhưng cũng là một trong Tam ám của Thái Âm chỉ phần nào ngăn trở
chậm bước đường tiến thân thỏa mãn của ông. Bước sang cung Điền chỉ là giai
đoạn khai sơn phá thạch, giật gấu vá vai đem cái chí kinh doanh ra thực hành
rầm rộ, theo một số người được hưởng thụ gì thì tuổi 45 đã đến rồi cứ một ngày
một lội dòng nước ngược luôn cho đến năm 54 tuổi (1936) ông trút hơi thở cuối
cùng ở Hạ Lào. Đây cũng là một trường hợp tuổi Nhâm vận hành gặp Lộc Tồn, Lưu
Hà, Kiếp Sát, Thiên Không ông mới chỉ gây dựng sự nghiệp còn thiếu trước hụt
sau. Nếu được đầy đủ cho mình hưởng thụ ngôi cao phú quý có lẽ cao xanh đã đoản
mệnh sớm hơn. Cho hay đó chỉ là con đường rẽ mà thôi. Vì thân ông bị Triệt thì
làm sao mở máy chạy tốc độ không khỏi trục trặc lúc ban đầu hay bước tiến đầu
phải mất nhiều thời giờ hơn người khác. Một phần Mệnh ông (Mộc) đáo Thủy cung
không đến nỗi đoản mau phải chờ đến cung Quan (cũng Thủy) Kình, Hình một cặp
song kiếm phi đao kẹp cổ mạng Mộc, cũng phải chờ đến năm giao vận là năm tính
sổ 10 năm thiếu đủ phải thanh toán cho sòng phẳng.
Người
Mộc Mệnh Vô chính Diệu thật khó kiếm được hung tinh đắc địa thủ vai cho xứng
làm nên trò hơn Tang Môn đắc Tuần. Còn Thiên Mã ở đây chỉ là Mã mượn của người
Kim Mệnh cũng nhờ Tuần cho ông mượn được phần nào nghị lực, Đại Hao, Địa Kiếp
ngộ Tuần cũng phần nào tiết chế sự tiết khí của Mệnh. Nhưng cung Quan Cự Môn,
Kình, Hình không gì ngăn cản, Thái Dương vượng địa cùng Phượng, Riêu đắc cách ở
Tài tức là cát hung chung chiếu dàn cảnh kiến nhất không, cuộc đời bôn ba như
mộng ảo, phú quý là phù vân. Chỉ tiếc cho Thân ông được Thiên Lương vượng địa
bị Triệt, cái thế chính nghĩa (Thái Tuế) đứng với Thiên Cơ đắc địa hẳn ông đã
tính toán với một hoài vọng lớn lao cho dân cho nước đến khi nhắm mắt qua đời
ông ôm theo không ai hiểu rõ (Thái Âm miếu bị Đà ám)
Phải
chăng cái dự tính của ông Nguyễn Văn Vĩnh hãy còn trong bí mật mà tôi tin là
không phải như người ta nghĩ về ông.”
- NGƯỜI CÓ BIỆT TÀI VỀ VĂN NGHỆ:
Thái
Thứ Lang cho rằng: “Cần thiết nhất là ba cung Mệnh, Thân và Quan lộc phải có
nhiều văn tinh hội hợp.
Tả,
Hữu, Xương, Khúc: viết văn, làm thơ.
Tả,
Hữu, Long, Phượng, Đào, Hồng, Thai, Toạ: vẽ giỏi.
Mệnh,
Thân an tại Hợi, có Nhật toạ thủ: gặp nhiều văn tinh hội hợp nên văn chương
đanh thép, lỗi lạc thuyết lý hùng hồn.”
Còn
tác giả Lê Quang Tiềm trong cuốn “Tự điển Tử Vi đẩu số” và “thần số học”, cho
rằng:
“Âm
Dương Khôi Việt - Xương Khúc Tấu Thư - Khôi Việt Khoa Tinh - Kình Dương ngộ Văn
Xương hội Tử Vi - Thiên Lương cư Hợi ngộ Thiên Khôi - Long Phượng Riêu Y Khôi
Việt - Tử Vi ngộ Tấu Thư (Thần đồng phụ nhi).
Âm
Dương hội Văn Xương - Hỏa Linh phùng Tuyệt, hội Khoa tinh tại Hợi (văn chương
xuất chúng) - Hồng Hỷ Tấu Vũ Đào (cách ca sỹ, kịch sỹ, đào hát, minh tinh màn
bạc)”.
Như thế,
do chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho Giáo nên Tử Vi cũng coi ca múa là loại xướng
ca vô loài nên khái niệm biệt tài văn nghệ chỉ hạn hẹp trong nghề viết văn, hội
họa mà không đề cập đến những nghề khác trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật như
ca sỹ, nhạc sỹ, diễn viên… Tuy nhiên, khoa Tử Vi cũng phản ánh khả năng “nghệ
thuật” của mỗi người qua ý nghĩa của các sao. Từ đó, các thầy xem số, các nhà
nghiên cứu Tử Vi có thể thông qua sự hội tụ của các sao mà phán đoán đương số
có khả năng nổi tiếng, thành đạt ở nghề gì.
Vì
nghệ thuật đòi hỏi phải khéo léo, nhạy cảm, giỏi bắt chước, có duyên thu hút
mọi người để đem lại niềm vui cho mọi người nên bất kỳ nghề nào cũng cần phải
có sự hội tụ của Tấu Thư, Hồng Loan với Thiên Cơ hoặc Vũ Khúc. Sự hội tụ đông
đủ các sao được liệt kê theo từng nghề dưới đây sẽ phần nào chỉ ra nghề nghiệp
của đương số. Các sao càng sáng sủa thì tài nghệ càng cao, khả năng nổi tiếng
càng nhiều. Dù vậy, cũng nên hiểu không hẳn sự hội tụ các sao đó ở Mệnh (Thân)
và Quan Lộc thì đương số sẽ theo nghề đó mà có thể đương số có sở thích hoặc sự
hiểu biết về nghề đó, nếu theo nghề đó sẽ dễ nổi danh vì biệt tài của mình.
Nhà
văn, nhà báo, nhà thơ: Thiên Cơ, Thái Âm, Thái Dương, hoặc Vũ Khúc hội họp
cùng Tả Phù, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, Hóa Khoa, Thiên Khốc, Thiên Hư...
(Trường hợp khi Thái Âm, Thiên Cơ đồng cung ở Dần, Thân gặp Văn Xương, Văn
Khúc hoặc Thiên Riêu là người dâm đãng, hay làm thơ văn dâm tình.)
Chúng
tôi giới thiệu 2 lá số và lời luận của cụ Thiên Lương để bạn đọc dùng làm mẫu
tham khảo.
Lá số thứ nhất: Thi hào
"Có
phải người ta biết đến thi si tửu đồ Tản Đà bằng bút hiệu nhiều hơn là tên
Nguyễn Khắc Hiếu, vì thế mới có con đuờng Tản Đà ở Chợ Lớn ngay chỗ thuờng ngày
các vua nhậuchén chú, chén anh, có lẽ để thỏa mãn hương hồn nhà thơ, vì
rượu là người bạn hình bóng là nguồn cảm hứng, là phương tiện thần diệu mà tiên
sinh thích thú để ngâm với đời:
Say sưa nghĩ cũng hư đời
Hư thời hư vậy, say thời cứ say
Đất say đất cũng lăn quay
Trời say mặt cũng đỏ gay ai cuời.
Thi sĩ
Tản Đà sinh năm 1888 (Mậu Tí ngày 29 thang 4 giờ Tuất) vốn có truyền thống nho
phong, tổ tiên sáu đời chuyên nhau chiếm bảng vàng Tiến sĩ, đến đời tiên sinh
như thấy cả một sự xuống dốc rõ ràng (cung Phúc).
Tuổi
Mậu Tí mệnh ở Mùi vô chính diệu nhìn vào không thấy một hung tinh đắc địa nào
đồng hành với Mệnh. Một bầy trung tinh đắc cách mà đa số lại là Thổ và Thủy.
Nhật Nguyệt tịnh minh chiếu Mệnh cũng không . Truờng hợp này nếu không có Tuần
kể là một mệnh yểu cầm chắc . Vậy có phải là kiến nhất không , hèn chi tiên
sinh cho đời là một giấc mộng lớn, tháng ngày thoảng qua là giấc mộng con. Tôi
xin bái phục tiên sinh ở chỗ này:
Người đời thử ngẫm mà hay
Trăm năm là ngắn một ngày dài ghê
Còn
ai ai tỉnh ai mê
Những ai thiên cổ đi về những đâu
Cái
tài của tiên sinh phải nói là Thiên Phủ đặc biệt (Tả Hữu, Song-Long mộc dục) về
thi văn (Khoa Hồng Việt) nó khác hẳn thi tài của Lý Bạch đời Đường (Tả Phù Văn
khúc Mộc Dục) bắt nguồn mượn ở cảnh bao la hùng vĩ cẩm tú của giang sơn Hán tộc
như nhạc điệu rền vang với dư âm dài, vắn (Mã Khốc Khách). Cái Thiên tài của
Tản Đà tiên sinh nó biến đổi thiên hình vạn trạng từ những giọng sầu bi ai oán
đến những tiếng trào lộng khôi hài đều có cái thanh cao khí tiết chứa đựng một tâm
hồn lãng mạn êm đềm như tiếng sáo diều nhẹ nhàng uyển chuyển (Khoa Hồng Việt) .
Có một điều cả hai thi nhân giống nhau là cùng nhờ men rượu (Mộc dục) để gẩy
khúc tơ lòng .
Cái
Mệnh của Tản Đà là cái mệnh của người bảo tồn nề nếp đạo đức phong nho (Đẩu Quân,
Long Đức) cung vì thế cái thân hành động dễ bị hắc lờ lợi dụng (Thiếu Âm) vì
đời quay cuồng trong nhân-dục tư-lợi mà tiên sinh cứ khăng khăng ôm sống ở thế
giới tinh thần (Quan Phúc). Vì cái Mệnh vô chính diệu được Tuần đóng khiến
Thiên Phủ ở cung Quan đem lại cho tiên sinh một đời túng thiếu triền miên (Tứ
chính giao phù kỵ nhất không chi trực phá).
Nhìn
vào lá số thấy tiên sinh không đuợc một chút gì gọi là gỡ gạc của số, từ vòng
Thái Tuế, vị trí mệnh Long Đức (tu vì thiệt thòi), Thân thiếu âm (hành động lầm
lỡ) vòng Lộc Tồn tuổi Mậu, vòng Tràng Sinh mệnh đặt ở thế suy tuổi hỏa đóng
cung thổ, cả một cái thế bất lợi của một kiếp nhân sinh:
Kiếp sau xin chớ làm người
Làm đôi chim nhạn tung trời mà bay
Tuyệt mù biển nuớc non mây
Kiếp
người này thấy rất nghèo, có nghĩa là rất cần tiền mà hóa ra không cần tiền
(Phủ phùng không, Quan Phúc, Quang Quý), không vì tiền mà xóa bỏ nhân cách, có
lẽ vì thế tiên sinh cứ điềm nhiên bình tĩnh sống (Thai Tọa) không hấp tấp vội
vàng, và tùy theo hứng thú mới hành động. Năm 1927, Tản Đà vì ân tình tri ngộ
với ông Diệp Văn Kỳ, rời bỏ xứ Bắc vào Nam, đảm nhiệm tờ phụ truong cho tờ Đông
Pháp thời báo, nhiều lần báo lên khuôn mà bài thì không có, tiên sinh cứ đủng
đỉnh ngồi nhậu trả lời cho người đến lấy bài: “Làm thơ, viết văn đâu phải
là bửa củi mà cố bửa cho xong”. Đã biết bao lần tiên sinh thất bại trên đường
sự nghiệp làm An nam tạp chí. Nghĩ lại những: Giấc mộng lớn, Khối tình con,
Trần ai tri kỷ, gì, gì… là những giai phẩm để lại cho người được hưởng cái thi
diệu tuyệt vời, trái lại mình chỉ là một con Tuần-không rất lớn.
Bỏ đi
giai đoạn đầu (6-15) tuổi thơ ấu, từ 16 đến 46 có 4 giai đoạn, tiên sinh chỉ
đắc ý có vận đầu cũng lại vô chính diệu. Người vô chính diệu đến hạn vô chính
diệu hẳn là dầu có đắc chí thì cũng chỉ ở phần tinh thần, Cũng như Nguyễn Công
Trứ làm rạng danh một nho sinh với bài điều trần “Thái Bình Thập Sách” thì Tản
Đà cũng đắc chí bằng bài luận “Âu Á nhị châu hiện thế“ được các học quan sĩ phu
đương thời tán thưởng và được tờ báo Trung Hoa đăng vào mục xã
thuyết. Còn 3 vận sau: Song- Lộc, Liêm-Phá, Không Kiếp hãm địa, rồi đến vô
chính diệu ở Dần Ngọ Tuất trái với tuổi Thân Tí Thìn, chót hết là Thiên Phủ,
Tuyệt bị Tuần không thu hút là một chuỗi ngày ảm đạm, tiên sinh nhờ chị Hằng
cho theo lên cung Trăng ngày 7-6-1939 hưởng thọ 51 tuổi.
Thi sĩ
Nguyễn Khắc Hiếu đã ví cuộc đời chỉ là giấc mộng có phải thi sĩ đã quá yếm thế
không ? Người ở thế sinh xuất thì hiển nhiên ở thế thiệt thòi , trường hợp Tản
Đà lại quá éo le mệnh vô chính diệu ở trong cảnh có Tuần cũng hại mà không Tuần
càng hại hơn .
Định
mệnh đặt tiên sinh vào cảnh có Tuần để bù trừ với cái tài mà tiên sinh đã có
Thanh Long, Long Đức, Tả Hữu, cái tài mà không thể lấy gì mà đo lường được bằng
điệu nghệ thi văn (Khoa Hồng Việt), Hỏa mệnh gặp Tuần là đắc cách (nổi danh)
lại phá cách Thiên Phủ (nghèo) bởi lẽ đó tôi phục tiên sinh chắc đã tự tính Hà
Lạc biết số mình đến ngày tàn, thôi đành hành nghề xem số cho người (Thiên
Tướng Hãm) như Khương Thái Công lúc vận bĩ làm nghề bói toán để dung thân.
Lòng
Tản Đà trước sau vẫn nuôi một hoài bão khác mà người đời cho là ông đi lạc
hướng (Thiếu Âm) là ông muốn cùng nàng thơ tạm biệt, là một văn nhân tiền phong
phất cờ dóng trống, ông cố mày mò cho ra An Nam tạp chí năm lần bảy lượt để bày
tỏ nỗi lòng của một kẻ không phải chỉ biết nẩy khúc hận lòng bằng lời thánh
thót, cũng biết mang tiếng nói rắn rỏi trung thực của người dân yêu nước trước
cảnh nhà xiêu, nước đổ. Thiết tưởng ông có khéo diễn đạt thế nào cũng không
bằng:
Nước non nặng một lời thề
Nước đi đi mãi chẳng về cùng non
Nhớ lời nguyện ước thề non
Nước đi chưa lại non còn đứng không.
Tiên
sinh tin ở sự tuần hoàn sinh hóa trong vũ trụ, nước chảy ra biển rồi cũng có
lúc mưa về nguồn như tình non nhớ nước luôn luôn hồn hậu và bất tuyệt. Thi sĩ
Tản Đà có phải là hậu thân của Lý Thái Bạch là Lý Bạch tiến chứ không phải thối
lui trong nghệ thuật. ”
Lá số thứ hai:
“Tôi
mày mò cố tìm số của bà và được biết bà ra đời năm Đinh Dậu (1897) ngày 22
tháng 11 giờ Mão, Âm Nữ, Hoả Mệnh, Thổ Cục. Mệnh an ở Dậu, Thân tọa ở Mão.
Người
Âm Nữ tuổi Dậu, mệnh ở ngay Dậu, một cặp Thái Tuế, Thiên Khốc ở ngay Mệnh là
thấy ngay tư thế một nữ nhân đa sầu đa cảm, nói năng bặt thiệp của hạng phụ nữ
cao đẳng trong xã hội với tư cách bất khuất, đầy tự hào, không bao giờ chịu sự
hư hèn làm giảm giá trị, cùng Thiên Việt là Tinh đẩu về văn chương mỹ thuật,
Tiểu Hao Mão Dậu là một sự thông minh lanh lợi lưu loát, phải chăng đây là phẩm
giá chính của bà mà khuôn thiên đã ấn định (Mệnh).
Mệnh
Vô chính Diệu của tuổi Hoả được Thái Tuế, Thiên Việt (Hoả) làm nòng cốt là bộ
sao quí cách của khách văn chương đúng mức, một tài hoa thiên phú, cùng Thai
Phụ, Long - Phượng, Hoa Cái, Bạch Hổ có tính cách cao sang của hạng khuê các
lan đài. Thiên Tướng ngộ Tuần, Thiên Phủ phùng Suy một ý nghĩa trong trường hợp
Vô chính Diệu kiến không là cảnh dầu là trướng gấm rũ là vẫn là thanh bạch giữ
sao cho phải nếp nho phong hiền thục cho đủ.
Nhìn
đến cung Thân là cái thân thế chính xác của bà thì hỡi ơi Tử Tham dở dang mọi
lẽ. Nếu là Tham Lang sinh nhập bị Triệt không cho phép, bằng như Tử Vi sinh
xuất cũng ở thế bó gối yếm thế, đi đôi cùng vị trí Mão (Tuế Phá) là vị trí của
người hận đời mà vẫn chịu ép một bề không thể vượt quá khuôn khổ của mặc khách
tao nhân (Xương Khúc, Khôi) vẫn là Triệt ngăn cản. Cứ như vị trí Phá Hư là vị
trí của người ôm hận dám làm đảo điên cả xã hội, trường hợp Quận công Hoàng Cao
Khải (Mệnh Thân đồng cung Phá - Hư ) đến cao xanh cũng thuận ý trước cái hận
nào đó của ông, như Quân sư Gia Cát Khổng Minh ôm mộng phá định mệnh, cố ý cướp
quyền tạo hoá (Thân ở Phá - Hư) cũng đành thúc thủ mang hận theo cùng số kiếp,
tưởng cái vị trí Thân của Tương Phố phu nhân thật là nan giải khạc không ra mà
nuốt cũng không đành. Nếu không là một văn nhân nữ sĩ, với cảnh trí Tham - Linh
Sát - Hình thế nào cũng có phen gươm đao nửa gánh giang sơn một chèo, ngang dọc
đông tây, trần ai đâu biết trên đầu có ai.
“Trời
thu ảm đạm một màu
Gió
thu hiu hắt thêm sầu lòng em
Trăng
thu bóng ngả bên thềm
Tình
thu ai để duyên em bẽ bàng.
Anh
ơi, thu về gợi mối thương tâm. Mỗi độ thu sang em lại võ lòng than khóc. Nghĩ
năm có một lần thu, nhưng thu năm nay đi, năm sau còn trở lại. Hỏi ba sinh
hương lửa thời ái ân kia dễ mấy kiếp hẹn hò nhau. Chẳng hay cơ trời dâu bể vì đâu
xui nên chăn gối vừa êm lửa hương mới bén, sắt cầm dìu đặt ngón đàn, bỗng ai xô
lộn bình tan gương vỡ cho người dở duyên…”
Thật
là ai oán, thật là lâm li. Tôi xin thú thật, đến nay mỗi lần đọc lại “Giọt lệ
thu” vẫn thấy lòng nao nao, nước mắt lại muốn chạy quanh vẫn như ngày nào năm
xưa, thương cảm đến một tao nhân khuê các chẳng may gặp cuộc trần duyên éo le.
Có người đã nói bà khóc đây tuy là khóc chồng, mà thật ra bà khóc giang sơn gấm
vóc trong cảnh suy vi bị trị. Có lẽ, không phải là không đúng, một người như
Tương Phổ phu nhân đã biết trọng cái sinh hoạt tinh thần hơn là thường tục
chẳng lẽ lại không biết yêu nước mến nòi xứng đáng là một phụ nữ của xã hội văn
minh thường thiết tha đến văn chương thế cuộc.
Nay
gặp lá số này, không khỏi hận thay ai với cái vị trí Tuế Phá của thân người bạc
phận. Đã sinh ra kiếp người (Mệnh) chính đính khí phách (Thái Tuế) đa tài
nghiệp bút (Thiên Việt) gặp cảnh trái ngang, làm gì mà không đem cái sở trường
của mình ra phơi bày oán trách, đầy đủ nghệ thuật làm cho lòng người khác cũng
phải vì mình xúc cảm (Xương Khúc Khôi, Tang Mã) Thiên Mã ở Hợi (nghệ thuật) là
con Mã của bà bị sa lầy. Phải là người Thủy Mệnh mới đắc dụng. Ở đây chỉ khơi
cho bà những dòng yếm thế, một giây một buộc khó giằng cho ra.
Nhìn
thấy vận hành 15 - 24 ở Tuất là giai đoạn khắc nhập chủ chốt là Thiên Đồng hãm,
mọi sự diễn biến trước tốt với Khoa, Quyền, Lộc, Hồng, Đào, Quốc Ấn, cuối vận
phải có những việc không hay lo buồn là tính cách bất trắc của Thiên Đồng hãm
song song cùng Thiên Không ở Thìn Tuất Sửu Mùi, đủ nghĩa bà lấy chồng năm 18
tuổi, goá chồng năm 23 tuổi.
Thật
là một giấc mơ từ lúc bước chân lên xe hoa đến ngày vành khăn sô chít ngang đầu
với Liêm Sát Linh Hình của cung Phối.
Người
Mệnh Vô chính Diệu Hoả Mệnh được Thái Tuế Thiên Việt là quí cách của khách văn
chương có tinh thần khí phách không hèn, chỉ hiềm Thân Tử Tham bị Triệt lại là
vị trí Tuế Phá ôm hận khôn nguôi với những lời than trách bất hủ đầy nghệ thuật
(Xương - Khúc Khôi, Tang Mã, Khách).
“Thu
về đẹp lứa duyên ngâu
Năm
năm ô - thước bắc cầu Ngân - Giang
Đôi ta
ân ái lỡ làng
Giữa
đường sinh tử đoạn trường chia hai
Anh
vui non nước tuyền đài
Cõi
trần hương lửa riêng ai lạnh lùng
Nhân
gian khuất nẻo non bồng
Trăm
năm não kiếp tấm lòng bơ vơ.”
- Họa sỹ: Thiên Cơ hội Tấu Thư, Hồng Loan, Long
Trì, Phượng Các, Đào Hoa
(Trong
cuốn “Muốn luận đoán đúng số Tử Vi”, tác giả Huyền Vi cho rằng: Sát, Phá,
Liêm, Tham hội Hồng, Đào, Long, Phượng, Tấu sẽ làm nghề họa sỹ (trang
206). Quan điểm này không chấp nhận được bởi Sát, Phá, Liêm, Tham là các võ
tinh, không thích hợp với nghề họa sỹ rất cần sự khéo léo, nhạy cảm..)
- Nhạc sỹ: Thiên Cơ hội Tấu Thư, Phượng Các, Hóa
Lộc
- Ca sỹ: Thiên Cơ hoặc Vũ Khúc hội cùng Tấu Thư,
Phá Toái, Phượng Các, Đào Hoa, Hồng Loan, Thiên Hỷ, Hỷ Thần, Hoa Cái, Thiên
Riêu
- Kịch sỹ (diễn viên): Thiên Cơ, Thái Âm (hoặc Vũ Khúc) hội
với Đào Hoa, Thiên Hỷ, Hỷ Thần, Văn Xương, Văn Khúc… Nếu là diễn viên múa thì
ngoài những sao trên cần thêm các sao Thiên Mã, Hoa Cái, Thiên Riêu
- Nữ công (hoặc thiết kế thời trang): Thiên Cơ hoặc Vũ Khúc hội cùng Tấu Thư,
Hồng Loan, Kiếp Sát, Thiên Hình.
- Đầu bếp: Thiên Cơ, Thái Âm (hoặc Vũ Khúc) hội
họp cùng Hóa Lộc, Tấu Thư, Hồng Loan, Long Trì, Hóa Kỵ, Thiên Trù.
- NGƯỜI CHUYÊN VỀ NGHỀ KỸ NGHỆ:
Thái
Thứ Lang cho rằng: “Mệnh, Thân có Tham Vũ sáng sủa, tốt đẹp toạ thủ, gặp Kình
Sát hội hợp: rất tinh ý và khéo tay nên chuyên về kỹ nghệ.
Mệnh,
Thân an tại Tỵ, Hợi có Vũ, Phá toạ thủ đồng cung: làm nghề thủ công rất khéo
léo.
Mênh,
Thân an tại Mão, Dậu, có Liêm, Phá toạ thủ đồng cung: chuyên nghề thủ công,
thật tinh vi, khác hẳn những nghề tầm thường.
Mệnh,
Thân có Tướng, Cơ toạ thủ, cung Tài Bạch an tại Tứ Mộ, có tài Tinh toạ thủ hay
cung Thiên Di có Phủ toạ thủ: học được những nghề chân tay rất lạ lùng, không
những thế lại còn có nhiều sáng kiến và sẽ nổi tiếng với những tác phẩm mình
tạo nên.
Mệnh,
Thân an tại Tỵ, Hợi có Liêm, Tham toạ thủ đồng cung, gặp nhiều Sát tinh mờ ám,
xấu xa, xâm phạm: làm thợ rèn, nếu không cũng làm đồ tể. Nhưng đôi khi cũng
thích làm ruộng, trồng tỉa hay săn bắn.
Trong
những trường hợp trên đây, nếu tất cả mọi sao đều sáng sủa, tốt đẹp, phải quyết
đoán là phát đạt trong nghề. Trái lại, tất cả mọi sao đều mờ ám, xấu xa, phải
quyết đoán là có làm ăn vất vả mới có miếng cơm, manh áo.”
- NGƯỜI LÀM QUAN CHỨC:
Thái
Thứ Lang cho rằng: “Ba cung Mệnh, Thân và Quan lộc cần phải có Tả, Hữu, Xương,
Khúc, Khôi, Việt hội hợp cùng với Khoa, Quyền, Lộc như vậy có văn chức lớn lao,
được nhiều người biết tiếng. (...) Ba cung Mệnh, Thân, Quan lộc có Vũ, Tướng,
Sát, Phá, Liêm, Tham sáng sủa tốt đẹp hội hợp cùng với Tả, Hữu, Thai, Toạ,
Khoa, Quyền, Lộc, Binh, Hình, Tướng, ấn như vậy chắc chắn là có vũ chức lớn, có
uy quyền hiển hách.
(...)
Mệnh, Thân có Vũ, Tướng, Sát, Phá, Liêm, Tham sáng sủa, tốt đẹp toạ thủ gặp
nhiều Sát tinh sáng sủa tốt đẹp hội hợp, chắc chắn là có uy dũng.
Quyền
Thủ, Mệnh, Thân gặp nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp nên ra ngoài có oai,
được nhiều người kính nể.”
Chúng
tôi giới thiệu 2 lá số và lời luận của cụ Thiên Lương để bạn đọc dùng làm mẫu
tham khảo.
HOÀNG CAO KHẢI
- Công thần của thực dân xâm lăng
“Hậu
bán thế kỷ XIX đất nước ta bị dày xéo bởi đế quốc ngoại bang tìm kiếm thuộc
địa, muốn tránh cái nạn vong quốc đã có những bậc anh hùng liệt sĩ như Thủ Khoa
Huân, Cao Thắng, Nguyễn Thiên Thuật đứng lên quyết đem gan óc, phơi bày với
giang sơn. Đồng thời lúc đó cũng có một hạng người vì một lý do gì, danh lợi
hay thù oán cá nhân, hay uất hận về một phương diện nào, cam tâm làm tay sai
cho kẻ xâm lăng chống lại Tổ quốc nối giáo cho giặc để mau bình định Đất Nước,
hầu cầu hưởng sự vinh quang như Trần Bá Lộc, Nguyễn Thân, Hoàng Cao Khải.
Hoàng
Cao Khải được đặc quyền kinh lược Bắc Kỳ như một vị phó vương. Theo sách báo
thời Pháp thuộc, ông sanh năm Canh Tuất ngày 18 tháng 3 giờ Tí.
Mệnh
lập tại Thìn, Thân Mệnh đồng cung tỏ rõ cho thấy người này quyết tâm đả phá tất
cả những gì mình đã hận, đã gặp trái ý, mà trời cũng chiều lòng cho họ thành
công.
Người
mạng Kim Vũ Khúc thủ mệnh còn gì bằng, chắc như nhà đúc có cốt sắt đúng lượng.
Quốc Ấn giáp Hồng - Đào cùng Quyền, Khoa, Lộc Tam hoá Liên châu, ôi chao là
đẹp. Cung Quan Tử, Phủ, Đẩu Quân, Lộc, Mã, Khốc, Khách tưởng cũng đến thế là
cùng.
Lại
thêm Văn Khúc đứng cùng Vũ Khúc, Hữu Bật cư quan, văn võ toàn tài, tiếc rằng
mình là hậu sinh không được thấy cái tài kinh bang tế thế diệt đồng bào của họ
Hoàng ra thế nào lúc bấy giờ.
Cứ
nhìn vào lá số này phải phục họ Hoàng có tài thực lực và cũng chịu cho hoá công
đã khéo tạo ra cái người này với đủ tư cách hình thức tốt đẹp mới tạo nổi cho
nước Việt Nam 100 năm Pháp thuộc sau này, Vũ Khúc Thìn, Kình Dương, Hoá Kỵ nhị
hợp chiếu (sinh nhập) thật là một lưỡi dao bén bọc trong cái túi gấm Tam hoá
Liên châu, Quốc Ấn, Hồng - Đào.
Thân
Mệnh đồng cung Thìn, người này cho đến khi xuống lỗ vẫn còn hận, có lẽ quan
thầy chỉ chiếu với chức quận công kinh lược thế thôi, chứ thâm tâm họ vẫn không
tín nhiệm và coi rẻ là khác (Bệnh Phù, Tuế Phá, Thiên Hư, phá cách).
Phải
công nhận ông này cũng đã dầy công tu mấy kiếp trước, nên mới có cái Mệnh đẹp
như gấm thêu hoa này, đến cung Tật ách vào sanh ra tử (Hình, Sát) vẫn có Song
Hao và Thiên Không bám chặt. Nếu ông tu thêm 30 năm nữa cho thành chánh quả hãy
xuống trần gian này thì ngày nay trên khắp các nẻo đường các thành phố Việt Nam
đều có ghi tên Hoàng Cao Khải đời đời kiếp kiếp ngang hàng với Phan Bội Châu,
Phan Châu Trinh, có lẽ có tượng đồng bia đá biên khắc Tổ quốc thọ ơn nữa là
khác.
Ngồi
ngắm lá số, tôi không hiểu tại sao lại có lá số đẹp như thế, trách thầm hoá
công sao lại cay chua nặn ra ông vào năm Canh Tuất thành ra đẹp cũng như không.
Tạo hoá bày ra lại xoá ngay tức khắc cái nhân vật này, chắc là có cái nhân quả
bí mật gì, hay ông chỉ là con bài của thời cuộc tạo nên. Những người như ông
Quận Công Hoàng Cao Khải không phải là không biết, cũng cửa Khổng sân Trình như
ai:
Ngàn
năm ai có khen đâu Hoàng Sào! ”
Cái đáng trọng của cụ
Nguyễn Công Trứ: NGHỊ LỰC
“Tiên sinh chào đời năm 1778 là năm Mậu Tuất
ngày 01 tháng 11 giờ Thìn, tức là năm đầu Thái Đức Nguyễn Nhạc nhà Tây Sơn xưng
vương cho đến khi khôn lớn trên 20 năm có thể nói là một khoảng thời gian bất
hạnh cho tiên sinh gặp cảnh gia biến đi đôi với đất nước suy tàn vì nội chiến,
nhưng có lẽ cũng là một dịp để rèn luyện chí con người mà sau này ta được
thưởng thức những bản hùng ca:
“Đã
mang tiếng ở trong trời đất
Phải
có danh gì với núi sông
Trong
cuộc trần ai ai dễ biết
Rồi ra
mới rõ mặt anh hùng”
Nhìn
vào Mệnh, Thân (cả vị trí lẫn sao) của tiên sinh thấy cả một cái thế bất mãn
của người muốn mang chí để lấp biển vá trời. Tử, Tướng ngộ Tuần là một sự bực
bội vô cùng của kẻ sỹ phải đứng khoanh tay vì Hữu Bật bị Triệt. Vì thế mỗi ki
có dịp trị loạn dẹp giặc, là tiên sinh tình nguyện xin đi liền. Cũng là một cái
hay, mỗi lần ra quân là mỗi lần thắng cuộc, có phải cái thế của Thân Tí Thìn dễ
dàng đàn áp Dần Ngọ Tuất.
Đối
cục đâu phải tầm thường Sát - Phá - Tham đắc địa nhưng thiếu sát tinh đắc cách
phò trợ, Kình Dương ở Ngọ nhập bọn với Lực Sĩ, Bạch Hổ ngộ Thiên Tài đủ nghĩa
của tư cách anh hùng rơm hung hăng sống ngoài vòng pháp luật, chỉ làm tai hại
cho Thất Sát, Phá Quân mà thôi, một Tham Lang đứng cặp với Hao ở Dần không đủ
đối phó. (Lê Duy Lương ở Thanh Hoá, Phan Bá Vành ở Nam Định, Nùng Văn Vân ở
Tuyên Quang, giặc biển ở Quảng Yên và loạn quân ở Chân Lạp ở miền Nam). Mạnh
nhất là Lê Duy Lương dựa trên cái thế chính nghĩa con cháu nhà Lê phục hưng
(Thái Tuế).
Toàn
bộ Mệnh Thân tiên sinh chỉ trông chờ vào một Thiên Tướng, cái hại của Tuần làm
cho tiên sinh phải chầy chật gian nan, nhưng cái hay của Tuần là phá vỡ La Võng
(Đà La) để mở đường cho tiên sinh tiến thân hoà hợp với Hữu Bật bị Triệt đắc
Khoa ở Tí giải toả.
Vị trí
của tuổi Mậu Tuất đóng ở Thân là vị trí của người bất mãn, thường thốt ra những
lời biếm trách nhưng đứng cặp với Mã và Khốc lại là cái thế ngông bằng những
câu văn (Văn Khúc) khí phách một trượng phu. Người đời nói tiên sinh nổi tiếng
về những bài ca trù (hát ả đào) luôn lấy hoàn cảnh mình ra thổ lộ tâm tình của
Tử Tướng ngộ Tuần.
Thật
ra rất khó phân tách cái Thân của tiên sinh với Tử Tướng mắc La Võng (Đà La)
nếu không có Tuần làm sao làm nên việc, mà Tử Tướng ngộ Tuần lại là một điều
thiệt thòi cho tiên sinh. Mỗi khi lên nắm quyền một địa vị lớn thì khó mà thụ
hưởng vinh quang, vì lẽ đó đời tiên sinh đã bị ba lần giáng chức.
Cững
thời Liêm Trinh thủ Mệnh dầu không phải là nòng cốt, muốn giữ cho đúng nghĩa
chữ Liêm, đương số cũng phải nhọc công hao tổn bồi đắp mới thành, vì người Mộc
Mệnh Dần Ngọ Tuất đứng ở thế Thân tí Thìn dễ bị thất chí, mà Thân còn đóng ở vị
trí Phá Hư cũng dễ bị lôi cuốn vào vòng rối loạn. Phải chăng Liêm Trinh đắc
dụng để tiên sinh được tiếng là người phục hưng chính quyền quân chủ tập trung
bằng những câu:
“Tang
bồng hổ thỉ nam nhi trái
Cái
công danh là cái nợ nần
Nặng
nề thay đôi chữ quân thần
Đạo vi
tử vi thần đâu có nhẹ.”
Vì nội
chiến quá lâu, dân tình đau khổ quá nhiều, nhân tâm biến đổi. Một vụ điển hình
có tên Nguyễn Trang môn đệ của Lý Trần Quán, bắt chúa Trịnh Khải nộp cho vua
Tây Sơn và trả lời cho thầy học bằng câu: “Thương chúa không bằng thương thân,
sợ thầy không bằng sợ giặc” đã tỏ rõ sự phá sản tinh thần đạo đức đến bậc quá
thấp trong quần chúng, ngay cả người đã có cắp sách đến xin thầy năm ba chữ của
thánh hiền, cũng không giữ được giáo lý thì với tư cách của Liêm Trinh thủ
Mệnh, Tử Tướng ngộ Đà đắc Tuần ở Thân không cho phép Phá Hư làm nghịch cảnh, ta
phải chịu đó là một nghị lực (Thiên Mã).
Vốn là
một nhà Nho bị phá sản của thời cuộc, cả tinh thần lẫn vật chất, Mệnh Thân đều
đóng ở vị trí bấp bênh trên cái thế nghiêng ngửa đời sống, cái nghị lực này
không phi thường hơn người, làm gì không thành một Nguyễn Hữu Cầu, một Cao Bá
Quát. Mã Khốc Khách Thân cung đưa cái thế Liêm Trinh lên tột đỉnh, phơi bày từ
vua cho đến dân cái lòng trinh bạch của nhà Nho rất ngông.
Trường
hợp Tuyệt Hao ở đây xin thưa rằng Tuyệt ngự Kim cung Hao ở đắc địa không thể
gắn cho chữ xảo quyệt huống chi Liêm Trinh chỉ huy đứng đó thì sự khôn ngoan đa
mưu túc trí mới là đúng nghĩa.
Cuộc
đời tiên sinh có 3 giai đoạn đắc chí, nhìn vào số thấy ngay hai giai đoạn trong
Tam hợp tuổi là Tuất (23 - 12) và Dần (67 - 72). Giai đoạn trên đương tuổi
thiếu niên tự đắc chí về học được thầy quý bạn phục, làm danh dự cho nhà trường
với bản điều trần “Thái bình Thập sách” dâng vua Gia Long lúc tuần du, được cả
vua lẫn triều đình lưu ý. Giai đoạn sau đường công danh tiến bước cho đến lúc
an dưỡng tuổi già, tuy có một lần bị cách hết chức tước, biếm làm lĩnh thú
nhưng chỉ trong 8 tháng được phục hồi chức vị, làm việc ngay tại chỗ để tiên sinh
được rửa tiếng.
Còn
một giai đoạn đặc biệt tiên sinh được thỏa chí nam nhi là giai đoạn ở Tý cung
(43 - 52), đây là một trường hợp tuy trái với Tam hợp tuổi Dần - Ngọ - Tuât mà
còn bị thế Thân - Tý - Thìn khắc nhập, tiên sinh được đắc hưởng do chính bộ máy
Tuần - Triệt thi hành sứ mạng mở rộng cửa danh dự đón rước tiên sinh chiếm giải
Nguyên, tuần tự lĩnh chức vị Hình Bộ Tham Tri Sung Dinh Điền Sử, bước hoan lộ
thẳng ngay không một mảy may ngừng trệ.
Giai
đoạn rắc rối nhất là Sửu cung (58 - 62) Dần - Ngọ - Tuất đáo Tỵ - Dậu - Sửu kể
là sa lầy, tiên sinh bị giáng chức hai lần và phải xông pha nhiều chiến trận.
Hầu
hết những bài ca trù của cụ Nguyễn Công Trứ toàn bộc lộ cáI chí nam nhi, với
hận ngông của kiếp hàn nho, tỏ rõ tuổi Tuất mà Mệnh lập Thân cung tiềm tàng một
nghị lực quá cao cả (Mã, Khốc, Khách) sóng đôi với Thân: Tử, Tướng ngộ Tuần,
nhịp điệu cùng với Quan cung bị Triệt đắc Khoa ở Tý. Bao nhiêu yếu tố đủ giảng
cái thân thế của một nhân sinh:
Trót
sinh ra thời phải có cái chi chi
Chẳng
lẽ tiêu lường ba vạn sáu
Truyện
đố kỵ xá chi con tạo
Nợ
tang bồng quyết trả cho xong
Đã
xông pha bút trận thì gắng gỏi kiếm cung
Cho rõ mặt tu mi nam tử
Trong
vũ trụ đành là phận sự
Phải
có danh mà đối với núi sông
Đi
không chẳng lẽ lại về không”
- NGƯỜI BẤT HẠNH TRONG HÔN NHÂN:
Đó là
những người có cuộc sống hôn nhân không suôn sẻ, thiếu hạnh phúc, nhẹ thì cãi
cọ, xung khắc, nặng thì: ly thân, ly hôn, góa bụa hoặc tái giá nhiều lần...
Biểu hiện ở cung Mệnh, Thân và Phu - Thê là sự tụ hội của nhiều sao dâm tinh,
bại tinh kết hợp với các sao chỉ sự cô đơn, thay đổi... nhất là khi tập
trung ở cung Phu - Thê.
Có
quan điểm cho rằng: “Cung phu thê chỉ cho ta coi hoàn cảnh khi gặp gỡ, còn
khi sống chung đã thành lập gia đình rồi thì phải coi cung Nô làm
quan trọng hơn. Ví dụ như Nữ Mệnh có Đào Hoa Đế Vượng cư Nô thì chồng là người bay
bướm... Coi ly dị khi vợ chồng đã có con thì coi cung Nô, ví dụ như Âm Dương
lạc hãm cách cung và chiếu Nô thì hai đời...”. Quan điểm này khó chấp nhận
bởi cung nô chỉ mối quan hệ của đương số với 4 loại người trong xã hội: Thầy,
trò, bè bạn và nhân tình, chứ không thể là của người phối ngẫu nên không có
chuyện “Ví dụ như Nữ Mệnh có Đào Hoa Đế Vượng cư Nô thì chồng là người bay
bướm...”
Kinh
nghiệm của các thầy tử vi cho rằng: Những người có cuộc sống hôn nhân không
được viên mãn, phần lớn Nhật - Nguyệt đều hãm địa, dù an ở bất kỳ cung nào.
(Xem
thêm:
Ngoài
ra, sự đổ vỡ hạnh phúc gia đạo được thể hiện ở các cung sau:
- Cung
Phu - Thê bị Tuần Triệt đồng cung hoặc bị Sát tinh xâm phạm hoặc bị hao, ám,
bại, hình tinh đi với sao thay đổi, đau buồn, nước mắt, cô độc; hoặc có sao chỉ
hai đời chồng (vợ) hoặc có sao chỉ con dị bào.
Nhìn
chung, cung Phu - Thê nên tránh gặp các chính tinh: Cự Môn, Phá Quân, Thất Sát,
Liêm Trinh, Vũ Khúc, Tham Lang cho dù chính tinh đó có đắc địa
thì hạnh phúc gia đạo cũng không được toàn vẹn, vẫn chịu
những đắng cay, uất ức, tủi hờn, còn khi hãm địa thì càng khẳng định
chắc chắn cuộc hôn nhân đầy đau khổ, dù có muốn níu kéo cũng sớm phải
chia ly. Sự hội tụ của các sao phụ tinh khác như: Không, Kiếp, Quan Phù, Thái
Tuế, Quan Phủ, Thiên Hình, Cô - Quả, Đẩu Quân tại Phu - Thê càng chắc chắn đương
số là người bất hạnh trong cuộc sống vợ chồng.
- Lá
số hai vợ chồng có bản Mệnh khắc nhau
- Cung
Phúc có nhiều sao bất hạnh về gia đạo (cao số, dang dở), trong khi cung Mệnh
(Thân) lại có nhiều sao chỉ sự xui xẻo, đau thương, nhất là với nữ số.
- Có
dấu hiệu ngoại tình ở Nô , Di
- Cung
Tử có dấu hiệu hai dòng con
Sách
Tử Vi liệt kê một số bộ sao chỉ sự chia ly:
Tử Sát: Không may mắn cho hôn sự, làm chậm trễ
hôn nhân, nếu lấy vợ (chồng) sớm sẽ nhanh bỏ nhau.
Tử Phá: Hình khắc, chia ly vì không ai chịu ai.
Liêm Trinh Dần Thân: Cưới xin nham nhở (dễ chắp nối) và
người phối ngẫu thường nghèo hèn.
Liêm Tướng: Không tử biệt cũng sinh ly do một trong
hai bất nhẫn, nóng tính.
Liêm Tham: Dễ chia ly, có thể một trong hai bị
hình tù.
Liêm Sát: Chậm có gia đình và dễ bị chia ly.
Thiên Đồng Thìn Tuất: Bất hòa dẫn tới chia ly. Một trong hai
dễ thay lòng đổi dạ.
Đồng Âm cư Ngọ: Vợ dễ có lỗi mà chia ly.
Vũ Sát: Hình khắc nặng nề, gặp thêm sát tinh dễ
dẫn tới sinh ly tử biệt
Vũ Phá: Nếu sớm lập gia đình cũng dễ chia ly.
Âm Dương đồng cung: Nên muộn xây dựng gia đình mới không phải chia ly.
Âm hoặc Dương hãm: Nếu lấy sớm dễ gặp trắc trở gia đạo,
muộn thì đỡ hơn.
Cơ Nguyệt tại Dần: trắc trở cưới xin mà dẫn tới ly tán,
sớm cưới cũng dễ chia tay.
Tham Lang Thìn Tuất: Sớm lập gia đình thì vì vợ chồng ghen
tuông chơi bời mà chia ly.
Tham Lang Dần Thân: Một trong hai người có tính lăng nhăng,
bạc tình mà chia ly.
Cự Môn: Cung nào cũng bất lợi cho gia đạo vì là
sao kỵ vào cung Phu Thê nhất.
Cự Cơ: Dễ chia ly vì bất hòa, và nhiều khả
năng có hai vợ, hoặc hai chồng.
Đồng Cự: Bất hòa, nghi ngờ nhau, gây thị phi cho
nhau mà dẫn đến chia ly.
Cự Nhật: Dễ chia ly vì tính bất đồng mà cãi
vã nhau dẫn đến chia ly.
Thiên Tướng hãm: Một trong hai người dễ nóng nảy, cứng
đầu, gia trưởng mà chia ly.
Thiên Tướng Mão Dậu: Cưới nhau hay gặp trắc trở, muộn thì
tránh được.
Thất Sát Thìn Tuất: Trắc trở gia đạo khó tránh khỏi, cần
muộn lập gia đình.
Thất Sát Tí Ngọ: Phối ngẫu là con trưởng, nhưng vì cả
hai đều rất ghen tuông mà chia ly.
Phá Quân Thìn Tuất: Hao tán phu thê, dễ nhiều lần lập gia
đình.
Phá Quân Dần Thân: Đa phần là có ngoại tình và vì thế mà
dẫn đến chia ly.
- NGƯỜI KHÔNG VỢ KHÔNG CHỒNG:
Đó là
những người không hề có cuộc sống gia đình (vợ chồng), mặc dù có thể họ rất
khao khát, kiếm tìm người phối ngẫu nhưng rốt cuộc vẫn phải chấp nhận cảnh chăn
đơn gối chiếc.
Nguyên
nhân dẫn đến cảnh “trai không vợ, gái không chồng” thì nhiều nhưng không có
sách nào nói cụ thể về trường hợp không vợ không chồng sẽ biểu hiện như thế nào
trên lá số nên người viết chỉ mạo muội nêu ra một số điểm cần lưu ý:
- Mệnh
(Thân) có Cô Thần, Quả Tú đúng cách nam Cô nữ Quả trong khi cung Mệnh (Thân)
lại hội họp quá nhiều sao bại tinh, cô độc khác.
- Cung
Tử - Tức tụ tập nhiều sao hiếm muộn, tuyệt tự, lập tự.
- Cung
Phu - Thê rơi vào trường hợp: hoặc chính tinh hãm địa, đi chung với các sao
tình duyên bị sát tinh xâm phạm, hoặc Cô, Quả hội tụ cùng các sao bất lợi,
nghịch cảnh về cuộc sống gia đạo.
- Cung
Phúc xấu, với những trường hợp hoặc chính tinh hãm địa, hội tụ với các sao tình
dục bị sát tinh xâm phạm, hoặc Tuần, Triệt đồng cung, hoặc hội tụ các sao chỉ
sự cô độc, bất hạnh về gia đạo.
Xem số
“gái già trai muộn” rất khó vì trường hợp không vợ không chồng trong xã hội
tương đối hãn hữu và lý do để không có cuộc sống vợ chồng cũng khá phức tạp: có
thể là người đồng tính luyến ái, có thể là người cận tình dục (thờ ơ, thậm chí
còn sợ phải quan hệ tình dục với bất kỳ giới nào), có thể là người gặp phải
trục trặc nào đó về cơ quan sinh dục hoặc rối loạn về chức năng tình dục... nên
việc giải đoán rất dễ sai lệch.
Chỉ
khi nào lá số biểu hiện đầy đủ, cơ bản những điểm bất lợi trên thì mới nên
quyết đoán tình trạng không vợ không chồng của đương số. Trong thực tế, để có
những lá số biểu hiện rõ ràng như vậy rất hiếm gặp, vì thế những điểm lưu ý
trên cần phải được cân nhắc cẩn thận rồi mới đưa ra lời giải đoán.
- NGƯỜI ĐỒNG CÔ BÓNG CẬU:
Đó là
những người ít nghĩ tới việc xây dựng gia đình, nếu có thì cuộc hôn nhân cũng
không bền hoặc đời sống tình dục không hạnh phúc như những cặp vợ chồng bình
thường khác, bởi trong đời sống tình cảm của họ không có tình yêu trai gái như
thông thường.
Có
sách cho rằng chỉ khi nào Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương và hung sát
tinh đều hãm địa thì nam số mới là người đồng cô bóng cậu. Người viết cho
rằng: Bản chất của Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương là nhân hậu, từ thiện và
khoan dung nên không thể là đối thủ của lũ sát tinh cường bạo, sát
phạt, vì thế chỉ cần Lục sát tinh hãm địa cũng đủ để khẳng định điều
đó. Nếu bộ Cơ - Nguyệt - Đồng - Lương lại tối hãm thì càng lộ nguyên
hình là người đồng cô bóng cậu, ái nam ái nữ dù có được nhiều sao cứu giải hội
họp. Ngay trường hợp Cơ - Nguyệt - Đồng - Lương có một vài sao tối
hãm, nhất là Nguyệt hãm địa, thì dù không ngộ lục sát
tinh vẫn là người có đời sống sinh lý khác người: Tuy có vợ có chồng nhưng
vẫn song hành, dù ít nhiều, vẫn vấn vương chuyện tình cảm với người cùng giới.
Hoặc
khi nam số có Thất Sát thủ Mệnh tại Tý, Ngọ mà gặp Kiếp,
Riêu đồng cung sẽ là người rất ghét đàn bà, thích cuộc sống độc thân, kiểu
như người đồng tính luyến ái. Trường hợp này hoặc là người đồng tính luyến ái,
hoặc là người có khuynh hướng cận tình dục (không thích quan hệ tình dục với
bất kỳ giới tính nào), nhưng khả năng là người có khuynh hướng tình dục đồng
giới nhiều hơn, tuy nhiên, vì Thất Sát là võ tinh, hợp với nam số nên có thể sẽ
không có biểu hiện rõ rệt bằng hình dáng, cử chỉ của người đồng cô bóng cậu.
Hoặc
khi Thái Âm đơn thủ ở Tỵ, rất bất lợi cho nam số, tượng trưng cho đời
sống tình dục quái dị, nhu nhược, nhiều nữ tính, chịu nhiều cay đắng trong tình
trường. Tuy không ẻo lả, điêu chác như trường hợp Cơ, Nguyệt, Đồng,
Lương ngộ Lục sát tinh hãm địa nhưng cũng không tốt đẹp gì cho
nam số về đời sống tình dục cả.
Nữ số
khi có Tử - Phủ - Vũ - Tướng hội họp tại Mệnh, nhất là khi Vũ - Tướng
thủ Mệnh gặp Lục bại tinh hãm địa là người không thích chuyện trai gái, nếu
thêm Hình, Riêu, Cô, Quả thì suốt đời không thành gia thất, hoặc nếu có thành
thì cũng lận đận, cao số mà hôn nhân không bền.
- NGƯỜI CÓ SỐ TU HÀNH
Nên
hiểu người có số tu hành là người hoặc xuất gia tu hành, hoặc tôn thờ và tin
theo một tôn giáo nào đó, chứ không nhất thiết là phải xuất gia tu hành. Cũng
không nên hiểu người có số tu hành là người theo Phật giáo hoặc Thiên Chúa giáo
mà nên hiểu là người hướng theo một tôn giáo (bất kỳ) nào đó với lòng mộ đạo
thành kính.
Nhìn
chung, người có số tu hành thì Mệnh (Thân) thường hội họp nhiều sao thiện căn
(sao tượng trưng cho bản tính nhân đức, bác ái), sao thất bại ở đời, sao cô độc
và nhiều sao hãm địa. Tuy nhiên, khi Mệnh (Thân) rơi vào những trường hợp sau
thì mười người sẽ có chín người xuất gia tu hành:
- Mệnh
vô chính diệu ở Tuất, có Cơ, Lương ở Thìn xung chiếu hoặc Mệnh vô chính
diệu ở Thìn có Cơ, Lương ở Tuất xung chiếu.
(Nhưng
có quan điểm lại cho rằng, chỉ khi: Cơ, Lương ở Thìn, Tuất gặp Tuần, Triệt
hay sát tinh hội họp thì đường đời mới gian truân, trắc trở, đương số mới
có số đi tu.)
- Mệnh
vô chính diệu gặp nhiều sát tinh hội họp cùng với Hóa Kỵ.
- Tử,
Tham tọa thủ đồng cung ngộ Không, Kiếp.
(Có
quan điểm lại cho rằng: nếu Tử, Tham ngộ Không, Kiếp thì dù có đi tu cũng phá
giới nên rốt cuộc không có số chân tu)
-
Thiên Phủ tọa thủ ngộ Tam Không.
-
Thiên Không, Hồng Loan tọa thủ đồng cung (nhưng nếu Thiên Không, Hồng Loan
trực chiếu thì chỉ là người mộ đạo).
Trong
cuốn “Tử Vi giảng minh” soạn giả Thiên Phúc Vũ Tiến Phúc cho rằng những người
sinh năm Dần, tháng Thân, ngày Tỵ, giờ Hợi thì chắc chắn có số xuất gia tu hành
(?). Vì chưa có điều kiện kiểm chứng thực tế, cũng chưa thấy tác giả khác đề
cập đến nên người viết chép lại để bạn đọc lưu ý khi tham khảo. Tuy nhiên, theo
thiển ý của người viết, phải tham chiếu thêm các cung Phụ Mẫu, Phu - Thê, Tử -
Tức xem xấu tốt thế nào. Nếu 3 cung Phụ Mẫu, Phu - Thê, Tử - Tức đều có những
biểu hiện bất hạnh về hạnh phúc nơi trần thế của đương số thì mới quyết đoán là
người có số tu hành, còn không thì chỉ nên coi đương số là người mộ đạo.
Chúng tôi giới thiệu lá số của Phật tổ và lời luận của Cụ Thiên Lương để bạn đọc tham khảo thêm.
Chúng tôi giới thiệu lá số của Phật tổ và lời luận của Cụ Thiên Lương để bạn đọc tham khảo thêm.
Lời
luận của cụ Thiên Lương:
“Tuổi Mậu Tuất, Mệnh Thân đồng cung tại
Hợi, ở vị trí sáng suốt cùng với thiên địa cảm thông, như người có sứ mạng, có
sự đồng minh của thiêng liêng để dìu dắt nhân loại (Thiếu Dương được Hồng, Đào,
Hỷ). Thiên Không đây mới thật vấn đề tài tình. Ở vị trí Dần - Thân - Tỵ - Hợi,
Thiên Không phải phụ thuộc Hồng Loan, dầu đồng cung hay xung chiều, là bản tính
của người không ham phù vân, tự tu tự tỉnh biết trọng cái lý công bằng thiên
nhiên, hễ vay là phải trả, muốn là phải khổ, mọi sự vật đều là Không, là chân
lý vô thường của nhà Phật, là chân lý thường diễn biến hàng giờ hàng phút, tất
cả không có gì là không biến dịch từ cái sinh đến cái diệt cứ liên tục thay
nhau bất tận của cái thế luân hồi.
Phủ phùng Không là cái phủ trống rỗng, là cái
không có gì, hay ngay cái mệnh của Ngài coi cũng là Không, thiết tưởng Hồng -
Lộc xung chiếu, Ngài còn thiết gì mà không ngăn cách bằng Tuần, huống chi Hồng
- Lộc là miếng mồi ở trong có thuốc độc (Hà - Sát) với Ngài là bậc tuệ giác làm
sao mà không coi thường gạt bỏ.
Thiên Không đã tài tình mà Cô Thần ở đây
không kém phần đặc sắc. Người ta thường nói Nam kỵ Cô, Nữ kỵ Quả thì lý đương
nhiên là người cô quạnh cho đến cả vợ con ruột thịt đồng bào nhân loại, có cũng
như không, không vẫn là có ở đây nó là thế (Hồng - Không, Sắc Sắc Không Không).
Như vậy Ngài đâu có lẻ loi, vẫn sống với nhân loại đại đồng, dầu Đông hay Tây,
Nam hay Bắc, dưới tuệ nhãn của Ngài (Thiếu Dương, Thiên Hỉ) đều là con người
nay kiếp này mai kiếp khác cũng như nhau, Ngài vẫn một tình thương âu yếm nhân
hậu (Thiên Đức, Nguyệt Đức, Long Đức, Phúc Đức).
Khoa, Đào, Việt, Tả - Hữu là vạn năng của
Phật, dầu ở khía cạnh nào vẫn là tập trung ở cái nhân tứ đức, cái tuệ giác quán
thông của Ngài cùng trời đất (Thân Mệnh đồng cung).
Thiên Tướng cung Quan ở Mão là Thiên Tướng
hãm, nếu là tuổi khác không được Thiếu Dương, không được Tứ Đức, có lẽ đây là
một ông thầy tướng số có hạng. Với đức Phật như lá số này (Mậu Tuất) chỉ là một
thầy tu khiêm tốn không quyền uy, không ép buộc, không khuyến dụ ai phải theo
mình, ai hỏi thì nói, nói rồi cũng như không nói. Thiên Tướng đây có tính cách
bình dân muốn để quần chúng tự ý giải thoát mình, chứ Ngài không muốn mình là
người sáng ban phát ơn huệ cho ai là người mê muội. Cái phẩm chất của Thiên
Tướng (Mão Dậu) nó đã giản dị cặp thêm Thiên Quan có ý nghĩa thông cảm trời cao
(Dương), Thiên Phúc đất rộng (Âm) là sứ mạng của người thông đạt lý lẽ Âm
Dương muốn mọi người hết mê để tự mình thành Phật hết cả.
Nó thong thả tự do tự mình cởi mở lấy
mình, ngay cả những lời Ngài nói đừng có tin ngay. Chừng nào thấy chắc
chắn có giá trị thì hãy theo, cũng có nghĩa răn bảo người ta chớ đừng sùng tín
dễ dàng để rồi dễ thành thành kiến sai lạc nô lệ cho một học thuyết luân lý hay
tôn giáo.
Căn cứ theo số này người Dần - Ngọ - Tuất vận
hành đến Tỵ - Dậu - Sửu là phải khắc phục và bị sa lầy, biết rằng Ngài giác ngộ
từ năm 29 tuổi và dấn thân vào khổ hạnh hành xác mất 6 năm tức là ở giai đoạn
22 - 31 mất 3 năm chót và 3 năm đầu ở giai đoạn 32 - 41. Ngài đắc đạo năm 35
tuổi thành một vị Thế Tôn ở vị trí Quan Phù, Thái Tuế, Bạch Hổ cùng ảnh hưởng
của Thái Dương ở Dần là mặt trời ló dạng ở chân trời, rồi từ đó mà đi cho đến
ngày tịch ở tuổi 80 ở cung Ngọ được nhân loại tôn sùng kính bái cho đến ngày
nay trên 2500 năm.
Đời Đức Thế Tôn Thích Ca dĩ nhiên Ngài thành
Phật là ở Tuệ Giác hơn người (Thân - Mệnh đồng cung ở vị trí Thiếu Dương, Thiên
Hỉ hội đủ Tả - Hữu, Khoa, Đào, Việt, Thiên Đức, Nguyệt Đức, Long Đức, Phúc Đức
và cả bộ Thiên Quan, Thiên Phúc) mới dứt bỏ được địa vị cao sang vợ đẹp con
khôn phải là một người hùng, không ỷ lại vào đâu để tìm chân lý, là người có
nghị lực, song rồi chỉ có một hoài bão sao cho nhân loại được giải thoát trần
ai khổ ải là đại từ bi.
Na mô a di đà Phật.”
Chúng
tôi giới thiệu tiếp lá số của vị tu sĩ với lời luận giải của cụ Thiên Lương để
ban đọc tham khảo:
Lời
luận của cụ Thiên Lương:
“Mệnh Quý Hợi đóng ở Dậu có Tử - Tham thủ
mạng là số của người yếm thế kể cả hình thức sao đến vị trí Mệnh đóng. Nhưng
chính bộ Tử - Tham không phải là nòng cốt của người Mệnh này, phải tính tới bộ
Vũ - Phá ở Tỵ. Tử Vi ở đây chính ra là vì sao chỉ huy Mệnh nhưng bị Tham Lang
làm lung lạc mà chính Tham Lang này cũng không đủ sức để phá cách Tử Vi nên
tuổi Quý Hợi phải mệt mỏi vì Tham Lang, bộ sao này vì thế thành ra nửa trắng
nửa đen khiến bộ Vũ - Phá đủ tư thế cuớp quyền chỉ huy mạng này. Phải nói hành
động của người này chính là Vũ - Phá.
Người này tu chỉ là hình thức khoác áo Tử -
Tham mà để tranh đấu riêng tư cho mình, cho bè phái mình, cho tư tưởng tham
vọng mình rất quyết liệt. Tam hóa Liên châu ở Mệnh (Hóa Kỵ giáp Khoa, Quyền ở
Dậu) có nghĩa là người này đã ôm một mối hận oán hờn chứa chấp một cơ mưu thâm
trầm thầm kín, quấy phá bằng hành động có khi cũng không được đẹp đẽ, được nổi
danh (Toái Quân Lưỡng Phá) bằng lối kích thích người ta (Điếu Khách), Thân Vô
chính Diệu ở Mão đắc Tràng Sinh (Thủy) (Theo cách an vòng Tràng Sin mà số đông
người áp dụng thì lá số này an Tràng Sinh ở Tỵ) hành động ở trên cương vị từ
thiện, nhân hậu có tính cách chính nghĩa, nhưng suy tư tính toán ghê gớm là cái
vị trí đó của tuổi Quý Hợi. Trong Tam hợp Cục của Thân (hành động) Thiên tướng,
Kình - Lực, Thái Tuế, Hình, Riêu càng hành động bao nhiêu càng gây nghiệp quả
bấy nhiêu, mặc dầu lấy cái thế chính nghĩa mà dựa.
Khách quan mà nói, ông là người có nghị lực
vào hạng khá dễ thành công (Quang - Quý) phải dựa vào thế ngoài phụ giúp, chứ
ông không có tài tổ chức (Mã thiếu Tả - Hữu). Nếu ông đã thắng nước thì lại hay
ẩu, đó là tính cách của Vũ - Phá. Vì thiếu bộ Âm Dương nên ông kém sáng suốt.
Được liệt vào hàng giáo phẩm cao cấp như ai
(Thiên Phúc, Quý Nhân, Phong Cáo, Đường Phù) đối với ông chỉ là hư danh cho đến
Tử - Tham ông coi chỉ là chiếc áo khoác bề ngoài. Thâm tâm Vũ - Phá - Hoá Kỵ
một uẩn khúc khó ai biết nổi người bí mật này.
Năm 1963 đương số tranh đấu được thành công,
tiếng tăm lừng lẫy là năm 40 tuổi ở trong Đại vận 33 - 42 ở Ngọ gặp Thái Dương
đắc Hỏa Tinh. Tuy vậy có biết đâu chỉ là quân bài bị lợi dụng trong cái thế
sinh xuất tính theo thời gian của tuổi Quý Hợi đáo Ngọ cung, ở trong còn nhiều
quỷ kế (Cô, Quả, Phục Binh, Không, Kiếp). Lúc này đang ở trong Đại vận 43 - 52
ở cái thế khắc nhập thân bại danh liệt, nhất là từ năm 1966 đương số bước qua
Đại vận mới này 43 tuổi, hoạt động ráo riết, tưởng sự thành công cũng dễ dàng
như mấy năm trước, nhưng có lẽ gặp người đối đầu là Thổ Mệnh lại là lúc hưng
thời, ông đành xẹp luôn cho đến nay, một đôi lúc cũng cố phát pháo mở cờ ra
quân bởi không thời cũng đành nằm co im hơi lặng tiếng.”
- NGƯỜI MUỘN VỢ - MUỘN CHỒNG:
Đó là
những người dù yêu nhiều, yêu rất sớm nhưng việc xây dựng gia đình lại muộn,
thậm chí rất muộn. Những người có số muộn vợ muộn chồng thường cung Phu - Thê
có các sao: Cô, Quả, Không, Kiếp, Khốc, Hư, Linh, Hỏa, Tang, Hổ, Kình, Đà,
Tuần, Triệt và Song Hao hội họp. Càng hội họp (thủ hoặc chiếu) nhiều các sao
trên thì sự muộn xây dựng gia đình càng chắc chắn.
- NGƯỜI MUỘN CON CÁI:
Tại
cung Tử - Tức, càng nhiều sao sau: Tuế, Hình, Không, Kiếp, Khốc, Hư, Linh, Hỏa,
Song Hao, Tuần, Triệt, Tang, Hổ, Đẩu Quân, Thất Sát, Kiếp Sát... thủ hoặc hội
chiếu thì thường muộn về đường con cái, dù có lấy vợ lấy chồng rất sớm.
- NGƯỜI GIANG HỒ LÃNG TỬ:
Đây là
những người vì tự ý hoặc bắt buộc, kéo dài kiếp sống sa đọa mua vui hoặc mưu
sinh. Đó là những hạng playboy, playgirl....
Sách
tử vi liệt kê một số bộ sao tiêu biểu về tình trạng giang hồ lãng tử như sau:
-
Tham, Kình (hoặc Đà) đồng cung ở Tý, Hợi: Giang hồ, lãng tử, hoang đàng.
- Thái
Âm hãm gặp sát tinh: Trai trộm cắp, gái giang hồ.
- Tham
Lang, Thất Sát đồng cung: Trai trộm cướp, gái giang hồ.
- Thái
Dương hãm địa gặp sát tinh: Trai thì trộm cắp, gái thì đa tình, đĩ điếm.
- Đào
(Hồng) cùng sát tinh (nhất là sát tinh hãm địa): Bất hạnh và oan nghiệt
trong tình trường.
- Đào,
Thiên Không: Có tài lừa phỉnh, lôi cuốn người khác làm trò đĩ điếm, dâm
tiện.
-
Phục, Tướng, Thai, Riêu: Gạ gẫm, bắt cóc phụ nữ làm chuyện dâm bôn. Có thể
là tú ông, tú bà.
- Cô
(Quả), Kỵ, Tuế: Bị bỏ rơi, thất sủng. Đặc biệt nữ số có bộ sao này có thể
là gái giang hồ.
- Cô
(Quả), Đào, Mã: Nhiều nhân tình nhưng các mối tình đó đều sớm nở tối tàn.
Đặc biệt nữ số có bộ sao này có thể là gái giang hồ.
Để
quyết đoán đương số có phải là người giang hồ lãng tử hay không rất khó. Ngoài
việc lá số của họ rất giống lá số của người không vợ không chồng, còn rất giống
lá số của người phong tình cách nên thật khó đưa ra lời kết luận. Tuy nhiên,
cần lưu ý 2 điểm sau:
- Cung
Mệnh (Thân) và cung Nô có nhiều dâm tinh hội họp, lại không có sao khắc chế nên
không kìm hãm được đà trụy lạc của đương số. Đặc biệt, khi cung Nô rơi vào
trường hợp này thì đương số là người rất sa đọa, trụy lạc, ăn chơi đàng điếm,
bất chấp dư luận, đạo đức.
- Cung
Phu - Thê có nhiều sao chỉ sự thay đổi cụ thể như: Thiên Đồng, Thiên Mã, Song
Hao. Hoặc cung Phu - Thê bị Tuần - Triệt đồng cung, hoặc bị Tuần, Triệt án ngữ,
hoặc hội họp nhiều sao cô độc, bất hạnh về gia đạo ....
- NGƯỜI PHONG TÌNH CÁCH:
Là
người sống lãng mạn, đa tình, lấy ái tình làm lẽ sống ở đời, không có khái niệm
tình yêu chung thủy. Phần nhiều gặp Song Hao, Hóa Kỵ, Thiên Hình, Riêu, Đào,
Hồng, Mộc Dục, Thai, Tham, Phá, Cự, Lương và Xương, Khúc.... Hiểu đơn giản là
Mệnh (Thân) hội họp rất nhiều sao tình dục, lại gặp những sao bại tinh, tam ám
...
Sách
Tử Vi liệt kê một số bộ sao tiêu biểu cho những người thuộc phong tình cách như
sau:
-
Tham, Vũ đồng cung gặp Phá Quân: Luỵ thân vì sa đọa, tửu sắc.
-
Thiên Riêu, Thiên Đồng: Là kẻ háo sắc, thay đào, đổi kép như cơm bữa, dù
đã có có vợ có chồng vẫn tham dâm, ngoại tình.
-
Riêu, Tam Minh (Đào, Hồng, Hỉ): Rất gian dối và đĩ bợm.
-
Thiên Riêu, Vũ Khúc, Hóa Khoa: Vì học giỏi, có tài đoán trước sự việc nên
cực kỳ dâm đãng
-
Thiên Lương, Thái Âm hãm hội chiếu: Nghèo hèn, tha phương lập nghiệp và
dâm đãng.
- Thái
Âm, Thiên Cơ đồng cung ở Dần, Thân gặp Xương, Khúc (Riêu): Dâm đãng, sa
đọa, hay làm thơ văn dâm tình.
- Cự
Môn hãm gặp Kình, Đà: Trai hay gái cũng đều là kẻ trộm cắp, lăng loàn và
đĩ điếm.
- Phá,
Tham, Lộc, Mã: Giàu có về tiền bạc nhưng lại là người cực kỳ dâm đãng.
- Phá,
Cái, Đào: Dâm dục và lăng loàn, sát chồng (ứng nghiệm với nữ số).
-
Thiên Đồng, Thiên Lương ở Tỵ, Hợi: Đàn ông phóng đãng, đàn bà dâm dật.
-
Thiên Lương, Thiên Mã đồng cung tại Tỵ, Hợi: Đàn ông hư hỏng, đàn bà đĩ
thõa và dâm tiện.
- Đào,
Tràng Sinh (Đế Vượng): Nhiều nhân tình, và những mối tình đó đều đắc thời.
- Đào,
Thiên Mã: Thay đào đổi kép, có mới nới cũ.
-
Tướng, Phá, Binh, Đào, Hồng: Dâm dục quá mức, loạn luân, loạn dâm.
-
Phục, Tướng, Đào, Thai: Dụ dỗ người khác làm chuyện dâm bôn. Riêng phái nữ
thì thêm bị lừa, thất trinh, thất tiết.
-
Phục, Tướng, Thai, Riêu: Gạ gẫm, bắt cóc phụ nữ làm chuyện dâm bôn. Có thể
là tú ông, tú bà.
-
Tướng, Đào, Hồng: Đàn bà tơ duyên rắc rối, ngoại dâm, thất tiết. Đàn ông
thì hoang dâm vô độ.
(Xem
thêm:
…………………………………………………………………………
- © Tác giả giữ bản quyền.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
.
Admin cho cháu hỏi chút ạ.
Trả lờiXóaCháu có lấy lá số tử vi của mình ở: https://xemvanmenh.net/xem-la-so-tu-vi.html
Tại đây họ có giải thích các sao trong lá số.
Nhưng có đoạn họ viết: ở trên thì có nhiều ruộng đất, nhưng ở dưới lại không có tài sản.
Những điều này làm cháu khó hiểu quá.
Mong admin giúp cháu với ạ.
Cháu cảm ơn nhiều ạ.
Ad cho hỏi cách tính mình thuộc sao nào như thế nào vậy.
Trả lờiXóa