LỤC BÁT NGUYỄN LÂM CẨN
Sau 9 tập thơ, trong đó có “Lục bát Nguyễn Lâm Cẩn” xuất bản năm
2015, bạn đọc dễ dàng nhận ra, lục bát chính là sở trường của nhà thơ Xứ Nghệ.
Nói như vậy, không có nghĩa các thể loại khác đối với ông là sở đoản. Ngược lại
là khác. Khi đọc khổ thơ ngũ ngôn trong bài “Say” (1) dưới đây, đương nhiên
buộc ta phải thừa nhận tác giả là thi sĩ đa năng:
Hất chén rượu lên đầu
Mặt trời méo vàng vọt
Mưa rượu không ướt tóc
Giọt nào mài tim óc?
Tuy nhiên, trong phạm vi bài viết này, chúng tôi
chỉ khảo sát phần lục bát. Mười chín bài thơ còn lại sẽ được bàn đến vào một
dịp khác.
Lục bát Nguyễn Lâm Cẩn luôn là chỉnh thể, tròn
đầy, kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa chất liệu ca dao, tục ngữ truyền thống
với ngôn ngữ thi ca hiện đại. Từ đơn vị lục bát 14 tiếng cho đến bố cục toàn
bài, người đọc luôn nhận thấy một cấu trúc chặt chẽ, hô ứng nhịp nhàng với các
kiểu diễn ngôn tự sự, trữ tình hoặc kết hợp giữa tự sự và trữ tình. Điểm nổi
bật làm nên diện mạo Nguyễn Lâm Cẩn trong làng lục bát là khả năng sử dụng ngôn
từ. Từ ngữ của ông luôn được chọn lọc chính xác, hợp lý nên bao giờ cũng tạo ra
được hiệu ứng thẩm mỹ ở tính gợi tả, gợi cảm và sự liên tưởng đa chiều. Ở không
ít bài, Nguyễn Lâm Cẩn còn sử dụng lối chơi chữ, tận dụng khả năng những từ,
ngữ lấp lửng để diễn đạt ý tưởng như là thi pháp thơ Đường trung đại ý tại ngôn
ngoại. Có thể nói, hệ thống từ vựng trong trong hầu hết các bài lục bát đều đều
đạt đến giới hạn của ngôn ngữ thi ca ở tính năng truyền đạt thông tin nghệ
thuật và giá trị biểu cảm cũng như tính đa nghĩa:
Trời nghiêng đất ngửa khật khừ
Mây xưa núi Tản bây chừ còn bay?
Sông Đà dốc ngược vào chai
Đường thơ hun hút tượng đài lênh bênh
Sau lưng thác trước mặt ghềnh
Câu thơ nối nhịp một mình cụ sao?
(Mơ hầu rượu cụ Tản Đà)
Còn trong bài “Mời khói uống rượu”, những triết
lý nhân sinh tưởng như lẫn vào cuộc hội ngộ với đối tượng vô tri nhưng thật ra
lại rất khả tri:
Đạo người đạo chữ chơi vơi
Chí Phèo, Bá Kiến coi trời bằng vung
Đã rơi xuống đáy bần cùng
Những ai lương thiện không khùng cũng điên.
Lục bát Nguyễn Lâm Cẩn không có từ thừa, từ đệm
mà luôn đạt đến sự hoàn chỉnh tối đa. Nhưng kỹ năng gieo vần mới là điều khiến
thiên hạ phải ngả mũ vái chào. Vần của “Rượu thi nhân” luôn luôn là chính vận.
Những câu thơ bàng vận chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong số 40 bài, bởi vần là một
yếu tố quan trọng để bài thơ trở nên nuột nà, hơi thơ liền mạch, tạo nên cấu
trúc bền vững như một cơ thể cường tráng nhằm chuyển tải thông điệp nghệ thuật.
Không ít bài lục bát, đọc lên nghe phảng phất như "Truyện Kiều" mà
lại không phải Kiều, như ca dao mà lại không phải ca dao. Nó là sự kế thừa
những tinh hoa của dòng văn học dân gian cũng như văn học bác học một cách sáng
tạo bởi qua sự chọn lọc ngôn từ, kỹ năng sử dụng vần (bao gồm vần chân và vần
lưng), nghệ thuật phối hợp giữa nhịp điệu với nhạc điệu cũng như khai thác
triệt để hiệu ứng các cặp tiểu đối:
Trắng xương hồn lạnh còn đau
Cùng chung cuống rốn nhúm nhau… tương tàn…!
Niềm tin cau mặt thời gian
Ơn giời đổ mãi cơ hàn ra phơi!
(Rót rượu mời dế)
Mịt mù núi dựng uy nghi
Mây che phủ mặt thấy gì nữa đâu
Tôi say đổ rượu lên đầu
Âm u đỉnh núi một màu mây trôi.
(Mời núi uống rượu)
Lừa nhau vào chốn gập ghềnh
Ván cong uốn lưỡi bập bênh lắm trò
Một đời ăn đói mà no
Oái oăm nước đục cốc mò cò xơi!
(Rượu suông)
Rót ra chén rượu đi tìm
Câu thơ gan ruột im lìm đáy chai
Vớt lên cả một đời trai
Nắm xương bạc phếch phơi ngoài cỏ lau.
(Chén rượu đầu năm)
Với lục bát, Nguyễn Lâm Cẩn luôn làm chủ kỹ thuật
gieo vần. Vần và hệ thống thanh điệu tạo nên nhạc điệu lúc du dương như bản
nhạc đồng quê nhưng cũng có khi chát chúa, dữ dội tùy vào tâm trạng vui buồn
của chủ thể. Nhưng với nhịp điệu thì khác. Có đến già nửa lục bát trong tập thơ
đều bị tác giả cắt rời thành nhiều mảnh xếp chồng lên nhau như là thơ bậc
thang. Cách ngắt nhịp lúc là 2/2, lúc là 2/4 đôi lúc lại là 1/3 hoặc 1/2/4… nhằm
tạo ra sự mới lạ cho cấu trúc lục bát, đồng thời dẫn dụ người đọc vào trường
liên tưởng. Nói vậy, nhưng nếu đọc kỹ, kiểu ngắt câu này thực ra chỉ là hình
thức, bởi vì, đặc trưng của lục bát trữ tình là sự chắp dính các thành tố trong
cùng một đơn vị câu hoặc cả khổ thơ:
Cái tình
Mau ngấm
Say lâu
Chát!
Tom!
Tom!
Chát…!
Cô đầu cụ ơi!
Chùa Hương rau sắng già rồi
Giang hồ quảy gánh
Về thôi!
Cạn ngày!
(Mơ hầu rượu cụ Tản Đà)
Rót đi!
Rót nữa đi nào
Chén say
Chén tỉnh
Rượu vào
Lời ra
Kiến bò trong bụng ê a
Ngoài kia sấm chớp mưa sa kín trời
Dốc chai giọt đáy…
Cạn rồi!
Mắt hoa
Chân ríu
Kiếp người đỏ đen
(Say 2)
Chén này rót ruột
Lòng đau
Mời ông
Ờ nhỉ!
Trước
Sau…
Đâu nào?
Ban ngày vuột giấc chiêm bao
Ta đang mời rượu đứa nào? Hỡi ôi!
(Giấc mơ rượu)
Vấn đề cuối cùng và quan trọng nhất trong “Rượu
thi nhân” là “tứ”. “Tứ” là linh hồn của lục bát. Ngoài các loại truyện thơ hay
diễn ca thuộc loại hình tự sự, lục bát trữ tình bao hàm cả nội dung “thế sự”,
sẽ chết yểu nếu không có “tứ”. Nguyễn Lâm Cẩn còn làm được nhiều hơn thế. Bài
nào của ông cũng găm được ít nhất một cái "tứ", trong đó có không ít
"tứ" bất ngờ, độc đáo. "Tứ" trong thơ Nguyễn Lâm Cẩn có khi
bao quát cả bài, có khi đọng lại ở một, hai khổ nhưng không lặp lại mà luôn
mới. Đây chính là sự cao tay của chủ thể sáng tạo. Bài “Uống rượu với bạn”, tác
giả toàn vẽ ra cảnh nghèo, nói rằng mắc nợ cái "ngông" Tản Đà, nhưng
"tứ" thì lại nằm ở cặp lục bát:
Thằng con đứng ngắm trời sao
Mắt mơ mình lớn thế nào cũng bay.
Còn "tứ" của bài “Khóc Hòa Vang” chắc
hẳn là ở câu:
Văn chương là cái chi chi
Mà đầu lõm xuống bò quỳ…bốn chân.
Cho nên, lục bát Nguyễn Lâm Cẩn sống được và sống
khỏe, trước hết phải nhờ vào “tứ”. "Tứ" càng độc đáo, thơ càng có giá
trị tự thân. Huống hồ, ngoài "tứ" ra, ông còn có thể mạnh về sử dụng
ngôn từ vào tạo dựng hình ảnh.
“Rượu thi nhân” nói về rượu nhưng thật ra rượu
chỉ là cái cớ còn nội hàm của tập thơ chính là cái “thằng đời”. Nguyễn Lâm Cẩn
đã “hòa quang đồng trần” giữa rượu với đời qua những diễn ngôn đầy cảm khái có
lúc bi phẫn nhưng cũng có lúc bâng khuâng trước khung cảnh mùa xuân tự tay rót
chén “quỳnh tương” mời người đẹp…
Mời nhấp
chuột đọc thêm:
- Các bài viết của
(về) tác giả Đặng Văn Sinh0
- Các bài viết của
(về) tác giả Đỗ Hoàng0
- Các bài viết của
(về) tác giả Tạ Duy Anh0
- Các bài viết của
(về) tác giả Trần Đăng Khoa0
- Các bài viết của
(về) tác giả Trần Mạnh Hảo0
- Các bài viết của
(về) tác giả Nguyễn Hoàng Đức0
Mời nghe Đặng Xuân Xuyến đọc bài thơ QUÊ NGHÈO:
*
ĐẶNG VĂN SINH
Địa chỉ: Khu Dân cư 3, phường Bến Tằm,
thành
phố Chí Linh, Hải Dương.
........................................................................................
- Cập nhật từ email
tranchicuong27@yahoo.com,vn gửi ngày 12.05.2019.
- Ảnh dùng minh họa cho bài viết
được sưu tầm từ nguồn: internet.
- Bài viết không thể hiện quan
điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
0 comments:
Đăng nhận xét