![]() |
(Chùa Hà, Hà Nội ; Nguồn ảnh: interet) |
NHỮNG
NGÔI CHÙA
NỔI TIẾNG HÀ NỘI
*
![]() |
(Tác giả Nguyễn Toàn Thắng) |
Ngay giữa Hà Nội, xen kẽ giữa những phố phường tấp nập là hơn 100 ngôi chùa
lớn, nhỏ. Trải qua hàng trăm năm, những ngôi chùa vẫn giữ nguyên được dáng vẻ
nguyên sơ, cổ kính.
1/- Chùa Quán Sứ:
Chùa Quán Sứ nằm ở số 73 phố Quán Sứ, phường Trần Hưng Đạo, quận Hoàn Kiếm.
Trước đây, khu vực này thuộc thôn Yên Tập, huyện Thọ Xương, phủ Phụng Thiên.
Chùa thờ Phật và thờ vị quốc sư triều Lý là Nguyễn Minh Không.
Năm 1943, Tổng hội Phật giáo Bắc Kỳ đặt trụ sở tại chùa Quán Sứ. Năm 1942,
chùa được xây lại theo quy mô kiến trúc và trang trí nội thất như ngày nay.
Chùa có quy mô kiến trúc lớn, tam quan kiểu 3 tầng mái, chính giữa là lầu
chuông.
Qua tam quan đến một sân rộng lát gạch. Giữa sân xây tòa chính điện cao,
hình vuông, có hành lang bao quanh. Hai bên và đằng sau là dãy nhà dung làm thư
viện, giảng đường, nhà khách và tăng phòng. Chùa Quán Sứ hiện nay là trụ
sở của Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
2/- Chùa Láng (Chiêu Thiền Tự):
Chùa Láng được xây dựng từ thời vua Lý Thần Tông (1128-1138) để thờ
Từ Đạo Hạnh là một nhà tu hành đắc đạo, nổi tiếng thời Lý. Chùa lập ngay trên
nền nhà cũ của cha mẹ Từ Đạo Hạnh là Từ Vinh và Nguyễn Thị Loan, ở địa phận
làng Yên Lãng, tức là làng Láng vì thế gọi là chùa Láng.
Tục truyền khi nhà sư Từ Đạo Hạnh đã đắc đạo liền hóa kiếp ở chùa Sài Sơn
(tức chùa Thày), huyện Quốc Oai, đầu thai làm con trai Sùng Hiền hầu Dương
Hoán, em ruột vua Lý Nhân Tông. Lý Nhân Tông không có con trai, lập con của
Sùng Hiền hầu Dương Hoán làm Thái tử. Về sau, người con trai ấy làm vua
tức là Lý Thần Tông. Cũng vì sự tích ấy mà sau này chùa Láng cũng như chùa Thày
thờ Từ Đạo Hạnh đều có thờ Lý Thần Tông. Trong chùa có nhiều tượng phật, nhiều
đồ thờ cổ.
3/- Chùa Cầu Đông:
Chùa có tên là “Đông Hoa Môn tự” bắc qua sông Tô ở phía đông Hoàng thành
Thăng Long xưa. Hiện nay, chùa nằm tại số 38B, phố Hàng Đường, phường Hàng Đào,
trong khu vực phố cổ Hà Nội. Phố này dài 180m nhưng thuộc về đất đai của hai
làng cổ. Đoạn trên là đất làng Vĩnh Thái, đoạn dưới là đất làng Đông Hoa Môn.
Chùa Cầu Đông được xây dựng từ thời Lê (thế kỷ XVII). Năm Vĩnh Tộ thứ 6
(1624), chùa được sửa chữa và mở rộng. Các năm 1639, 1711, 1816 chùa lại được
trùng tu. Chùa hiện giữ được kiểu dáng kiến trúc cổ. Tam quan xây lầu cao làm
gác chuông. Chùa chính hình chữ đinh, các mảng chạm hổ phù, rồng vờn mây, hoa
lá mang phong cách nghệ thuật điêu khắc thế kỷ XVI.
4/- Chùa Ngũ Xã:
Chùa Ngũ Xã có tên là Thần Quang Tự, được xây dựng từ thế kỷ XVIII thời hậu
Lê (1428-1788). Xưa chùa thuộc thôn Ngũ Xã, là một bán đảo bên hồ Trúc Bạch, có
nghề đúc đồng nổi tiếng thuộc tổng Thuận Thành, huyện Vĩnh Thuận, thành Thăng
Long. Nay là số nhà 44 phố Ngũ Xã, phường Trúc Bạch, quận Ba Đình – Hà Nội.
Chùa Ngũ Xã ngoài việc thờ Phật còn thờ nhà sư Nguyễn Minh Không, tục
truyền là tổ nghề đúc đồng. Ở đây chỉ có một pho tượng Di Đà rất lớn, mới được
đúc năm 1952. Chùa được Bộ văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích lịch sử –
văn hóa ngày 11/5/1993
5/- Chùa Hòe Nhai:
Chùa Hoè Nhai tên chữ là Hồng Phúc tự, nay ở số 19 phố Hàng Than, phường
Nguyễn Trung Trực, quận Ba Đình, Hà Nội. Đây là ngôi chùa cổ, tương truyền có
từ đời nhà Lý, trải qua nhiều lần sửa chữa lớn vào các năm 1687, 1899 và 1952.
Chùa Hòe Nhai là “chốn tổ” của phái Tào Động
Năm 1962, Thành Hội Phật giáo Hà Nội đã dựng tại đây tháp Ấn Quang để kỷ
niệm Hòa thượng Thích Quảng Đức tu tại chùa ấn Quang Sài Gòn đã tự thiêu ngày
11-6-1963, để phản đối chế độ Ngô Đình Diệm ở miền Nam. Chùa được Bộ Văn hóa
công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa ngày 21/1/1989.
6/- Chùa Kim Liên:
Chùa được dựng trên dải đất của làng Nghi Tàm, bên bờ hồ Tây, nay thuộc
phường Nghi Tàm, quận Tây Hồ. Tương truyền nơi dựng chùa là nền cũ của cung Từ
Hoa có từ đời Lý. Nguyên công chúa Từ Hoa, con gái vua Lý Thần Tông
(1128-1138) đã đem cung nữ tới khu vực này trồng dâu, nuôi tằm, mở ra trại
Tàm Tang (tằm dâu). Trại này sau đổi tên là phường Nghi Tàm.
Chùa có từ thế kỷ XVII. Theo tấm bia hiện còn trong chùa soạn ra có nêu:
chùa vốn có tên là Đại Bi dựng vào năm 1631. Bảy năm sau, nhân dân góp công để
mở rộng thêm khu chùa. Đến năm 1771, chúa Trịnh cho dỡ chùa Bảo Lâm ở phía tây
kinh thành về tu bổ lại chùa này và đổi tên chùa là Kim Liên. Chùa Kim Liên là
một trong 10 di tích kiến trúc cổ đặc sắc nhất Việt Nam
7/- Chùa Liên Phái:
Ở giữa phố Bạch Mai nội thành Hà Nội có một cái ngõ tên là ngõ Chùa Liên
Phái. Đó chính là lối dẫn vào ngôi chùa Liên Phái cổ kính. Hai bên cổng là hai
hồ rộng, ngay ở cổng chùa có tháp Diệu Quang cao 10 tầng hình lục lăng. Tiếp
đến là nhà bia có tấm bia kể lại sự tích chùa.
Sau đó, Trịnh Thập biến phủ đệ của mình thành chùa Liên Tông, đồng thời
xuống tóc đi tu và trở thành vị tổ thứ nhất của chùa này. Ông mất năm 37 tuổi,
hài cốt được táng trong ngôi tháp xây ở giữa gò, nơi từng đào được ngó sen
đá-đó là tháp Cứu Sinh. Theo một tấm bia hiện còn ở chùa khắc năm 1857
thì chùa được xây vào năm 1726.
8/- Chùa Trấn Quốc:
Chùa Trấn Quốc là một trong những ngôi chùa cổ nhất Việt Nam, nằm cạnh Hồ
Tây, ở cuối đường Thanh Niên, quận Ba Đình, Hà Nội. Chùa Trấn Quốc là điểm đến
không thể bỏ qua khi đến Hà Nội
Theo Từ điển di tích văn hóa Việt Nam (Hà Nội, 1993), thì chùa Trấn Quốc
nguyên là chùa Khai Quốc, dựng từ thời Tiền Lý (Lý Nam Đế, 541-547), tại thôn Y
Hoa, gần bờ sông Hồng. Đến đời Lê Trung Hưng (1615), chùa được dời vào trong đê
Yên Phụ, dựng trên nền cũ cung Thúy Hoa (thời Lý) và điện Hàn Nguyên (thời
Trần). Trong các năm 1624, 1628 và 1639, chùa tiếp tục được trùng tu, mở rộng.
Trạng nguyên Nguyễn Xuân Chính đã soạn bài văn bia dựng ở chùa vào năm 1639 về
công việc tôn tạo này.
9/- Chùa Hà:
Nếu như những ngôi chùa khác tập trung nhiều tầng lớp trung niên, các cụ
ông cụ bà, đến để giải hạn, để lễ bái, thì chùa Hà được đông đảo học sinh, sinh
viên biết đến với một cái tên khác – Chùa Tình yêu. Là chùa cầu duyên của đất
Thăng long.
Chùa Hà có tên chữ là Thánh Đức tự, trước thuộc làng Dịch Vọng, huyện Từ
Liêm, nay thuộc quận Cầu Giấy – Hà Nội, được xây dựng từ thời vua Lê Thánh Tông
(1460-1497). Chùa Hà được lập nên để Tư Thành (tên tự của vua Lê Thánh Tông)
bày tỏ lòng nhớ ơn các đại thần : Nguyễn Trãi, Nguyễn Xí, Đinh Liệt… đã cưu
mang mình và phế bỏ thái tử Nghi Dân (anh trai Tư Thành – một kẻ phản vương,
phản quốc) để đưa mình lên ngôi vua vào năm 1460, lấy hiệu là Lê Thánh Tông.
Chùa đã được trùng tu quy mô lớn vào đời vua Lê Hy Tông, niên hiệu Chính Hòa
(1680-1705).
Mời thư giãn với nhạc phẩm TRÊN ĐỈNH PHÙ VÂN
của Phó Đức Phương, qua tiếng hát Mỹ Linh:
*.
NGUYỄN TOÀN THẮNG giới thiệu
Địa chỉ: thôn Tống Vũ, xã Vũ Chính,
thành phố Thái Bình
Email: nguyentoanthang77@gmail.com
..............................................................................................................
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 27.12.2019.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen
0 comments:
Đăng nhận xét