trong TỬ
VI: phần II
(Trích
từ TỬ VI KIẾN GIẢI của Đặng Xuân Xuyến ; Thanh Hóa ; 2009)
*
(Tác giả Đặng Xuân Xuyến) |
II: CÁC SAO HỘI HỌP VÀ Ý NGHĨA DÂM TÍNH CỦA CHÚNG
Ở phần trên, chúng tôi đã giới thiệu về các sao tình dục.
Để bạn đọc tiện theo dõi khi tra cứu, chúng tôi biên soạn phần giới thiệu những
bộ sao tiêu biểu, thể hiện dâm tính của con người.
Những bộ sao được liệt kê dưới đây ngoài ý nghĩa về tình
dục còn có nhiều ý nghĩa khác, chẳng hạn như hình dáng, tính cách, sự nghiệp,
tiền tài... nhưng trong khuôn khổ bài viết này, người viết chỉ giới thiệu đơn
thuần về ý nghĩa tình dục và những bộ sao đó chưa chịu sự khắc chế của các sao
khác.
Sự hội họp của các sao tình dục đương nhiên sẽ nói lên
tính trăng hoa, đàng điếm của đương số. Càng nhiều sao tình dục hội họp thì dâm
tính càng thể hiện mạnh. Nếu liệt kê những bộ sao đó vừa tốn thời gian, vừa
không cần thiết, vì thế, chúng tôi chỉ giới thiệu một số bộ sao tiêu biểu khi
sao tình dục đi cùng với sao khác, hoặc những bộ sao không hề xuất hiện bóng
dáng của sao tình dục nhưng vẫn thể hiện tính dâm của con người ở những trường
hợp đặc biệt.
1.
Tham, Vũ đồng cung gặp Phá Quân: Luỵ thân vì sa đọa, tửu sắc.
2.
Tham Lang, Tử - Vi đồng cung ở Mão, Dậu: Có nhiều uẩn khúc trong tình
trường, là người yếm thế, dễ tìm đến cửa thiền (Nếu gặp thêm Không Kiếp thì
càng chắc chắn nhưng sẽ là người đi tu phá giới. Tuy nhiên, nếu Tử Vi găp
Không, Kiếp, Đào, Hồng thì lại là người yểu vong)
3.
Tham, Kình (hoặc Đà) đồng cung ở Tỵ, Hợi: Giang hồ, lãng tử, hoang
đàng.
4.
Tham Lang, Thất Sát đồng cung: Trai trộm cướp, gái giang hồ.
5.
Tham Lang, Đại, Tiểu Hao: Ngoại tình không lộ liễu, biết giấu diếm
những mối tình thầm kín.... giúp đương số giảm tai tiếng về tính dâm ô.
6.
Thiên Riêu, Thiên Đồng: Là kẻ háo sắc, thay đào, đổi kép như cơm bữa, dù
đã có có vợ có chồng vẫn tham dâm, ngoại tình.
7.
Riêu, Tam Minh (Đào, Hồng, Hỉ): Là kẻ cực kỳ gian dối và đĩ bợm.
8.
Thiên Riêu, Vũ Khúc, Hóa Khoa: Vì học giỏi, có tài đoán trước sự việc nên
cực kỳ dâm đãng
9.
Đà La, Văn Xương: Tại hạn hoặc Mệnh là người lóng mạn, nhu cầu quan
hệ tỡnh dục rất cao.
10.
Kỵ ngộ Đào (Hồng): Mệnh có Hóa Kỵ đồng cung với Đào (Hồng) là người
đau khổ vì tình, đàn bà thất tiết, tuổi thọ bị chiết giảm.
11.
Thiên Lương, Thái Âm hãm hội chiếu: Nghèo hèn, tha phương lập nghiệp và dâm
đãng.
12.
Thái Âm, Thiên Cơ đồng cung ở Dần, Thân gặp Xương, Khúc (Riêu): Dâm đãng, sa đọa, hay làm thơ
văn dâm tình.
13.
Tử - Vi, Không, Kiếp, Đào, (Hồng) đồng cung: Đa tình và yểu Mệnh.
14.
Thái Âm hãm gặp sát tinh: Trai trộm cắp, gái giang hồ, đĩ điếm.
15.
Thái Âm, Thiên Đồng cùng cư tại Tý, gặp Tang, Hổ, Khốc, Riêu: Rất ứng hợp với nữ số, đẹp
người nhưng bạc mệnh, đa truân, suốt đời phải khóc chồng vì góa bụa liên tiếp.
16.
Vũ, Sát, Phá, Liêm ở Mão: Cô đơn, bần hàn.
17.
Cự Môn hãm gặp Kình, Đà: Là kẻ trộm cắp, lăng loàn, đĩ điếm.
18.
Phá, Tham, Lộc, Mã: Giàu có về tiền bạc nhưng lại là người cực kỳ dâm
đãng.
19. Phá, Phục, Hình, Riêu, Tướng Quân (hoặc Thiên Tướng): Vợ chồng vì ghen tuông mà dẫn
đến cảnh giết chết nhau.
20.
Phá, Cái, Đào đồng cung: Dâm dục và lăng loàn, sát chồng (ứng nghiệm với nữ
số).
21.
Thái Dương hãm địa gặp sát tinh: Trai thì trộm cắp, gái thì đa tình, đĩ điếm.
22.
Thất Sát ở Tý, Ngọ gặp Kiếp, Riêu: Nam số thì ghét đàn bà, thích sống độc
thân, kiểu người đồng tính luyến ái, còn nữ số thì đa tình, đa mang.
23.
Cơ, Lương ở Thìn, Tuất gặp Tuần, Triệt hay sát tinh: Gian truân, trắc trở, có số
đi tu.
24.
Thiên Đồng, Thái Âm đồng cung tại Tý, gặp Hổ, Khốc, Riêu: Nữ số đẹp người nhưng bạc
mệnh, có số khóc chồng.
25.
Thiên Đồng, Thiên Lương ở Tỵ, Hợi: Đàn ông phóng đãng, đàn bà dâm dật.
26.
Thiên Lương, Thiên Mã đồng cung tại Tỵ, Hợi: Đàn ông hư hỏng, đàn bà đĩ
thõa và dâm tiện.
27.
Cô (Quả), Đào, Mã: Nhiều nhân tình nhưng các mối tình đó đều sớm nở
tối tàn. Đặc biệt nữ số có bộ sao này có thể là gái giang hồ.
28.
Cô (Quả), Kỵ, Tuế: Bị bỏ rơi, thất sủng. Đặc biệt nữ số có bộ sao này
có thể là gái giang hồ.
29.
Đào, Hồng, Đại, Tiểu Hao: Vì tình mà phải tốn kém tiền bạc.
30.
Đào (Hồng) cùng sát tinh (nhất là hãm địa): Tình trường nghiệp chướng, gặp
nhiều oan trái.
31.
Đào, Tràng Sinh (Đế Vượng) đồng cung: Nhiều nhân tình, và những mối tình đó đều
đắc thời.
32.
Đào, Thiên Mã: Thay đào đổi kép, có mới nới cũ, ưa chuyện dâm bôn.
33.
Đào, Thiên Không: Có tài lừa phỉnh, lôi cuốn người khác làm trò đĩ
điếm, dâm tiện.
34.
Tướng, Phá, Binh, Đào, Hồng: Dâm dục quá mức, loạn luân, loạn dâm.
35.
Cự, Kỵ hoặc Cự, Đào (Hồng) hay Cự Tham đồng cung: Dễ bị thủy tai, hay bị bắt bớ
giam cầm. Riêng phụ nữ thì hôn nhân trắc trở, bất chính, đau buồn về gia đạo.
36.
Phục, Tướng, Đào, Thai: Dụ dỗ người khác làm chuyện dâm bôn. Riêng phái nữ
thì thêm bị lừa, thất trinh, thất tiết.
37.
Phục, Tướng, Thai, Riêu: Gạ gẫm, bắt cóc phụ nữ làm chuyện dâm bôn. Có thể
là tú ông, tú bà.
38.
Thai, Phục, Vượng, Tướng: Tiền dâm hậu thú, lang chạ, có con trước khi
xây dựng gia đình.
39.
Thai, Không, Kiếp: Bị hiếp dâm, có hoang thai hoặc hư thai, phá thai.
40.
Tuế, Đào, Hồng: Bị phụ tình, thất tình và cô độc trong tình yêu.
41. Thiên Không, Hồng
Loan: Thích ẩn dật, tu hành, không thích tình yêu người trần tục.
42.
Tướng, Đào, Hồng: Đàn bà tơ duyên rắc rối, ngoại dâm, thất tiết. Đàn
ông thì hoang dâm vô độ.
43.
Xương, Khúc hãm địa: Mệnh có Xương, Khúc hãm địa hội nhiều sát tinh,
nhất là Hóa Kỵ nên cùng khổ, cô đơn, nếu không tàn tật tất sẽ yểu tử. Riêng nữ
số là người ti tiện, hoặc gái giang hồ nhưng thường chết non.
III. SAO KHẮC CHẾ DÂM TÍNH CỦA SAO TÌNH DỤC
Các sao tình dục khi hội tụ với nhau, không gặp các sao
khác khắc chế thì dâm tính của đương số thể hiện mạnh mẽ và bạo liệt. Tuy
nhiên, khi các sao tình dục gặp các sao khắc chế dưới đây, tùy theo sự hội tụ
của các sao khắc chế mà sẽ quân bình hoặc làm giảm đi nết dâm của đương số.
Cũng cần lưu ý bạn đọc: Khi các sao tình dục bị những sao
khác khắc chế, thì không có nghĩa là tính dâm đã bị tuyệt diệt, mà chỉ có ý
nghĩa tình dục đã được khắc chế ấy nằm trong giới hạn đạo đức tối thiểu của xã
hội.
&- Tử
Vi (sáng sủa):
Tử - Vi là sao dương, hành Thổ, tượng trưng cho uy quyền,
may mắn và cứu giải.
Trên phương diện tình cảm, đặc tính nổi bật nhất của sao
Tử - Vi là đoan chính, ngay thẳng và trung trinh khi ở đắc địa. Đây chính là ưu
điểm của Tử - Vi trong việc quân bình được các sao tình dục, kìm chế đáng kể
mức độ sa ngã của đương số. Tuy nhiên, sự khắc chế đó chỉ có hiệu lực khi Tử -
Vi không bị hung sát tinh xâm phạm.
Công lực khắc chế dâm tính của Tử - Vi càng mạnh hơn khi
đi cùng các sao, tạo thành cách: Tử, Phủ hoặc Tử, Phủ, Vũ, Tướng. Nhưng
khi Tử - Vi ở Tứ Mộ (Thìn, Tuất, Sửu, Mùi) hoặc đi cùng Tham Lang, hung sát
tinh... thì hiệu lực khắc chế dâm tính của Tử - Vi bị mất hẳn.
&- Thái
Dương (sáng sủa):
Thái Dưong là sao dương, hành Hỏa, tượng trưng cho sự
mạnh mẽ, cứng rắn, danh vọng, tài lộc, thông minh và trung thực. Đức tính nổi
bật của Thái Dương khi đắc địa là thông minh và đoan chính. Nhờ đặc tính trên
mà dâm tính của các sao tình dục bị Thái Dương chiết giảm khá mạnh. Tuy nhiên,
Thái Dương không thể khắc chế được dâm tính của các sao tình dục khi Thái Dương
ở hãm địa. Nhất là khi Thái Dương, Thái Âm đồng cung gặp hung sát tinh hội họp
thì đương số không nhận được sự cứu giải của Thái Dương mà ngược lại sẽ trở
thành kẻ trộm cướp, bôn ba, dâm đãng.
&-
Thiên Phủ (sáng sủa):
Thiên Phủ là sao Âm, thuộc hành Thổ, tượng trưng cho
quyền lực, uy tín, thiện tâm và tài lộc. So với Tử - Vi thì Thiên Phủ thêm tính
cách bao dung, phát lộc và sự bình an. Với các đặc tính đó, Thiên Phủ làm cho
con người nhiều may mắn trong cuộc đời, dù ở lĩnh vực công danh, kinh tế hay
tình cảm. Đặc biệt khi Thiên Phủ xa lánh Tuần -Triệt, Không - Kiếp thì Thiên
Phủ là người rất đoan chính, tiết hạnh. Đặc tính nổi bật này đã giúp Thiên Phủ
có hiệu lực rất lớn trong việc khắc chế, kìm hãm dâm tính của các sao tình dục.
Khi Thiên Phủ đi cùng các sao khác, tạo ra cách: Tử, Phủ
- Tử, Phủ, Vũ, Tướng hay cách Phủ, Tướng thì dâm tính của các sao tình dục hầu
như bị tiết giảm rất nhiều.
Hiệu lực cứu giải về dâm tính của Thiên Phủ, Tử Vi, Thái
Dương khi đắc địa có công lực gần như nhau nhưng xét về công lực giải trừ bệnh
tật và tai họa nói chung thì trong 3 sao trên, Thiên Phủ là sao hữu hiệu hơn
cả.
&-
Thiên Hình:
Thiên Hình thuộc Hỏa, tượng trưng cho dao kéo, nóng nảy,
sát phạt, trực tính và tù tội. Trên phương diện tình cảm, Thiên Hình đại diện
cho đời sống tình cảm của người bộc trực, đoan chính và không lãng mạn.
Là sao thuộc võ cách nên Thiên Hình không chấp nhận lối
sống tình cảm của người ủy mị, lãng mạn. Hơn nữa, trong nết tình của Thiên
Hình, nổi bật nhất là sự chính chuyên, mực thước, có sức đề kháng các loại cám
dỗ của ái tình bằng nghị lực và ý chí. Đây chính là lợi thế để Thiên Hình có
đời sống tình cảm không sa đọa, hư hỏng, kìm hãm, khắc chế tính lả lơi, đĩ bợm
của các sao tình dục.
Khi Thiên Hình đắc địa thủ mệnh sẽ là người đoan chính,
còn khi hãm địa thì Thiên Hình trở thành sát phạt, cô đơn và thất bại trong
tình trường nên Thiên Hình có giá trị khắc chế dâm tính của các sao tình dục
khá mạnh, không kém sự kìm hãm dâm tính của các sao Tử, Phủ, Nhật đắc địa.
Có quan điểm cho rằng: Nếu Thiên Hình đắc địa mà gặp Đào,
Riêu thì dù có là nữ Mệnh vẫn là người đoan trang, hiền thục. Nhưng có quan
điểm lại cho rằng nếu đàn bà có Thiên Hình đắc địa thủ Mệnh mà gặp Riêu đồng
cung sẽ là người: Chẳng hại chồng thì cũng phản phu. (Phú Lê Quí Đôn).
&- Ân
Quang - Thiên Quý:
Ân Quang thuộc Thổ còn Thiên Quý thuộc Mộc, hai sao tượng
trưng cho tính nhân hậu, từ thiện, thành tín, hiếu đễ và chung thủy. Trong đời
sống tình cảm, nhất là cuộc sống lứa đôi, hai sao này thể hiện đức tính thủy
chung, son sắt, tín nghĩa, trung thành, không ăn ở hai lòng, không có mới nới
cũ, không phụ bạc đổi thay nên khi đi cùng các sao tình dục, đặc tính nổi trội
này sẽ khắc chế được ý nghĩa trăng hoa, đàng điếm của các sao tình dục.
Nếu Quang, Quý đồng cung cùng các sao đoan chính kể trên
thì hiệu lực khắc chế, kìm hãm dâm tính càng thêm mạnh mẽ, giảm thiểu khá nhiều
tính ong bướm, lả lơi của đương số, tuy nhiên, sự ảnh hưởng của Quang, Quý còn
phụ thuộc vào các yếu tố khác, không chỉ đơn thuần vào sự hội tụ của các sao
khác nên khi luận giải cần thật cẩn trọng.
&- Lộc
Tồn:
Lộc Tồn thuộc hành Thổ, tượng trưng cho tiền bạc, cô đơn
(cô độc trong tình cảm, nội tâm) và chậm trễ. Tùy theo cung tọa thủ mà Lộc Tồn
sẽ đem lại may mắn hay gây cản trở cho đương số.
Nhận xét về sự khắc chế của Lộc Tồn với các sao dâm tính,
và đời sống tình dục của người có Lộc Tồn thủ Mệnh (Thân), tác giả Nguyễn Phát
Lộc viết: "Đi với Lộc Tồn, các dâm tinh khó chi phối, chậm ảnh hưởng.
Nhưng, Lộc Tồn không hoàn toàn có nghĩa đoan chính: sao này chỉ là cái thắng
tạm thời trước ái tình, chớ không bế tỏa nết tình. Nó tượng trưng cho sự dè dặt
trong ái tình, sự kén chọn ái tình, từ đó có nghĩa chừng mực và tự chế. Sự
chừng mực, sự dè dặt và sự tự chế đó thường bắt nguồn từ sự khó tính của Lộc
Tồn. Lộc Tồn là người kén yêu, khó khăn trong ái tình, chỉ yêu những đối tượng
chọn lọc và có nhiều tính toán trong tình ái, không bừa bãi như Tham Lang, Đào
Hoa, Thiên Riêu. Người có sao Lộc Tồn ít yêu bằng quả tim và thể xác mà thường
yêu bằng bộ óc và lý trí. Những mối tình không đúng tiêu chuẩn thì Lộc Tồn tự
chế và dè dặt."
Quan điểm của ông Nguyễn Phát Lộc về ý nghĩa tình dục của
sao Lộc Tồn được nhiều tác giả khác đồng thuận. Đấy cũng chính là đặc tính cơ
bản của sao Lộc Tồn trước tình yêu, tình dục của đời người.
&- Hoá
Kỵ:
Hóa Kỵ (Kỵ) là sao Thủy, chủ về sự đố kỵ, hay gây phiền
nhiễu, ích kỷ, ghen tuông và vạ miệng, nông nổi, ưa thay đổi, nhưng lại có tài
giữ được đất đai, nhà cửa.
Với đặc tính cơ bản là xấu, trừ khi Kỵ gặp các bộ sao tốt
nên bản chất của Kỵ là thường gây cản trở, phiền nhiễu cho cuộc sống con người,
nhất là trong lĩnh vực tình cảm. Chẳng hạn, khi nữ số có Kỵ gặp Thái Âm sẽ là
người máu huyết xấu, không tốt cho việc thụ thai, sinh nở. Còn với nam số, nếu
Kỵ đi cùng Riêu sẽ là người dương hư, thận suy. Khi đồng cung với Liêm, Tham
thì dâm tính, cũng như những cái xấu do 2 sao này đem lại sẽ bị Hóa Kỵ khắc
chế, hóa giải khá mạnh.
Đây là sao không mấy lợi cho đời sống tình cảm của con
người.
&- Tứ
Đức:
Tứ Đức gồm 4 sao: Long Đức thuộc hành Thủy, Nguyệt Đức
thuộc hành Hỏa, Phúc Đức thuộc hành Thổ và Thiên Đức thuộc hành Hỏa. Đây là bộ
sao tượng trưng cho đức hạnh, lòng từ thiện, tính nhân hậu, thiện tâm của con
người. Chính vì đặc tính đoan chính, đạo đức của Tứ Đức mà nết sa đọa của con
người bị kìm hãm.
Vì là những sao cứu giải nhỏ nên chỉ khi đủ bốn sao hội
tụ thì hiệu lực cứu giải mới đủ mạnh để kìm chế dâm tính của các sao tình dục,
tuy nhiên, sức cứu giải của bốn sao này vẫn không đủ mạnh để khắc chế các sao
tình dục hạng nặng như Tham Lang, Thiên Riêu, Đào Hoa... mà chỉ có hiệu lực với
các sao tình dục tầm thường.
&- Tuần
- Triệt:
Triệt, Tuần là hai sao quan trọng, chi phối các cung, các
sao, biến tốt thành tương đối xấu, xấu thành bớt xấu. Đây là 2 sao đặc biệt
nhất trong hàng sao can. Tuy nhiên, chưa có sự thống nhất Triệt, Tuần thuộc
hành gì nên còn gây nhiều tranh cãi và nghi vấn khi luận giải lá số.
Chúng ta đều biết: Tuần, Triệt đóng ở đâu thì ở đó có cảm
tưởng tuyệt vọng, vì Triệt đồng nghĩa với tiêu tan, xóa bỏ tất cả, Tuần đồng
nghĩa với giam hãm, trói buộc không tha. Do vậy, khi các sao tình dục đi với
Triệt, Tuần sẽ thiếu cơ hội để bộc phát dâm tính, con người như sống trong một
môi trường bị ngăn trở, ngang trái, giam hãm, o bế tình cảm. Trường hợp này,
các sao tình dục hầu như khó phát huy được dâm tính.
Lý thuyết thì là vậy, nhưng thực tế, đôi khi Tuần, Triệt
chỉ hạn chế dâm tính ở một chừng mực, một giai đoạn chứ không hẳn là vậy, vì
còn phụ thuộc vào sự hội tụ ít hay nhiều và mức độ nặng nhẹ của các sao tình
dục, cũng như các cung mà Tuần, Triệt án ngữ hoặc những trường hợp ngoại biệt
mà đương số được hưởng.
Cũng chưa thấy sách nào nói khi các dâm tinh gặp Tuần,
Triệt thì đương số liệu có trở thành người đoan chính hay diệt dục? Hoặc trong
trường hợp Tuần, Triệt đồng cung thì dâm tính sẽ bị tuyệt diệt hay có cơ hội để
phát triển mạnh hơn? Đây chính là một nghi vấn rất lớn, gây ngộ nhận khác nhau
vì thiếu lý thuyết căn bản để làm căn cứ. Tốt nhất, việc nghiên cứu cụ thể lá
số là điều tối quan trọng khi đưa ra lời luận giải.
Lời kết:
Sự hội tụ của các sao tình dục tại Mệnh, Thân nói lên xu
hướng dâm tính của đương số, càng tụ tập nhiều sao tình dục, nhất là sao tình
dục hạng nặng thì đời sống sinh lý càng trở nên dâm loạn. Tuy nhiên, khi đi
cùng các sao khắc chế tình dục thì tính dâm của đương số sẽ được quân bình hoặc
giảm đi đáng kể.
Hoàn cảnh sống, môi trường sống và quan niệm về ái, ố,
hỉ, nộ của xã hội .... cũng cần phải được lưu ý, cân nhắc để đưa ra lời luận
giải. Không thể chỉ căn cứ vào biểu hiện trên của lá số mà vội đưa ra lời kết
luận, vì như thế là cứng nhắc, không linh hoạt, dễ đưa ra lời luận giải không
chính xác.
Chẳng hạn, có 2 lá số trùng ngày, giờ, năm tháng sinh và
cùng đều là nam số, với sự hội tụ đông đảo của các sao tình dục ở Mệnh, nhưng
khi luận giải không thể khẳng định cường độ dâm tính của 2 người đó như nhau.
Ví dụ, 2 người đó, một người sống ở thành phố, một người sống ở nông thôn thì
đương nhiên người sống ở thành phố sẽ có cơ hội để dâm tính phát triển hơn
người sống ở nông thôn; người giàu có, nổi tiếng có điều kiện để tính trăng hoa
đĩ bợm “phát tiết” hơn người nghèo khó, vô danh. Hay người trẻ tuổi dục tính dễ
bộc phát và bạo liệt hơn người tuổi già.... Vì thế, trước khi đưa ra lời luận
giải, người coi số cần cẩn thận suy xét nhiều yếu tố thì lời luận giải mới có
giá trị.
Mời
nhấp chuột đọc phần 1:
Mời thư giãn với nhạc
phẩm TÌNH NHẠT PHAI
của Tùng Giang, qua tiếng hát Don Ho:
0 comments:
Đăng nhận xét