CHỮA BỆNH BẰNG CÂY LÁ
QUANH NHÀ
Nhiều
tác giả ; Công ty Văn hóa Bảo Thắng liên kết xuất bản
*
LỜI GIỚI THIỆU
Trong
thế giới thực vật phong phú quanh cuộc sống con người có rất nhiều loại cây có
những khả năng chữa bệnh rất kỳ diệu. Từ lâu, việc sử dụng những cây lá
"quanh nhà" để chữa bệnh đã được các thầy thuốc dân gian quan tâm chú
ý. Danh y Tuệ Tĩnh, Hải Thượng Lãn Ông, Lê Hữu Trác cũng như nhiều thầy thuốc
khác đã để lại những bài thuốc hay lấy cây lá quanh nhà làm vị thuốc chủ đạo.
Những thành tựu, những kinh nghiệm đúc kết được từ hàng trăm năm trước đã trở
thành vốn quý cho nền y học hiện đại ngày nay.
Trong
nền y học hiện đại, bên cạnh những vị thầy thuốc Tây, bên cạnh những bộ đồ phẫu
thuật... thì vẫn không thể thiếu được những bài thuốc Nam độc đáo. Có khi những
bài thuốc Nam dân dã đó lại có thể chữa lành bệnh mà Tây y phải bó tay... Qua
quá trình điều trị cho bệnh nhân bằng phương pháp cổ truyền, chúng tôi, những
lương y - bác sỹ ở Viện y học cổ truyền dân tộc đã thấy được giá trị lớn lao
của những bài thuốc dân gian. Với mong muốn giúp cho mọi người có thể tận dụng
những cây lá quen thuộc để chữa bệnh cho mình, chúng tôi đã tiến hành biên soạn
cuốn sách "Chữa bệnh bằng cây lá quanh nhà".
Trong
cuốn sách này chúng tôi trình bày tác dụng và những bài thuốc hay từ những loại
cây thông thường như: bạc hà, tre, gừng, nghệ, chanh...
Trong
quá trình biên soạn chúng tôi đã cố gắng tập hợp và sưu tầm nhiều bài thuốc hay
lưu truyền trong dân gian cũng như ghi lại những đơn thuốc mà chúng tôi đã kiểm
nghiệm trong thực tế. Hy vọng rằng đây sẽ là cuốn sách bổ sung vào tủ thuốc gia
đình của tất cả mọi nhà.
CÂY HÀNH
-
Từ xưa đến nay, hành là một loại rau khá phổ biến được dùng làm gia vị nhiều
nhất trong các món ăn.
-
Có tác dụng: Phòng bệnh, giải độc các thức ăn, kích thích tiêu hoá, điều hoà hô
hấp, bài tiết.
Hành
có vị cay ngọt, tính ấm có tác dụng: Làm tan lạnh, thông khí tuệ, giải cảm, sát
trùng.
Thường
dùng hành tươi: Củ và lá, liều lượng không hạn chế.
-
Chữa cảm cúm, cảm sốt, nóng rét, nhức đầu, nghẹt mũi, ho tức ngực, đầy bụng
dùng: Dùng hành củ giã nhỏ lấy 10 - 20g trộn vào cháo ăn nóng cho ra mồ hôi
bệnh sẽ hết.
-
Nghẹt mũi, thở không thông: Sắc hành uống.
-
Trúng gió, bị ngất xỉu: Giã hành hoa hoà với nước tiểu trẻ em 3 tuổi uống.
-
Bị trướng, nước ứ, phù thũng: Sắc hành với mộc thông uống.
-
Bí đái, bí ỉa: Sắc hành 60g uống.
-
Kiết lỵ, động thai ra máu: Ăn cháo nếp nấu với hành hoặc nấu hành trộn với cháo
ăn.
-
Thổ tả nguy cấp: Giã hành hoa với rượu uống và dùng hành hoa sao chườm lên rốn.
-
Sưng vú: Giã hành sao nóng đắp chườm.
-
Sâu, kiến bò vào tai: Giã hành vắt lấy nước nhỏ vào tai (nam dược thần hiệu).
-
Giun chui ống mật, giun đũa làm tắc ống ruột: Dùng hành 80g giã nhỏ lấy nước
trộn với 40ml dầu vừng hoặc dầu lạc cho uống.
*
Lưu ý: Khi dùng hành không nên ăn với
đường, thịt chó sẽ sinh bệnh.
CÂY TỎI
Tỏi
được trồng lấy củ, tỏi là thứ gia vị rất cần thiết trong mọi gia đình .
-
Tỏi có vị cay, hôi, tính ấm, có tác dụng: Giải độc, hạ khí, tiêu đờm, trừ giun,
lưu thông khí huyết, dùng 12 - 20g.
-
Chữa sốt truyền nhiễm, cám cúm, nhức đầu, gai rét dùng: Tỏi giã vắt lấy nước
cốt 10ml uống. Ngoài ra còn dùng tỏi giã nhỏ bọc bông nút mũi để chống lây.
-
Chữa hoắc loạn (dịch tả) dùng: Tỏi 100g sắc với 300ml nước lấy 1/3 cho uống
(Nam dược thần hiệu).
-
Chữa đơn sưng, mụn nở: Giã tỏi trộn với ít dầu vừng mà đắp, bôi.
-
Chữa đầy bụng, đại tiểu tiện không thông: Giã tỏi rịt vào rốn (cách ly bằng lá
nốt hay lá trầu hơ héo), đồng thời lấy tỏi giã giập bọc bông lại nhét vào hậu
môn (Nam dược thần hiệu).
-
Chữa lỵ trực trùng hay lỵ a-mip dùng: Tỏi 10g giã nhỏ, ngâm vào 100ml nước
nguội, trong 2 giờ lọc bỏ bã, lấy nước thụt vào hậu môn, giữ lại độ 15 phút.
Thụt mỗi ngày 1 lần, đồng thời ăn mỗi ngày 6g tỏi sống (chia làm 3 lần). Điều
trị 5 - 7 ngày thì kết quả.
-
Chữa trùng roi, âm đạo lở ngứa: Dùng tỏi 100g giã nhỏ, ngâm vào trong 2 lít
nước mà rửa và thụt vào âm đạo.
-
Trị giun kim, giun móc: Thường xuyên ăn tỏi sống và dùng nước tỏi 5% thụt vào
hậu môn.
TỎI LÀO
Tỏi
lào vị cay đắng, mùi hơi hắc, tính bình, có tác dụng kháng khuẩn và tiêu viêm
mỗi lần dùng 3 - 6g.
-
Chữa mụn nhọ sưng tấy: Tỏi lào 4g, Bông trang, Đơn tướng quân, Bồ công anh, Sài
đất mỗi vị 16g sắc uống hàng ngày đến khi khỏi bệnh.
-
Rượu bổ huyết trị tê thấp: Sâm đại hành, Bồ cốt toái, Đương quy, Bạch chỉ, Cẩu
tích, Độc hoại mỗi vị 50g, ngâm với 2 lít rượu, uống dần.
-
Chữa viêm họng, viêm phổi, sưng amiđan, dùng Tỏi lào 3g, vỏ Rễ dâu, Cỏ nhọ nồi,
Sài đất, Bách bộ, Mạch môn mỗi vị 12g sắc uống.
*
Lưu ý: Tỏi lào có tính hành khí, phát
tán, tiêu sưng, dễ gây dị ứng, với người máu nóng lở ngứa cấm dùng.
NẤM MÈO (Mọc nhĩ)
Có
vị ngọt, tính bình, không có độc.
Có
tác dụng: Mát huyết, cầm máu, đi lỵ ra máy, trĩ, bổ ngũ tạng, hành khí, đẩy khí
độc ra ngoài cơ thể.
-
Chữa lỵ ra máu: Dùng 20g nấm mèo sao tán bột uống làm 3 lần/ngày.
-
Chữa bệnh trĩ lâu ngày: Nấm mèo ăn thường xuyên sẽ khỏi.
-
Chữa đau răng: Dùng nấm mèo và canh giới, lượng bằng nhau sắc lấy nước ngậm và
súc miệng.
-
Chữa tự nhiên đau vùng tim: Dùng nấm mèo đốt tồn tính, ngày uống 3 lần, mỗi lần
8g.
-
Trị ỉa chảy lâu ngày không khỏi: Dùng 5g nấm mèo khô, cao sừng hươu 5g, cả hai
tán bột trộn đều, uống với rượu ấm ngày hai lần, mỗi lần 10g.
-
Trị tự nhiên nước mắt chảy liên tục: Dùng nấm mèo 50g đốt tồn tính, mộc tặc 50g
sao khô, nghiền thành bột, trộn đều. Ngày dùng 6g hoà nước vo gạo đun lên uống.
-
Chữa sau đẻ đau bụng ra máu: Dùng 20g nấm mèo sao lên tán nhỏ uống với rượu.
*
Lưu ý: Người thể hư lâu không nên
dùng.
CÂY TRÂM MÈO (Thanh đại)
Cây
trâm mèo có vị đắng nhạt, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, mát huyết, tiêu
viêm, giải độc, tán uất, cầm máu.
Theo
kinh nghiệm dân gian, lá trâm mèo được dùng trong các trường hợp sau:
-
Chữa chàm má, chốc đầu: Dùng lá trâm mèo phơi khô, đốt thành than, tán mịn,
trộn với dầu lạc. Bôi nhiều lần trong 1 ngày.
-
Chữa cầm máu: Dùng lá trâm mèo tươi rửa sạch, giã nát với gừng sống, đắp lên
vết thương đang hảy máu.
-
Chữa ho ra máu: Dùng lá trâm mèo 50g, lá trầu không 30g, rau răm 20g. Tất cả
dùng tươi, rửa sạch, giã nát cho thêm ít nước vắt lấy nước uống.
-
Chữa gãy xương: Dùng lá trâm mèo, lá dâu tằm, lá địa liền, ngọn cây mía mỗi vị
50g. Dùng tươi, giã nata, gói vào vỉa xô, hơ nóng đắp bó.
-
Gây sẩy thai, hạn chế sinh đẻ: Dùng lá trâm mèo 200g, rửa sạch, lá ké hoa đào
20g, nụ áo hoa tím 20g, dây tơ hồng 10g. Tất cả thái nhỏ, phơi khô, sao vàng,
sắc với 400ml nước còn 100ml uống 2 lần trong ngày.
*
Lưu ý: Phụ nữ có thai không được dùng.
CHÀM
Cây
chàm được một số nơi trồng nhiều.
Chàm
có vị đắng, ngọt, tính lạnh, có tác dung thanh nhiệt, giải độc, mát máu, tiêu
ban mẩn ngứa, cầm máu (Tuệ Tĩnh).
-
Chữa uống thuốc quá liều lượng mà ngộ độc, gây buồn nôn nguy cấp: Dùng lá chàm
giã nhỏ, chế nước nguội, vắt lấy nước uống vài bát (kinh nghiệm).
-
Chữa chảy máu mũi: Dùng bột chàm, bồ hòn, sao tán bằng nhau, uống mỗi lần 4g.
CÂY CỨT LỢN (Bông ổi)
Cây
cứt lợn thường mọc hoang rất nhiều.
Rễ
cây Bông ổi (cứt lợn) có vị ngọt đắng, tính lạnh, có tác dụng hạ nhiệt. Lá cây
tính mát có tác dụng tiêu sưng, chữa ngứa gãi. Hoa có vị ngọt nhạt tính mát có
tác dụng cầm máu.
-
Chữa cảm sốt, bệnh ôn nhiệt hè thu sốt cao, sưng quai bị, dùng 30g - 60g sắc
uống.
-
Chữa đái tháo đường, sắc cây khô (cả hoa, cành, lá) 40g uống thay nước hàng
ngày hoặc ăn bột củ mài hay củ súng hay bột củ dưa trời (thiên hoa phấn) mỗi
ngày 10g.
-
Chữa phổi kết hạch, ho ra máu, dùng hoa bông ổi 15 - 20g sắc uống.
-
Chữa lở loét, bệnh Herpes hay vết thương, dùng lá hoa tươi giã nát đắp.
-
Chữa viêm da mẩn ngứa, dùng cành lá tươi, nấu nước, ngâm rửa rất công hiệu.
-
Chữa viêm xoang dị ứng, viêm tai, dùng lá hoa tươi, giã vắt lấy nước, tẩm bông
bôi vào mũi vào tai bên bị đau.
-
Chữa phụ nữ rong kinh sau khi đẻ: Dùng 30 - 40g lá hoa tươi giã nhỏ, chế thêm
nước vắt lấy nước uống (kinh nghiệm dân gian).
Ngoài
ra dùng cả cây tươi nấu với nước bồ kết gội đầu sạch gầu.
CÂY XẤU HỔ
Cây
xấu hổ hay mọc hoang ở vườn nhà, bờ ruộng... khi ta chạm tay vào lá của chúng
thì chúng cụm lại.
Cây
xấu hổ có vị ngọt chát, tính mát có tác dụng: trấn tĩnh, an thần. Nó được dùng
trong nhân dân chữa suy nhược thần kinh, mất ngủ, hay hồi hộp, trong lòng dạ
không yên.
-
Chữa phong thấp nhức xương: Dùng rễ cây xấu hố sao vàng. Bưởi bung sao vàng,
dây đau xương, kê huyết đằng mỗi vị 20g sắc uống hoặc ngâm rượu uống.
-
Chữa thần kinh suy nhược, nhức đầu, ù tai, khó ngủ: lá cây xấu hố, dây lạc
tiên, củ tóc tiên (mạch môn), hột muồng ngủ (quyết minh0 sao, hoài sơn mỗi vị
20g sắc uống.
CÂY MÍA
Cây
mía được trồng nhiều ở các nơi, được dùng chế biến làm đường cát và ép lấy nước
dùng làm giải khát.
-
Mía vị ngọt, ngon, tính mát, có tác dụng giải khát, khỏi phiền nhiệt bốc nóng,
mát phổi tiêu đờm, điều hoà tỳ vị, khỏi nôn oẹ, mửa khan, xốn xáo trong bụng.
-
Chữa nôn oẹ: ép nước mía pha thêm ít nước gừng uống khỏi.
-
Chữa sốt, khát nước, tiểu tiện nhỏ: ép nước mía uống thì giải nhiệt.
CÂY VỐI
Cây
vối thường được nhân dân ta trồng lấy lá nấu lên dùng nước uống hàng ngày.
Cây
vối có vị đắng thơm, tính ấm, có tác dụng hạ khí, tiêu đờm, chữa trướng đầy
hơi, nôn mửa, dùng 8 - 12g.
-
Chữa đờm thấp khí trệ hoặc cảm, bụng đầy không tiêu, nôn mửa, thân thể nặng nề:
Dùng hậu phác, trần bì, thương truật mỗi vị đều 16g, cam thảo 8g tán bột uống,
mỗi ngày 20 - 30g hoặc thêm gừng sống 3 lát sắc uống.
-
Ngoài ra: dùng vỏ cây vối và lá nấu nước tắm chữa ghẻ lở, hắc lào.
ĐINH LĂNG
Cây
đinh lăng được nhiều gia đình trồng làm cảnh và lá dùng để ăn sống kèm với các
món ăn.
Trong
y học cổ truyền, Lãn Ông đã dùng rễ đinh lăng cả cành lá sao vàng sắc cho phụ
nữ sau khi đẻ uống thay chè để chống bệnh đau dạ con (Bách gia trân tàng).
Theo
kinh nghiệm ngày nay dùng rễ đinh lăng sắc 40 - 50g uống nóng trong 2 - 3 ngày,
chữa tắc tia sữa, căng vú sữa, với kết quả hết đau nhức, sữa chảy thông thường.
Hiện
nay, rễ củ đinh lăng được coi như một vị thuốc tăng sức dẻo dai theo một số
công trình nghiên cứu đã phổ biến và được dùng ngâm rượu uống cho tăng sức
khoẻ.
-
Rễ củ đinh lăng vị ngọt nhạt, hơi đắng, tính mát hay bình, có tác dụng bổ mát,
thông huyết mạch, tiêu sưng viêm, giảm đau.
Lá
đinh lăng vị bùi, đắng, thơm, hơi mát, có tác dụng giải độc thức ăn, chống
tanh, hôi, tiêu mẩn ngứa. Ngoài ra, nhiều người còn dùng lá đinh lăng chữa ho
ra máu, kiết lỵ và nó còn có thêm tác dụng làm mất máu và cầm máu.
Dùng
lá đinh lăng 80g sao vàng sắc uống chữa một số trường hợp nổi mẩn ngứa do dị
ứng (mề đay).
HUYẾT DỤ
Cây
huyết dỵ ở địa phương được nhiều người trồng. Huyết dụ có vị nhạt, tính mát, có
tác dụng làm mát máu, cầm máu, làm tan máu ứ và làm giảm đau, chữa các trường
hợp bị thương và phong thấp đau nhức mình mẩy, các khớp xương.
-
Chữa các loại xuất huyết ở thượng tiêu và chảy máu dưới da, dùng lá huyết dụ
tươi 30g, lá trắc bá (sao cháy) và cỏ nhọ nồi, mỗi vị thuốc 20g sắc uống.
-
Chữa các loại chảy máu, xuất huyết tử cung và đái ỉa ra máu. Dùng 40 - 50g lá
tươi sắc uống (lá, hoa khô với lượng bằng 1/2 lá tươi).
-
Chữa sau khi đẻ xong hoặc xảy thai và rong huyết hay hành kinh quá nhiều: Lá
huyết dụ 30g, lá Trắc bá (sao cháy) 20g sắc rối, dùng muội nồi tán mịn 10g hoà
thêm 15g Cao da trâu đun loãng quấy đều mà uống.
-
Chữa bị thương ứ máu hay phong thấp đau nhức xương khớp, dùng Huyết dụ cả cây
lá hoa rễ 30g với Huyết giác 15g sắc uống.
-
Chữa bạch đới, đi lỵ, ra huyết, viêm dạ dày, viêm ruột, trĩ nội, hậu môn lở
loét, ra máu: Huyết dụ tươi 40g, lá Thuốc bỏng (suốt đời), lá Bấn (xích đồng
nam) đều 2g sắc uống.
CÂY LÁ LỐT
Cây
lá lốt được người dân miền Bắc trồng rất nhiều, thường dùng lá trong chế biến
các món ăn.
Lá
lốt được dùng trong y học dân tộc còn có tên Tất bát (tiêu tốt). Có vị cay
thơm, tính ấm. Tác dụng làm ta hơi lạnh, giúp tiêu hoá, thông khiếu và trị tê
thấp.
-
Chữa đau bụng đi lỏng, buồn nôn, nấc cụt, hát lá lốt rửa sạch, nhai nuốt.
-
Chữa viêm xoang chảy nước mũi đặc, dùng lá lốt vò náy nút vào lỗ mũi.
-
Chữa đau gấp ngang lưng, sưng đầu gối hoặc bàn chân tê buốt, dùng lá lốt, ngải
cửu bằng nhau, giã nát, chế thêm giấm chưng nóng đắp chườm (kinh nghiệm dân
gian).
-
Chữa tê thấp: Rễ lốt, Dây chìa vôi, Cỏ xước, Hoàng lực, Độc lục (rễ quyết
rừng), hột Xích hoa xà, Đơn gối hạc bằng nhau mỗi vị 12g sắc uống (Hành giản
trân nhu).
CÂY CHÚT CHÍT (Cây lưỡi bò)
Cây
chút chít có vị đắng, tính lạnh, có tác dụng thanh nhiệt, thông đại tiện, sát
trùng.
-
Chữa hắc lào và lở ngứa: Sắc lá, cành cây Chút chít ngâm cọ rửa bằng nước nóng.
Dùng củ Chút chít mài với giấm bôi hoặc ngâm cồn sau 1 tuần bôi 5 - 7 lần, rất
công hiệu. Nếu sẵn thì dùng củ rễ hay lá tươi sát tốt hơn.
-
Chữa bí ỉa, dùng 8 - 10g nhai sống hay sắc uống. Để chữa bệnh cấp tính, dùng
Chút chít 10g, Chỉ xác 8g, Mộc thông 8g sắc uống. Sau 1 giờ, chưa đi ngoài thì
sắc nước thứ hai uống tiếp.
-
Chữa ăn chậm tiêu, vàng da, lở ngứa, mụn nhọt dùng 3 - 6g sắc uống.
CÂY CẦN TÂY
Cây
cần tây được trồng, thu hái cả cây, được chế biến là thức ăn.
Cây
rau cần tây có vị ngọt, cay, thơm, có tác dụng: Thanh nhiệt, ngừng ho, giúp
tiêu hoá, lợi tiểu và hạ huyết áp (theo tài liệu của Trung Quốc).
CÂY KIỆU
Cây
kiệu thường được trồng lấy củ, đem muối ăn kèm với các thức ăn khác trong bữa
ăn.
Cây
kiệu có vị đắng, tính ấm, có tác dụng làm ấm bụng, tán khí kết, khỏi đầy hơi,
bổ thận khí, mạnh dương.
Nờu
ăn thì chịu được (thích nghi với) rét lạnh, bổ khí, điều hoà nội tạng, làm cho
người ta béo khoẻ.
-
Chữa phụ nữ có thai, bị lạnh đau bụng, thai không yên, dùng Kiệu 30g, Đương quy
8g sắc uống.
-
Chữa tự nhiên ngã ngất hôn mê như chết, hoặc trong khi ngủ mà bỗng dưng bị như
chết là do trúng khí độc thì lấy Kiệu giã vắt lấy nước cốt rỏ vào mũi sẽ tỉnh.
-
Chữa đi lỵ dùng kiệu một nắm nấu với cháo ăn thì khỏi (kinh nghiệm).
-
Chữa bị bỏng: Dùng Kiệu giã nhỏ hoà với mật ong, vắt lấy nước bôi thì chóng
lành.
CÁT CĂN (Sắn dây)
Sắn
dây được rất nhiều gia đình trồng lấy củ.
Sắn
dây có vị ngọt, tính mát, có tác dụng, giải khát, chữa cảm nắng, sốt nóng, nhức
đầu, có mồ hôi, trong bụng và ngoài da đều nóng, nôn oẹ, nóng ruột, khát nước,
dùng bột sắn dây 12g hoà với nước uống hay dùng Cát căn 20g, Đậu ván sao, Rễ
lức, Dành dành mỗi vịd dều 10g sắc uống.
-
Chữa trẻ sốt ho, viêm họng hay lên sởi, viêm phổi hoặc phụ nữ thường nóng ruột
chán cơm dùng Sắn dây 20g, Rau má, Mạch Môn, Cam thảo dây mỗi vị đều 10g sắc
uống.
-
Bệnh ôn nhiệt: Mùa hè, sốt cao, phiền khát, trằn trọc me sảng: Dùng Cát căn
16g, Hoàng cầm hay Chi tử, Hoàng liên hoặc Hoàng đằng mỗi vị đều 8g sắc uống.
*
Lưu ý: Cây Sắn dây dại cũng được dùng
như Sắn dây trồng nói trên.
CÂY XƯƠNG SÔNG
Cây
Xương sông thường được nhiều gia đình trồng lấy lá làm các món ăn.
Xương
sông có vị đắng, cay thơm, tính ẩm, có tác dụng trừ tanh hôi, giúp tiêu hoá,
tiêu đờm, chữa ho cảm, viêm họng: Dùng lá tươi nhai ngậm, nuốt nước hoặc giã
nhỏ chế nước sôi vào, gạn lấy nước cuốt uống.
Chữa
nổi mẩn khắp mình, dùng lá Xương sông, lá Khế lượng bằng nhau, Chua me đất bằng
phần nửa, giã nát, hoà với nước uống, bã dùng xoa ngoài.
Chữa
trẻ lên sởi mà ho sốt kéo dài: Dùng lá Xương sông, cây Chua me đất, Vỏ dễ dâu,
Địa Cốt bì, Kinh giới, các vị bằng nhau (8 - 10g) sắc uống. Nếu đại tiện lỏng,
ỉa chảy thì bớt Chua me đất (Nam dược thần hiệu).
Chữa
trúng phong hàn cấm khẩu: Dùng lá Xương sông, lá Xương bồ giã tươi hoà với nước
nóng cho uống hoặc sắc uống ((Nam dược thần hiệu).
Chữa
trẻ em sốt cao, co giật, thở gấp: Dùng lá Xương sông, Chua me đất giã nhỏ, chế nước
nóng vào, vắt lấy nước cốt cho uống.
Chữa
vết đứt tay chân chảy máu: Dùng lá Xương sông giã nát đắp vào sẽ cầm máu, chóng
lành.
XẠ CAN (Rẻ quạt)
Cây
Xạ can được nhiều gia đình trồng lấy lá ngậm để chữa ho.
Xạ
can vị đắng, tính mát, tác dụng tiêu đờm kết, u hạch, tích tụ, cầm ho, chữa
viêm họng, amiđan.
-
Chữa kết hạch và u báng: Dùng Xạ can 10g, Nghệ đen 8g, Xuyên khung 6g sắc uống.
-
Chữa ho đờm, viêm họng dùng chót hai lá nhai ngậm hoặc dùng Xạ can và Cam thảo
dây hay Mạch môn mỗi vị đều 10g sắc uống.
-
Chữa đại tiểu tiện không thông: Dùng Củ Rẻ quạt giã sống 12g hoà vào một chén
nước, lọc bỏ bã uống (Nam dược thần hiệu).
SÀI ĐẤT
Cây
sài đất được nhiều gia đình trồng lấy cả cây, nếu nấu lên tắm cho trẻ em chữa
rôm sảy, dị ứng.
Sài
đất được dùng phổ biến trong nhân dân như một vị thuốc có chất kháng khuẩn và
có tác dụng chữa mụn nhọt, lở ngứa, rôm sảy, nổi mẩn, chốc đầu, đau mắt, viêm
bàng quang. Liều dùng không hạn chế, dùng một vị độ 30 - 40g sắc uống hoặc phối
hợp với các vị khác.
-
Chữa mụn nhọt lở ngứa: Dùng Sài đất 30g, Kim ngân cả dây hoa lá 15g, Khúc khắc
(thổ phục linh) 10g, Bồ công anh 15g, Ké đầu ngựa 10g sắc uống. Ngoài ra dùng
Sài đất tươi giã nát xoa đắp hay nấu nước tắm rữa cũng rất tốt.
CÂY CHUỐI
Cây
chuối được nhiều nơi trồng lấy quả.
Cây
chuối được dùng làm thuốc như:
-
Chữa vết thương chảy máu, giã thân cây Chuối đắp thì khỏi.
-
Chữa động thai, dùng củ Chuối rừng, cả Chuối hột và rễ cây Móc, mỗi vị 20g sắc
uống.
-
Chữa đau bụng ỉa chảy, dùng vỏ quả Chuối rừng 4 - 8g sắc uống.
CÂY SI
Cây
si thường được mọi người trồng làm cây cảnh, nhưng ít người biết tác dụng phòng
và chữa bệnh của nó.
Nhựa
và rễ si có tác dụng: Hoạt huyết, tan máu ứ, tiêu sưng, dùng chữa bị thương tụ
máu, đau nhức và trị phong thấp, tay chân đau mỏi, sưng vú. Nhựa hoà với rượu
uống và bôi,xoa bóp hoặc sắc tua si 40 - 50g uống và lấy phần non ở chót giã
nhỏ, chưng với rượu hay giấm đắp vào chỗ sưng.
CÂY MỎ QUẠ
Mỏ
quạ có vị hơi đắng, hơi mát, có tác dụng: Làm mát máu, tan máu tụ, duỗi gân,
thông mạch máu, chữa phổi kết hạch, bị thương sưng đau, phong thấp lưng gối đau
mỏi, phụ nữ kinh bế, dùng 12 - 40g sắc uống hay phối hợp với các vị thuốc khác.
-
Chữa kinh giản, lên cơn hàng ngày, hay 3 - 4 ngày phát một lần, dùng cây Vàng
lồ, Hạt cau, Thảo quả mỗi vị 20g, sắc uống (Hoạt nhân toát yếu).
-
Chữa lao phổi, ho ra máu hoặc khạc ra đờm lẫn máu: Rễ cây Vàng lồ 40g, Dây rung
rúc (rút rế) 30g, Bách bộ và Hoàng liên, Ô rô mỗi vị 20g, sắc uống.
Lá
mỏ quạ tươi dùng chữa vết thương: Trước hết nấu lá Trầu không lấy nước rồi hoà
một cục phèn vào để giội rửa vết thương, xong dùng lá Mỏ quạ bỏ gân cuống, giã
nhỏ đắp, thay thuốc hàng ngày, độ 3 - 5 ngày khỏi.
Nếu
vết thương lâu kéo miệng thì thêm lá Bòng bong bằng nhau, giã đắp, mỗi ngày
thay thuốc một lần. Sau 3 - 4 ngày chưa khỏi thì lại thêm lá Hàn the bằng nhau,
cùng giã đắp, mỗi ngày thay thuốc 1 lần.
CÂY DUỐI
Cây
duối thường được người dân trồng làm hàng rào. Cây duối đã được dùng trong y
học dân tộc như sau:
-
Hoàng Bôn Hoà (thế kỷ XI) dùng lá Duối chữa trâu bò đau bụng ỉa chảy và xoa bóp
chữa bại liệt (Hoạt nhân toát yếu).
-
Nguyễn Hoành (Nam dược cục triều Tây Sơn) đã dùng lá Duối chữa nắng nóng. Vỏ
cây duối chữa phong thấp đau nhức.
-
Lĩnh nam bản thảo của Lãn Ông chép: "Vỏ duối tính mát, tiêu sưng lở, chữa
rắn cắn, chó dữ cắn (uống và đắp).
-
Nhân dân dùng rễ Duối sắc uống để chữa bí đái, bụng trướng, vỏ Duối sắc ngậm
chữa sâu răng, sưng họng, mủ nhựa Duối bôi vào 2 bên thái dương để chữa nhức
đầu.
CÂY CẢI TRỜI
Cây
cải trời được dùng như Hạ khô thảo có tác dụng trị mụn nhọt, lở ngứa hay bị
thương chảy máu, dùng 20 - 30g sắc uống và giã tươi đắp ngoài.
Chữa
bạch đới, viêm âm đạo, thấp nhiệt, chân lở sưng, dùng Cải trời 30g, dây Kim
ngân hoa, Hy thiêm, Mộc thông, Huyết dụ mỗi vị 15g sắc uống.
CÂY THÔNG
Cây
thông được nhiều người trồng làm canh và để khai thác lấy gôc.
Cây
thông đất có vị ngọt, tính mát, có tác dụng: Thanh can, làm sáng mắt, chữa viêm
gan cấp tính, mắt sưng đỏ đau, phong thấp nhức xương và ho mãn tính, dùng 20 -
40g sắc uống hay phối hợp với các vị thuốc khác.
Cây
này được dùng chữa ăn kém, tiêu do mật, buồn nôn, nôn nghén, sói mật và đau nửa
đầu do gan.
CÂY HỔ VĨ
Dùng
lá non của cây Hổ vĩ chữa ho, viêm họng, khản tiếng bằng cách nhai với vài hạt
muối, ngậm nuốt nước dần.
Lá
còn được giã nhỏ vắt lấy nước cốt rỏ vào tai để chữa viêm tai chảy mủ, rỏ rồi
quấn bông vào tấm khăn khô sạch mủ.
CÂY HOA NGỌC LAN
Cây
hoa ngọc lan được nhiều người trồng lấy hoa. Vỏ cây Ngọc lan vị đắng, tính
lạnh, có tác dụng thanh nhiệt, lợi tiểu tiện, trị cảm phong nhiệt, trúng phong,
thuỷ thũng, điên cuồng, mặt mũi đỏ và làm sáng mắt, thính tai.
Vỏ
bỏ lớp ngoài, thái nhỏ, tẩm giấm, phơi khô, tán nhỏ, uống mỗi lần 1 - 2 thìa,
ngày uống 3 - 4 lần. Trẻ sưng lưỡi, trộn với giấm cho ngậm. Dùng ngoài bôi xung
quanh bộ phận sinh dục lở ngứa do ẩm hồ hôi và đắp mụn nhọt, xoa mặt nổi mụn
thịt đỏ.
Hoa
Ngọc lan mùi thơm, tính ẩm, có thức ăn tiêu đờm, ích phế, chữa ho và hoà khí,
chữa phụ nữ đau bụng kinh, tẩm với mật ong uống 5 - 7 hoa rất rốt.
CÚC MỐC
Cây
Cúc mốc thường được nhiều gia đình trồng làm cây cảnh.
Cúc
mốc có vị ngọt nhạt, hơi đắng, mùi thơm nhẹ, có tác dụng giải cảm, sốt, ho,
viêm họng, nhức đầu, ăn uống chậm tiêu hoặc lên sởi, mẩn ngứa, dùng 10 - 20g
sắc uống.
Ngoài
ra có dùng chữa phụ nữ khi hành kinh bị cảm hay phát sốt với liều như trên và
giã đắp mụn nhọt sưng lở.
CÂY TRE
Lá
tre: Trúc điệp hay Đạm trúc điệp có vị ngọt the nhạt, tính lạnh, có tác dụng
thanh nhiệt, lợi tiểu, trị sốt cao, phiền khát ra nhiều mồ hôi dùng 1 nắm 20g
lá tre với 20g rau má cùng sắc uống. Nếu háo khát, phiền nhiệt thì uống với bột
Thạch cao nung 12g chia làm 3 lần.
Trúc
nhự: Chẻ một thanh tre giữa lỏng, tước bỏ lớp vỏ xanh ở ngoài và lớp xốp trong
ruột, lấy lớp giữa (phôi tre). Trúc nhự có vị ngọt, tính mát, có tác dụng thanh
nhiệt, hoá đờm, chữa nôn oẹ, ho có đờm, hồi hộp không ngủ, tâm phiền rạo rực,
dùng Trúc nhự và Mạch môn mỗi vị 16g sắc uống.
Trúc
lịch: Chặt một đoạn măng vòi tre, hai tay cầm hai đầu, đốt lửa hơ khoảng giữa
lòng cho chín mềm, rồi vặn lấy nước cốt hứng vào bát uống. Trúc lịch có vị ngọt
tính lạnh, tác dụng thanh nhiệt, hoá đờm, chữa sốt cao, đờm rãi kéo lên, ho,
suyễn hoặc trúng phong cấm khẩu. Dùng gừng sống giã vắt lấy nước cốt 1 chén
uống.
Phấn
trong cây tre cũng được dùng để cầm máu vết đứt hay chảy máu chân răng, cạo một
tý phấn trắng trong ruột tre đặt vào thì ngừng chảy máu.
*
Lưu ý: Trúc điệp, trúc lịch chỉ dùng
cho bệnh thực nhiệt, thích hợp nhất đối với bệnh ôn nhiệt như mùa hè, như viêm
não B, sốt độc nhiệt, cấm dùng cho người hư hàn.
Người
tỳ vị hư hàn hoặc đang dưỡng bệnh đều kiêng ăn măng, bệnh sốt cơn ăn măng thì
bệnh dễ tái phát.
CÂY NHÃN HƯƠNG
Cây
Nhãn hương được nhân dân Phú Thọ sắc uống chữa đau mắt và chữa sốt rét cơn,
uống và xông.
Theo
Trung dược thì cây này có tác dụng: Thanh nhiệt, giải độc, kiện vị, hoá thấp và
lợi tiểu, sát trùng.
CÂY CÔNG CỘNG
Cây
công cộng có vị rất đắng, tính lạnh, có tác dụng: Thanh nhiệt giải độc, tiêu
sưng, giảm đau.
-
Chữa viêm miệng, viêm họng, dùng vài lá nhai ngậm.
-
Chữa lở ngứa, rôm sảy, sưng tấy, nhiễm trùng ngoài da, vết thương rắn cắn, dùng
lá Công cộng một nắm giã nát với rượu, xoa đắp. Phối hợp với Kim ngân hoa, Sài
đất.
-
Chữa viêm phổi, sưng amiđan: Dùng cây Công cộng 12g, Huyền sâm, Mạch môn mỗi
thứ 12g sắc uống.
-
Chữa lỵ cấp tính, viêm dạ dày, viêm ruột, cảm sốt, sưng tấy: dùng 10 - 15g sắc
uống hay phối hợp với Kim ngân hoa, Sài đất mỗi vị 10g.
CÂY CHUA ME ĐẤT
Chua
me đất có vị chua, tính lạnh, có tác dụng thanh nhiệt, giải khát, mát máu, an
thần, thông tiểu tiện.
-
Chữa đại tiện táo, dùng chua me đất, mã đề mỗi thứ một nắm giã vắt lấy nước
cốt, hoà thêm một thìa đường vào uống (Nam dược thần hiệu) .
-
Chữa sốt cao, trằn trọc, khát nước, dùng chua me đất một nắm giã nát chế nước
nguội vào vắt lấy nước cốt uống.
-
Chữa bị thương bong gân sưng đau, giã chua me đất chưng nóng xoa bóp. Bị bỏng
thì giã vắt lấy nước giội vào, rôm sảy, ngứa gãi thì giã nhỏ xoa xát.
-
Chữa lỗ đít sưng đau hay lở loét : Dùng chua me đất, rau sam mỗi thứ một nắm.
bồ kết 1 quả giã nhỏ, nấu nước ngâm rửa trong 3 ngày hoặc ngâm rửa với nước bồ
kết rồi đắp chua me đất và rau sam giã nát băng lại.
CÂY LƯỠI RẮN
Cây
lưỡi rắn được phát hiện ở nước ta từ thời Tuệ Tĩnh dùng chữa sắn cắn, đậu sởi.
Theo
thường dụng Trung dược thảo thủ sách, cây lưỡi rắn có vị ngọt nhạt, tính mát,
có tác dụng thanh nhiệt giải độc, hoạt huyết, lợi tiểu, chữa viêm đường tiết
niệu, viêm họng, viêm gan cấp tính, mụn nhọt sưng tấy, bị thương máu ứ sưng đau
và rắn độc cắn dùng 100 - 300g sắc uống. Ngoài ra dùng đắp vết thương.
Nhân
dân Trung Quốc còn dùng cây lưỡi rắn khô 80g (hay 160g tươi) với cây Hoàng cầm
râu tức Bán chi liên, bằng nửa liều cỏ lưỡi rắn (40 thuốc khô hay 80 thuốc
tươi) sắc uống hàng ngày để chữa ung thư phổi, ung thư trực tràng vào thời kỳ
đầu.
Nhân
dân Phú Thọ có kinh nghiệm dùng chữa rắn cắn, độc chạy vào tim, tím tái hôn mê,
sắc 300g cho uống liên tục sẽ cứu sống được người bệnh.
CÂY SỪNG HƯƠU
Cây
sừng hươu có vị ngọt chát, tính lạnh, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, tan
máu ứ, tiêu sưng, chữa mụn nhọt sưng tấy, mưng mủ, trượt ngã bị thương…
Bị
rắn cắn dùng 12 - 20g sắc uống và giã đắp chỗ đau.
CÂY MÈ TRÉ
Mè
tré có vị cay, có tính ấm, có tác dụng ôn bổ tỳ, thận, chữa ăn uống chậm tiêu,
ỉa chảy, di tinh, đái nhiều về đêm.
-
Chữa tỳ vị hư hàn, đau bụng do lạnh, ỉa chảy hoặc hay nhổ nước bọt: dùng ích
trí nhân 12g, Thanh mộc hương, Tiểu hồi hương, Trần bì, Can khương, Ô mai đều
6g sắc uống.
-
Chữa thận hư, di tinh, ban đêm đái nhiều, đau lưng, mỏi gối, dùng ích trí nhân,
Hoài sơn, Ô dược bằng nhau, tán bột hoặc làm viên uống mỗi lần 12g, ngày uống 2
- 3 lần.
CÂY DẠ CẨM
Cây
dạ cẩm được nhân dân dùng chữa miệng lưỡi lở loét, dùng lá non nhai ngậm.
Chữa
viêm loét dạ dày, tá tràng, nấu cao Dạ cẩm
hoà thêm mật ong vào uống (kinh nghiệm dân gian).
VỎ CÂY SỮA
Vỏ
cây sữa vị đắng ngọt nhạt, tính mát được dùng làm thuốc bổ cho những người tạng
nhiệt, gầy khô, kém ăn và chữa bệnh sốt nóng, kiết lỵ hay ỉa chảy sột sệt phân
lỏng thất thường. Liều dùng 1 - 3g bột vỏ uống với nước nóng hay đun sôi lên
uống làm 3 lần trong mộtngày (Kinh nghiệm dân gian).
SÂM CAU (Tiền mao)
Sâm
cau trong nhân dân hay trồng làm cây cảnh. Sâm cau vị đắng, tính ấm, có tác
dụng: làm tan lạnh, cường dương, mạnh gân, chữa nam giới liệt dương, người già
đái són lạnh da, kém ăn, tê thấp lưng gối vận động khó khăn. Dùng củ sâm cau
gọt vỏ, thái miếng ngâm nước vo gạo 1 đêm, phơi sấy khô 12 - 20g sắc hay ngâm
rượu uống hoặc phối hợp với các vị khác.
-
Chữa nam giới liệt dương, phụ nữ tử cung lạnh khó thụ thai dùng sâm cau 20g,
Thục địa, Ba kích, Phá cổ chỉ, Hổ đào nhục 16g, Hồi hương 4g sắc uống.
*
Lưu ý: Tiền mao dùng nhiều gây cường
dương luôn làm tính hao kiệt sức, người hư yếu cấm dùng. Uống Tiền mao thì
kiêng ăn thịt trâu, bò.
HOÀNG CUNG TRINH NỮ
Nhân
dân ở miền Nam Trung Bộ đã quen dùng lá cây này chữa bệnh u xơ tuyến vú và u xơ
tuyến tiệt liệt, sắc mỗi ngày 3 - 5 lá uống như nước chè thường uống vài ba
tháng thì khỏi.
Cây
thuốc này có tác dụng chữa các bệnh phụ khoa, bệnh tiết niệu, nhất là bệnh ung
thư vú, ung thư dạ dày, ung thư phổi và ung thư tuyết tiền liệt với liều dùng 3
lá mỗi ngày, uống trong một đợt 8 - 15 ngày đều có kết quả tốt. Kinh nghiệm cho
thấy một trường hợp bệnh nhân bị ung thư gan sau phẫu thuật đã uống lá cây này
để phòng bệnh di căn, sau nhiều năm bệnh không tái phát.
CÂY THUỐC LÁ
Cây
thuốc lá vị cay, tính rất nóng, có độc mãnh liệt, chỉ dùng làm thuốc chữa rắn
cắn, đắp các vết thương chảy máu và trừ sâu bọ.
-
Chữa sắn cắn: Nhân dân ta thường lấy một cục thuốc lào to bằng đầu ngón tay
cái, nhai nước nuốt, lấy bã đắp vết thương, sau khi đã buộc chặt phía trên vết
thương để chặn nọc độc chạy vào tim và dùng tóc cọ xát chỗ bị cắn để khử nọc
rắn. Nếu không sẵn thuốc thì uống một chén nước điếu, lấy nước điếu dội vào vết
thương hoặc lấy cao trong xe điếu bôi vào chỗ bị cắn.
-
Trừ rệp, lấy lá thuốc lào, thuốc lá để vào dưới giường hay đệm chiếu vào ba hôm
thì rệp chết hết.
-
Chữa vết đứt, vết thương chảy máu hay rết sâu cắn, dùng thuốc lào sợi đắp vào
rồi băng lại.
-
Trừ sâu cây, nấu lá cây thuốc, lấy nước phun tưới vào cây trồng.
-
Trị súc vật bị ghẻ, chấy rận, bọ chó: lấy lá thuốc già hay cuộng cây thuốc lá
nấu nước gội tắm cho chúng.
CÂY LẠC TIÊN
Cây
lạc tiên mới được dùng trong nhân dân theo kinh nghiệm của phương tây, làm
thuốc an thần cho dễ ngủ, chữa các chứng bệnh ngủ hay mê man, hồi hộp.
Lạc
tiên nấu thành cao, uống mỗi buổi tối vài ba thìa trước khi đi ngủ hoặc dùng
cây lạc tiên, lá dâu, lá vông, một muồng ngủ sao, mỗi vị 15 - 20g sắc uống thì
dễ ngủ yên giấc, hết mê man, hồi hộp.
CÂY MUN
Cây
mun thường được trồng để lấy gỗ.
Từ
xưa, tổ tiên ta đã dùng làm đũa ăn để phòng ngộ độc, gỗ mun có vị ngọt, mặn,
tính lạnh, có tác dụng giải các loại trúng độc đặc hiệu và chữa nôn ói hoặc thổ
tả, đại tiện ra máu.
-
Chữa uống nhầm thuốc độc, phát cuồng, thổ tả, phiền muộn nguy cấp dùng: Gỗ mun
đẽo vạt miếng sắc uống càng nhiều càng tốt (Nam dược thần hiệu).
PHÙ DUNG
Cây
phù dung được nhiều người trồng làm cảnh. Phù dung có vị cay, tính bình, có tác
dụng làm tam máu ứ, cầm máu và thanh nhiệt, giải độc.
-
Chữa phụ nữ kinh nguyệt quá nhiều, bạch đới và ho lâu thổ huyết, dùng 10g bông
sắc uống.
-
Chữa viêm tuyến vú, mụn nhọt sưng đau và bị thương, bong gân, dùng lá tươi và
hoa, giã nát đắp vào chỗ đau (kinh nghiệm).
CÂY ĐA
Cây
đa thường được mọi người trồng làm cây cảnh. Lá đa và tua đa đều có vị nhạt,
tính mát, có tác dụng lợi tiểu tiện, làm ra mồ hôi. Lá thường dùng giải cảm,
cho ra mồ hôi. Tua đa thường dùng để lợi tiểu tiện nhiều hơn dùng lá.
-
Chữa tiểu tiện không thông, đái ra dưỡng trấp, dùng tua đa 20g, rau dừa nước,
tỳ giải mỗi vị đều 15g sắc uống.
-
Chữa cảm cúm, cảm sốt, viêm amiđan, đau mắt, sốt rét cơn, dùng 12 - 20g lá đa
hay tua đa sắc uống (kinh nghiệm).
CÂY DÂM BỤT
Cây
dâm bụt thường được nhiều gia đình trồng làm hàng rào hoặc làm cây cảnh.
Dâm
bụt có vị ngọt trơn nhày, tính bình, có tác dụng thanh nhiệt, lợi tiểu, giải
độc, tiêu sưng, trị bạch đới, mộng tinh, đại tiện ra máu, mất ngủ, khô khát và
đắp mụn nhọt sưng tấy.
-
Giữa khó ngủ, hồi hộp, đái đỏ dùng hoa dâm bụt hãm với nước nóng uống thay chè.
-
Chữa bạch đới, mộng tinh, đái buốt, đi lỵ dùng lá hoa dâm bụt, lá bấn (vậy) lá
thài lài tía, mỗi thứ một nắm, giã nhỏ, chế nước chín vào, vắt lấy nước cốt
uống.
-
Chữa mụn nhọt sưng tấy dùng lá và hoa dâm bụt giã đắp.
-
Chữa quai bị, đau mắt dùng lá dâm bụt, lá dành dành mỗi thứ một nắm, giã nhỏ,
vắt lấy nước uống, bã thì đắp.
CÂY VẠN TUẾ
Cây
vạn tuế được nhiều người sử dụng làm cây cảnh. Vạn tuế có vị ngọt, sít, có tác
dụng hoạt huyết, làm giảm đau. ở Trung Quốc lá và hạt cây vạn tuế được dùng làm
thuốc thu liễm, cầm máu và chữa ho.
Nay
người ta dùng chữa bệnh ung thư gan, các loại u bướu, sắc mỗi ngày một tấm lá
uống.
Ở
nước ta, ruột của cây vạn tuế được thái miếng, phơi khô bán ở phố Lãn Ông - Hà
Nội với tên Nam phục linh có tác dụng chữa ho, hen suyễn, cầm máu.
CÂY XOAN
Cây
xoan thường được nhân dân ta trồng lấy gỗ. Xoan có vị đắng, tính lạnh, có độc,
có tác dụng sát trùng. Vỏ rễ xoan (dùng lớp trong sao cho bớt hăng) trị:
-
Giun đũa quấy bụng: Dùng vỏ rễ xoan tươi bỏ lớp ngoài, lấy lớp trắng 30g sắc 4
nước, cô đặc lại, hoà tan vào 40g đường cát, uống 1 lần vào lúc đói buổi sớm,
đến trưa mới ăn cơm. Nếu trong 3 ngày chưa thấy giun ra thì uống thêm một lần
nữa. Đối với trẻ em dưới 3 tuổi thì không nên dùng, từ 3 tuổi trở lên thì mỗi
tuổi dùng 2g, với một lượng đường gấp rưỡi (thí dụ 4 tuổi thì dùng 8g vỏ xoan
với 12g đường) sắc và uống như trên.
-
Chữa giun móc câu: Dùng vỏ rễ xoan tươi 32g, hạt cau 20g, sắc 3 nước cô lại,
pha thêm vào 50ml mật ong, uống hết 1 lần trước khi đi ngủ. Uống 3 tuối liền,
trẻ em dùng theo tỷ lệ trên.
-
Giun chui ống mật: Dùng vỏ rễ xoan khô 16g, Chỉ xác, Mộc hương mỗi vị 12g, hạt
cau 40g, quả giun 20g sắc uống. Trẻ em 3 - 5 tuổi dùng 1/3, 6 - 8 tuổi dùng
1/2, 9 - 11 tuổi dùng 2/3, 12 - 14 tuổi dùng 3/4, 15 tuổi dùng cả liều.
-
Chữa giun kim: Dùng vỏ xoan tươi 100g, bách hộ 200g, ô mai 12g đổ 2 bát nước,
săc lấy 1 bát, mỗi buổi tối dùng 30 - 50ml bơm thụt vào hậu môn, giữ lại 15
phút. Làm liền 4 buổi.
Lá
xoan giã đắp mụn nhọt, lá và vỏ xoan nấu nước tắm rửa chữa ghẻ lở cho người và
súc vật.
Quả
xoan có vị đắng tính lạnh, có ít độc, có tác dụng chữa đau bụng nhiệt, đau bụng
giun và đau dây thần kinh liên sườn với liều 16g sắc cùng các vị khác.
*
Lưu ý: Vỏ xoan, quả xoan có độc, uống
phải thận trọng. Nếu quá liều sẽ có hiện tượng ngộ độc, đau bụng, nôn mửa,
chóng mặt, mệt lả, tay chân tê dại. Dùng đường cát hay sắc cam thảo uống nhiều
thì giải độc.
CÂY BẤC LÙNG
Bấc
lùn có vị ngọt nhạt, tính lạnh, có tác dụng làm mát tim phổi, chống sốt cao,
phiền nhiệt, khó ngủ và lợi tiểu, tiêu phù thũng, dùng 2 - 8g hoặc phối hợp với
các vị khác.
-
Chữa phù thũng: Bấc lùn 8g, Mộc thông, Mã đề, Cỏ xước mỗi vị 12g sắc uống.
-
Chữa tâm phiền, miệng khát, không ngủ: Dùng cỏ bấc 4g, lá tre, mạch môn mỗi vị
12g sắc uống.
-
Chữa các chứng đái buốt, đái đục, đái ra máu dùng: Cỏ bấc, rễ cỏ tranh mỗi vị
8g sắc uống.
CÂY CỌ
Cây
cọ được dân vùng Trung du trồng rất nhiều.
Dầu
quả cọ béo, ngon, tựa như dầu dừa, dầu lạc, có chứa một thành tố Carotên là
tiền sinh tố A, dùng làm dầu ăn bổ béo, uống 15 - 20ml thì nhuận tràng, hết đầy
bụng.
Ta
nên phát triển trồng rộng rãi cây Cọ dầu để thêm nguyên liệu dầu nhờn dùng làm
dầu ăn bổ ích cho con người.
CÂY RAU DỀN
Cây
dền thường được nhân dân trồng làm rau ăn. Ngoài ra, cây rau dền còn được nhân
dân dùng làm thuốc chữa bệnh.
Vỏ
cây dền dùng làm thuốc bổ chữa sốt rét hay phụ nữ kinh nguyệt không đều vơi liều
mỗi ngày 10 - 20g dưới dạng thuốc bột, làm viên hay nấu cao pha rượu uống.
Trong
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, ngành dược liệu miền Trung đã tận dụng vỏ
cây dền làm thuốc chữa bệnh và bồi bổ cho bộ đội và nhân dân địa phương.
Lá
rau dền sắc uống chữa đau và tê thấp.
CÂY CỐI XAY
Cây
cối xay được nhiều gia đình trồng làm cây thuốc. Cây cối xay có vị đắng, nhạt,
tính bình, có tác dụng trừ thấp, thanh nhiệt, lợi tiểu, tiêu phù thũng, chữa
kiết lỵ, mắt đau mưng sưng khó chịu, dùng 20 - 40g sắc uống.
-
Chữa kiết lị hay sưng mắt có màng mộng dụng: quả cối xay, hoa mào gà mỗi vị 30g
sắc uống.
-
Chữa sau khi đẻ phù thũng: Dùng lá cối xay 30g, ích mẫu 20g sắc uống.
CÂY HẸ
Cây
hẹ có vị cay chua, tính ẩm, dùng sống thì vào tim, yên ngũ tạng phủ, khỏi đau
bụng do lạnh, nấu ăn thì bổ ích, thận khí, mạnh dương, khỏi tiết tinh và hết
đau lưng mỏi gối, dùng cây hẹ luộc, xào với giấm, muối, ăm vào sáng sớm lúc đói
thì khỏi chứng ợ hơi.
-
Chữa phụ nữ đến kỳ kinh mà không có hành kinh, khí nghịch đưa máu ngược lên sinh
thổ huyết hoặc bị thương ứ máu, hay đi đái ra máu, chảy máu mũi, dùng lá hẹ cả
thân củ, 100g giã vắt lấy nước cốt và hoà thêm một chén đồng tiện (nước tiểu
trẻ em dưới 3 tuổi) vào uống.
-
Chữa lên cơn suyễn nguy cấp dùng: Lá hẹ 1 nắm sắc uống thì hạ cơn (Nam dược
thần hiệu).
-
Chữa sau khi đẻ hoặc lên cơn giật, nôn ra nước xanh, dùng lá hẹ một nắm giã vắt
lấy nước cốt, chế thêm nước cốt gừng vào uống.
-
Chữa bụng dưới đau nhói hoặc ngộ độc về thức ăn: Giã hẹ vắt lấy nước cốt uống
thật nhiều thì khỏi.
-
Hạt hẹ có vị cay ngọt, tính ấm, có tác dụng: Bổ gan, thận, chủ trị di mộng tiết
tinh, són đái, bạch đới, tinh yếu do hư lao dùng 4 - 16g sắc uống hay phối hợp
với các vị thuốc khác.
-
Chữa bệnh cường trung, ngọc hành, cứng trơ mà tinh tự chảy ra, thỉnh thoảng đau
nhói như kim châm, dùng hạt hẹ và phá cố chỉ mỗi 6g sắc uống.
CÂY VÒI VOI
Cây
vòi voi có vị chua đắng, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, tiêu viêm, bạt độc,
tiêu sưng.
-
Chữa mụn nhọt, chín né, viêm hạch, vấp ngã tụ máu, bong gân, giã cành lá hoa tươi chưng với giấm đắp rịt.
-
Chữa viêm phổi, viêm họng, tê thấp, sưng khớp, viêm tinh hoàn, mẩn ngứa, dùng
20 - 30g sắc ăn uống.
Nhân
dân còn dùng làm thuốc thông kinh, nhưng nếu dùng liều cao thì có thể gây sẩy
thai.
CÂY NGHỆ
Nghệ
là một cây thuốc quý được trồng khắp mọi nơi ở nước ta.
-
Cây nghệ có 2 loại: Khương hoàng và Uất kim.
*
Khương hoàng:
-
Khương hoàng có chất curcumin, có tác dụng làm thông mật (gây bóp túi mật).
-
Làm giảm mỡ trong máu, chống cơn thắt ngực trong chứng thiếu máu cơ tim (bệnh mạch
vành).
-
Hạn chế sự hình thành các cục máu gây tắc nghẽn mạch máu.
-
Làm giảm viêm tấy.
-
Ta sắc Khương hoàng chích gây sẩy thai trong 3 tháng đầu.
+
Kinh nghiệm dùng khương hoàng (nghệ vàng) có tác dụng và kết quả sau:
-
Trị đau bụng kinh hoặc đau bụng sau khi sinh đẻ, dùng nghệ vàng giã nát tẩm
giấm sao lên. Sau đó bọc vào vải đắp vào bụng dưới lúc ấm. Hoặc dùng bài:
Khương hoàng 10g, quế tám 4 - 6g tán bột trộn đều chia 2 - 3 lần uống trong
ngày.
-
Trị viêm gan mãn và xơ gan giai đoạn đầu: Dùng khương hoàng, uất kim, sài hộ,
liên kiều, bạch thược, bạch truật mỗi vị 15g, cam thảo 3g sắc uống một thanh
duy nhất.
-
Trị loét dạ dày, tá tràng: Khương hoàng 10g, ô dược 5g, cam thảo 3g, sắc uống
trong ngày.
Hoặc
Khương hoàng, trần bì mỗi vị 10g, cam thảo 4g sắc uống trong ngày.
-
Ngoài ra có thể dùng 1 trong 2 bài trên tán bột trộn mật ong uống 4 - 8g/lần x
2 - 3 lần/ngày.
-
Trị mụn nhọt dùng khương hoàng 6g, đương quy, xích thược mỗi vị 10g, sinh địa
huyền sâm, kim ngân hoa mỗi vị 12g sắc uống, ngày 1 thang.
Nếu
dị ứng, mẩn ngứa gia thêm kinh giới phài phong mỗi vị 10g.
UẤT KIM
Uất
kim có tác dụng làm giảm sơ cứng động mạch. Kinh nghiệm dùng uất kim có kết quả
như sau:
-
Chữa kinh nguyệt không đều hay đau bụng kinh dùng: Uất kim, sài hồ, đương quy,
bạch thược, đơn bì, hoàng cầm mỗi vị 10g, hương phụ, dành dành mỗi vị 6g, bạch
giới tử 5g, trần bì 6g sắc uống.
-
Trị xuất huyết dạ dày dùng: Tam thất, uất kim, ngưu tất, thục đại hoàng sắc
hoặc tán bột uống.
NGHỆ ĐEN (Nga truật)
Nghệ
đen có vị đắng cay, tính ấm, có tác dụng tiêu huyết ứ hành huyết trệ, tiêu thức
ăn, thông kinh, nhuận tràng.
Chữa
đau dạ dày, ợ hơi, ợ chua hay viêm đại tràng co thắt đi ngoài hơi táo hay không
hết phân, dùng nghệ đen, chỉ xác, mộc thông, sơn trà mỗi vị 15g, nam mộc hương
10g, hột muồng sao 20g sắc uống.
Chữa
bỗng dưng đau bụng do khí lạnh hoặc thường đau lâm râm do tích trệ, dùng nghệ
đen 2 lạng, mộc hương 2 lạng, tán bột, uống mỗi lần 2g với nước giấm pha loãng
(Nam dược thần hiệu).
Chữa
trẻ em cam tích, bụng to, ỉa nhắt, đi nhiều lần ít phân, không hết phân, không
chịu ăn hoặc ỉa phân lổn nhổn không tiêu, đau bụng mót rặn như đi lỵ dùng: Nghệ
đen 12g, chỉ xác 100, hột muồng sao 20g, mộc thông 8g, đại hoàng 4g sắc uống.
GỪNG
Gừng
là một gia vị được nhiều gia đình dùng chế biến ướp tẩm vào các thức ăn .
Gừng
có vị cay đắng, tính ấm, có tác dụng tán phong hàn, huyết ứ, trị trúng gió, đau
bụng, sưng tấy đau nhức, thổ tả. Dùng 20 - 30g phối hợp với các vị khác.
Chữa
bị thương ứ máu hay bị sưng tấy dùng gừng, nghệ vàng, nghệ đen mỗi vị 15g, giã
nhỏ, chế thêm 1 chén giấm, vắt lấy nước cốt uống rồi lấy bã chưng nóng đắp vào
chỗ đau.
-
Chữa gia súc như: trâu, bò, voi, ngựa bị dịch mắt đỏ, ăn không nuốt được dùng
gừng, cốt khí tím, chỉ thiên, sắn dây các vị bằng nhau, giã thật nhỏ, hoà với
nước uống (Hoạt nhân toát yếu).
-
Chữa trúng gió lạnh, bị ngất, chân tay giá lạnh, dùng gừng 20 - 30g, giã nhỏ
chế thêm rượu, vắt lấy nước cốt uống. Dùng bã chưng nóng xoa bóp khắp mình
(Kinh nghiệm dân gian).
-
Chữa cảm thấp nhiệt, sốt gai rét, nhức đầu nghẹt mũi, sổ mũi, ho đờm nôn mửa,
dùng gừng sống và hành trắng mỗi vị 15 - 20g đậy ấm kín, sắc lấy nước uống nóng
và xông cho ra mồ hôi hoặc ăn cháo nóng trộn gừng.
-
Chữa cảm hàn rét run, đau bụng lạnh dạ, ỉa xối ra nước, hoặc đau bụng thổ tả:
Cam khương (gừng chế khô) và củ riềng mỗi vị 15 - 20g sắc uống (Nam dược thần hiệu).
-
Chữa đau bụng, nôn mửa, oẹ, nấc, nhai gừng nuốt nước.
-
Chữa đau bụng, đầu bụng, đi tiểu phân loãng, lấy 1 củ gừng tươi vùi vào trong
bếp, nướng chín, bóc vỏ, thái miếng. Nhai với vài búp ổi hay đọt chè thì khỏi.
-
Chữa tỳ thấp trúng thương hàn tay chân phù thũng, ăn không tiêu, sợ lạnh, sợ
nước, dùng 150g gừng sống rửa sạch, thái mỏng rang khô giòn, đổ vào bát rưới
vào 50ml mật ong, trộn đều, đậy lại để một chốc rồi cho bệnh nhân ăn hết trong
1 ngày sẽ xọp phù, Nếu cần có thể ăn thêm 1 hoặc 2 lần nữa là khỏi (kinh
nghiệm).
CỦ ĐẬU
Củ
đậu được nhiều hộ nông dân trồng, thu hái củ, củ đậu được nhiều người ưa thích.
Củ
đậu có vị ngọt, tính mát, ăn sống thì giải khát, nấu ăn thi bổ ích tràng vị.
Trong củ đậu có thành phần dinh dưỡng như : 100g củ đậu có 1g prrotit, 6g
gluxit, 6mg vitamin C và 20g calo.
Hạt
và lá cây củ đậu có độc, sát trùng, cấm uống mà chỉ được dùng làm thuốc chữa
ghẻ, lá giã nát dùng xát mụn ghẻ. Hạt củ đậu giã nhỏ nấu với quả bồ hòn và hạt
máu chó bằng nhau làm dầu thuốc bôi ghẻ.
Củ
đậu tươi dùng xát lên mặt cho mịn da, củ đậu khô có thể dùng làm phấn bôi mặt,
xoa rôm.
Tại
Trung Quốc, hạt củ đậu được dùng làm thuốc trừ sâu rau, rệp bông, rầy bông: pha
1kg hạt củ đậi giã nhỏ với 200 lít nước và hoà thêm xà phòng vào, phun cho cây.
Trừ
rệp rau và rệp thuốc lá hay rệp bông thường người ta đem hạt củ đậu giã nhỏ
ngâm nước một đêm với tỷ lệ 5% hoà đều mà phun lên cây thì sau một đêm sâu rệp
chết hết.
*
Lưu ý: Hạt và lá củ đậu có độc, không
được ăn và cần tránh nhiễm độc khi chế thuốc trừ sâu. Cũng không cho trâu bò ăn
lá củ đậu mà bị ngộ độc.
CỦ BÌNH VÔI
Được
nhiều nông trường thu lấy củ làm các loại thuốc an thần.
Củ
bình vôi có vị đắng tính hàn, có tác dụng thanh nhiệt, mát máu, giải độc, tan
máu ứ, khỏi đau.
Chữa
dạ dày và hành tá tràng viêm loét, viêm ruột cấp tính, lỵ khuẩn hoặc viêm họng,
đau răng, khó ngủ dùgn 12 - 20g thuốc khô sắc uống, hoặc tán bột, uống 2g ngày
uống 3 - 4 lần.
Còn
dùng uống chữa vết thương ứ máu sưng đau với liều như trên.
CỦ KHÁT NƯỚC
Củ
khát nước có vị ngọt nhạt, hơi chát, tính hơi mát, có tác dụng thanh nhiệt, lợi
thấp, mát phổi, ngừng ho.
Chữa
cảm sốt, ho khan hoặc ho lâu ngày hay viêm ruột đi lỏng, trẻ em cam tích, dùng
12 - 20g thuốc khô sắc uống hay phối hợp với các vị khác.
CỦ CẢI ĐƯỜNG
Củ
cải đường có vị ngọt hơi đắng, tính hàn, có tác dụng thông tâm, khai vị, mạnh
tỳ, hạ khí, bổ nội tạng, làm mát máu vừa thông huyết mạch, khỏi đau đầu và hông
sườn căng tức, giải phóng nhiệt độc và cầm máu da thịt.
-
Chữa kiết lỵ và đại tiện ra máu: giã củ cải đường vắt lấy nước cốt uống.
-
Chữa nhọt độc sưng tấy, liều lượng dùng uống như trên và giã đắp ngoài.
-
Chữa bệnh ôn nhiệt sốt cao, giả củ cải đường vắt lấy nước cốt uống thì giải
khát hạ nhiệt. Mùa hè luộc cây cải đường ăn thì giải nhiệt (Kinh nghiệm dân
gian).
CỦ ẤU
Củ
ấu có vị ngọt, có tính mát, ăn có vị bùi, có tác dụng bổ mát, giải cảm nắng,
giải các chất thuộc độc, ăn thì bổ 5 tạng, no lòng không đói, yên trong bụng và
nhẹ mình.
-
Chữa rôm sảy hay da mặt khô sạm, dùng củ ấu tươi giã xoa thì khỏi. Ngày nay
Trung Quốc phối hợp trong điều trị ung thư tuyến vú, ung thư dạ dày và ung thư
tử cung, ăn mỗi ngày 40 - 60g.
CỦ RIỀNG
Củ
riềng và quả hột riềng đều có vị cay, tính ấm có tác dụng làm ấm bụng, chống
khí lạnh, chữa đau bụng, nôn mửa, ợ nấc. Củ dùng 3 - 10g, quả dùng 2 - 6g.
Chống
khí lạnh ở rừng núi sinh rét cơn, ăn uống không tiêu, buồn nôn hoặc đau bụng
thổ tả, dùng hạt riềng tán nhỏ uống 6 - 10g/ngày.
Chữa
đau bụng do lạnh, nôn mửa, ỉa lỏng dùng củ riềng, củ gấu, gừng khô, các vị bằng
nhau tán nhỏ, uống mỗi lần 5g, ngày uống 3 lần.
CỦ CHUỐI HOA
Cây
chuối được rất nhiều người trồng, dùng để lấy quả và thân ăn có thể ăn sống. Củ
chuối hoa có vị ngọt nhạt, tính mát có tác dụng thanh nhiệt, lợi thấp, mất máu,
tiêu sưng, cầm máu.
-
Chữa bị thương xuất huyết, dùng 40 - 80g củ chuối hoa sắc uống.
-
Chữa viêm gan cấp tính, dùng mõi lần 40 - 120g củ chuối hoa sắc uống hoặc phối
hợp với mộc thông 20g, rễ cỏ tranh 20g càng tốt.
CỦ DẠI
Củ
dại có 2 loại:
Củ
dại, cả củ dưới đất và củ đeo trên dây đều có vị đắng, tính bình có tác dụng
làm mát máu, chống bốc nóng, cầm máy và làm tan máu ứ, giải độc tiêm viêm.
-
Chữa mụn nhọt sưng tấy hay rắn cắn, cho dữ cắn, giã củ tươi, vắt lấy nước cốt
uống, bã thì đắp chỗ đau.
-
Chữa thổ huyết, họ khạc ra máu, chảy máu mũi, dùng 8 - 16g củ khô, sắc uống. Ho
thì dùng củ đeo sắc uống.
Ngày
nay y học Trung Quốc đã ứng dụng củ dại dùng chữa ung thư dạ dày, ung thư thực
quản, uống mỗi ngày 16g thuốc bột hoặc viên.
KHOAI SỌ
Khoai
sụ được nhiều nơi trồng lấy củ làm lương thực.
+
Khoai sọ có vị ngọt hơi the, trơn, tính bình, khoai sọ nấu với cá quả, cá riếc
mà ăn thì điều hoà nội tạng, hạ khí đầy, bổ hư tổn, chữa được hư, lao yếu sức.
Nờu với rau rút, cua đồng ăn thì khỏi nóng âm, dễ ngủ, ngon cơm bớt mệt mỏi,
giúp tiêu hoá tốt.
-
Chữa nổi mẩn ngứa, luộc củ khoai sọ lấy nước tắm rửa có thể hoà thêm một chút
muối ăn.
-
Chữa trẻ em đầu chốc, lở chảy mủ nước dùng củ khoai sọ giã nhỏ đắp vào.
+
Lá cây khoai sọ có vị cay, tính lạnh, trơn, có tác dụng trừ phiền, cầm ỉa, sắc
uống chữa phụ nữ có mang tâm phiền, mê man, thai động không yên, dùng 20 - 30g
hay phối hợp với các vị khác.
-
Lá và củ khoai sọ giã nát nhỏ vắt lấy nước cốt dùng tẩy các vết bẩn dầu mỡ ở
vải quần áo.
-
Chữa rắn cắn, mụn nhọt hay ong đốt, giã lá tươi đắp vào chỗ đau.
MẠCH MÔN
Mạch
môn hay được trồng làm cây cảnh ở các vườn nhà, công viêm.
Mạch
môn có vị ngọt hơi đắng, tính mát, bổ tâm, phế làm mát phổi, sinh tân dịch,
điều hoà nhịp tim phổi hồi hộp, làm mát ruột khỏi táo bón và mát da bớt lở
ngứa.
-
Chữa viêm phổi, sưng phổi, trẻ em viêm phế quản sưng họng: Mạch môn 24g, huyền
sâm, thiêm môn mỗi vị 12g sắc uống.
Mạch
môn chủ trị viêm phổi, ho khan, sát đờm, thổ huyết, viêm họng, ho lao, sưng
phổi, hen phế quản, tim đập nhanh và không đều nhịp, khó ngủ, đại tiện phân khô
khó đi ngoài, hậu môn nứt nẻ, da khô ngứa, mụn lở liên miên. Liều dùng 12 - 24g
.
HOÀI SƠN (Củ mài, khoai mài)
Hoài
sơn vị ngọt ấm, tính bình, bổ tỳ, thận, ích tâm, phế, mạnh khí lực, chữa ho
lao, suy yếu đau lưng, di tinh, bạch đới, ỉa chảy, đi lỵ, rối loạn tiêu hoá,
đái dắt.
-
Chữa bệnh trẻ em ỉa chảy, kéo dài hoặc ỉa phân nhầy có mũi, lỵ mãn tính, phụ nữ
bạch đới, nam giới di tinh đau lưng suy yếu. Củ mài 200g, củ súng, hạt sen, ý
dĩ sao đều 100g sấy khô tán bột uống mỗi ngày 20g với nước cơm.
-
Chữa trẻ em gầy yếu, nhác ăn, phụ nữ có mang mệt mỏi, chán cơm hay người có
bệnh đái đường gầy rộc, dùng hoài sơn thái miéng đồ lên, sao giòn tán bột, uống
mỗi lần 6 - 10g, ngày uống 2 - 3 lần vào giữa buổi lúc đói hoặc thường ăn củ
mài luộc.
*
Lưu ý: Người thấp nhiệt, đại tiện táo
không dùng.
SINH ĐỊA
Sinh
địa vị ngọt, đắng, tính lạnh, có tác dụng thanh nhiệt, sinh huyết dịch, mát
máu, cầm máu.
-
Chữa bệnh nhiệt nóng âm, háo nước (mất nước) hoặc chảy máu, thiếu máu hoặc trẻ
em máu nóng sinh mụn nhọt, nổi hạch: sinh địa 20g, mạch môn, ngưu tất, đan sâm
đều 10g sắc uống.
-
Chữa thiếu máu hoặc huyết nhiệt, hành kinh gián đoạn hay con gái thấy kinh
chậm, hành kinh lượng máu ít, sẫm, không tươi: sinh địa 20g, hồi dâu 10g sắc
uống.
THỤC ĐỊA
Thục
địa chế bằng cách: Dùng các củ rễ nhỏ, những mảnh sinh địa sứt mẻ nấu cô đặc,
tẩm vào những củ sinh địa to mập, đồ lên, đem phơi rồi lại tẩm, lại đồ, lại
phơi, làm 9 lần (Cửu chưng cửu xái). Thục địa có vị ngọt, tính hơi ấm, bổ thận
thuỷ thêm tinh huyết, mỗi ngày ăn 12 - 20g hoặc phổi hợp với các vị khác.
-
Chữa thận tỳ kém sút, tinh huyết hao tổn, tinh thần tiều tuỵ, cơ thể suy nhược,
háo khát, lưng gối đau mỏi, di tinh liệt dương, dùng lục vị hoàn: thục địa hay
sinh địa 32g, sơn thù, hoài sơn đều 16g, bạch linh, mẫu đơn, trạch tả đều 12g
tán bột làm viên uống mỗi ngày 20 - 30g hoặc sắc uống.
CỦ RÁY
Củ
ráy rất ngứa, có độc, tính lạnh, chủ yếu chữa bệnh ngoài da.
-
Chữa mụn nhọt, đơn sưng, trĩ, trượt ngã bị thương, rắn cắn; giã đắp: sưng vú
giã với cám đắp.
-
Chữa mề đay, đơn ngứa, lở ngoan cố sần da chảy nước (chàm) dùng nấu nước tắm
rửa.
ĐẠI TÁO
Đại
táo có vị ngọt, tính hơi ấm, tác dụng làm mạnh tỳ, phế, bổ máu an thần, dễ ngủ,
khoẻ người, dùng 3 - 12 quả vào thuốc thang hoặc cùng long nhãn, mạch môn,
đương quy, ngưu tất đem ngâm rượu uống.
-
Chữa trường hợp sau khi mắc bệnh ôn nhiệt, họng đau miệng khô, khạc nhổ luôn:
Đại táo 20 quả, ô mai 10 quả đều bỏ hạt, lấy vùi giã nhỏ, trộn với mật ong làm
viên ngậm.
-
Chữa buồn bực không ngủ được: Đại táo 14 quả, long nhãn 30g nấu chín, uống nước
và ăn cả cái.
*
Lưu ý: Uống nươc có đại táo thì kiêng
hành và cá, người đầy bụng hay đau răng đều kiêng dùng táo.
KHOAI TỪ
Khoai
từ được nhân dân ta trồng lấy củ, thường đem luộc ăn. Củ khoai từ có vị ngọt,
tính hàn, hơi độc (dùng sống), nấu ăn thì ngọt, ngon, không độc, bổ tràng vị,
thay lương thực, khỏi đói. Người ho nhiệt ăn thì khỏi.
-
Củ từ có khả năng giải các loại thuốc độc: Giã sống vắt lấy nước uống thì nôn
ra hết chất độc là khỏi (Kinh nghiệm dân gian).
LONG NHÃN
Nhãn
là một cây ăn quả được nhiều nơi trồng.
Long
nhãn có vị ngọt tính bình, có tác dụng bổ tâm, tỳ, thêm trí nhớ, ngủ ngon, chữa
gầy yếu thiếu máu, thần kinh suy nhược. Uống lâu thì thông minh khoan khoái,
khoẻ, lâu già, dùng 4 - 12g uống riêng hoặc gia vào các phương thuốc bổ hay đại
táo, cam thảo.
-
Chữa thiếu máu suy nhược: Long nhãn, hạt sen, quả dâu, sinh địa, đương quy mỗi
vị đều 10g sắc uống.
Hạt
nhãn cũng dùng làm thuốc:
-
Chữa bị thương chảy máu, dùng hạt nhãn đốt tồn tính, tán nhỏ rắc vào vết
thương.
-
Chữa bí tiểu tiện, dùng hạt nhãn gọt bỏ vỏ đen ngoài, giã nhỏ 30g sắc uống,
hoặc thêm 20g hành trắng cùng sắc càng tốt.
-
Thuốc ngâm rượu bổ huyết: Long nhãn 100g, đương quy, ngưu tất đều 50g, ngâm với
0,6 lít rượu. Uống mỗi ngày một chén 20 - 30ml.
CỦ SÚNG
Củ
súng được lấy từ gốc, rễ cây hoa sen.
Củ
súng có vị ngọt nhạt, bùi hơi béo, tính mát, có tác dụng chữa thấp nhiệt, đau
lưng, mỏi gối, đái nhiều hoặc không tự chủ, di tinh, phụ nữ bạch đới, sùng 30 -
40g nấu ăn hoặc sấy khô tán bột uống mỗi ngày 10 - 20g (Kinh nghiệm dân gian).
-
Chữa thận hư, tỳ yếu, đau mỏi ngang thắt lưng dùng: Củ súng 20g, ba kích, cẩu
tích, tỳ giải (tẩm rượu sao), hà thủ ô, ngưu tất mỗi vị 12g sắc uống.
-
Chữa cảm nắng dùng: Củ súng nấu chè ăn.
-
Chữa nam di tinh, đái nhiều, nữ bạch đớp không dứt dùng: Củ súng sao, kim anh
(bỏ lớp hạt quả ở trong có độc) lấy lớp vỏ bao ở ngoài, đốt cho cháy sạch lông
gai, sao giòn, 2 vị bằng nhau, tán bột uống mỗi ngày 15 - 20g.
CỦ NÂU
Củ
nâu thời xưa thường được dùng để nhuộm quần áo.
Củ
nâu có vị ngọt, chát, tính bình, có tác dụng: chữa các chứng tích tụ, sát
trùng, cầm ỉa, thường dùng 10 - 16g.
-
Chữa bị thương gãy xương: Dùng củ nây giã nhỏ để bó và băng nẹp lại, sau khi đã
sửa lại xương liền như cũ (Hải Thượng Lãn Ông).
-
Chữa phụ nữ tích huyết thành hòn cục, lấy bã nâu (sau khi mài với nước vắt lấy
nước cốt để ruộm) sây khô tán bột uống 8g, ngày uống 2 - 3 lần hoặc dùng 20g bã
nâu sắc uống.
-
Chữa đi lỵ ra máu mũi dùng: Bã nâu đốt tồn tính, tán nhỏ, uống với nước cơm,
mỗi lần 3g, ngày uống 3, 4 lần.
SU HÀO
Su
hào là một loại củ được nhiều hộ dân trồng. Su hào có vị ngọt nhạt, tính mát,
có tác dụng nhuận tràng, được dùng làm thuốc chữa hành tá tràng, viêm loét, ép
nước uống hay thường ăn.
Chữa
dạ dày hành tá tràng, viêm loét, dùng củ su hào 30g, lá thuốc bỏng 30g giã nhỏ,
chế thêm nước, vắp lấy nước cốt uống hoặc luộc ăn.
KHOAI TÂY
Khoai
tây được nhiều nơi trồng là lương thực. Củ và mầm khoai tây được dùng chế
Salanin là một loại thuốc giảm đau trong tây y.
Có
nơi, nhân dân cũng dùng vỏ khoai tây sắc uống chữa đau bụng và dùng vỏ củ khoai
tây luộc bọc ra đắp vết bỏng (băng lại) chóng lành. (Kinh nghiệm dân gian).
*
Lưu ý: Khoai tây nên cất giữ ở chỗ
râm mát trong nhà và rải lên giàn, nếu để ngoài trời củ sẽ biến chất, ngoài vỏ
xanh trong ruột thâm có độc. Nếu ăn loại khoai đã biến chất nói trên hay ăn thứ
khoai đã mọc mầm thì dễ bị ngộ độc sinh đau bụng nôn mửa, đái ra máu.
LẠC
Lạc
được nhiều hộ nông dân trồng lấy củ.
Lạc
có vị ngọt, bùi béo, có tác dụng: bổ Tỳ, dưỡng Vị, nhuận Phế, nhuận Tràng, có
nhiều dinh dưỡng (100g lạc cho 597 calo, 100g gạo cho 350 calo).
-
Chữa đại tiện táo kết: uống 1 chén dầu lạc thì nhuận tràng dễ đi ngoài.
-
Chữa ho có đờm, dùng 20g Lạc giã giập, sắc uống thì tiêu đờm, bớt ho.
-
Người bệnh mới khỏi sút cân và phụ nữ ít sữa, nên ăn bột Lạc rang thêm muối với
cháo nếp nấu lẫn bột củ mài, mỗi buổi sáng ăn liền vài tuần thì kết quả.
-
Chữa phụ nữ bị hư lao ho lâu, dùng dây Lạc khô sắc uống với bã gạc hươu (Lộc
giác sương) tán bột mỗi lần 4g vào buổi sáng (Bách gia trân tàng).
*
Lưu ý: Lạc rang ăn nhiều thì động hoả
sinh đờm, không nên ăn nhiều, và kiêng ăn với dưa chuột, dưa bở.
KHOAI LANG
Khoai
lang được nhân dân trồng làm cây lương thực. Khoai lang có vị ngọt, tính bình,
có tác dụng: bổ hư tổn, tích khí lực mạnh tỳ, thận, nhuận tràng.
-
Chữa đại tiện táo bón: lấy một củ Khoai lang sống, gọt sạch vỏ, giã nhỏ, chế
nước chín vào, quấy đều uống một bát vào lúc sáng sớm. Sau nửa giờ chưa đi lại
thì uống thêm. Làm vài ba ngày sẽ hết táo.
- Chữa bệnh lỵ mới phát: lấy vài củ Khoai
lang, nướng đến khi cháy hết vỏ, trong vừa chín, bóc vỏ, ăn lúc còn nóng thì
đại tiện thông, hết mót rặn.
-
Chữa di tính đái đục dùng: Khoai lang khô tán bột, uống mỗi lần 15-20g vào sáng
sớm và trước khi đi ngủ. Uống liền vài tuần thì kết quả.
-
Chữa cúm mùa hè, sốt nóng li bì, thân thể mình mẩy đau mỏi, khát nước không
muốn ăn dùng: Khoai lang khô 1 bát. Ngấy tía 1 nắm, Sắn dây 1 nắm, Rau má 1
nắm, sắc uống.
-
Chữa phụ nữ kinh nguyệt không đều, loạn kỳ, máu xấu, nên thường xuyên ăn Khoai
lang, mỗi tháng ăn vài tuần liền vào khoảng giữa hai kỳ kinh, vài tháng sẽ kết
quả.
CỦ CÓI
Củ
Cói có vị hơi the, hơi mặn, có tác dụng: tiêu tích ứ đọng và lợi tiểu, tiêu phù
thũng.
-
Chữa phù thũng, bụng trướng, bí đái dùng: Củ Cói, hạt Bìm bìm, hạt Mã đề, mỗi
vị đều 10g sắc hoặc tán bột uống.
-
Chữa ăn không tiêu, tích trệ khí huyết ngưng tụ dùng: Củ Cói, Rẻ quạt, Nga
truật mỗi vị đều 12-20g sắc hoặc tán bột uống.
CỦ CÀ RỐT
Củ
cà rốt thường được nhân dân dùng chế biến thành các món ăn gia đình. Ăn cà rốt
sống hoặc chín đều có tác dụng bổ máu chon hững người bị suy nhược cơ thể, nhất
là ở người cao tuổi và trẻ em. Nên ăn cà rốt thường xuyên.
Ăn
cà rốt có tác dụng chữa bệnh rối loạn tiêu hoá, lỵ mãn tính.
Củ
cà rốt có vị ngọt cay, tính hơi ấm, có tác dụng: hạ khí bổ trung, yên ngũ tạng,
tăng tiêu hoá, làm khoan khoái trong bụng. Hạt chữa tả lỵ lâu ngày.
Củ
cà rốt khô, thái miếng, tẩm mật sao 30g, cây Vú bò thái miếng phơi khô, Hoài
sơn mỗi vị 24g, Mạch môn chẻ đôi bỏ lõi, Ngưu tất, Thổ tam thất (Nam truật) mỗi
vị 12g sắc uống. Chữa sau khi ốm, kém ăn, ít ngủ, mỏi mệt.
CỦ GẤU (Hương thụ)
Củ
gấu có vị ngọt, đắng, tính bình, có tác dụng: điều khí, khai uất, thông kinh
tiêu tích…
-
Chữa khí tiết kinh chậm, dùng 6-12g phối hợp với các vị khác.
-
Chữa đau bụng, đau dạ dày hơi cuộn lên gây có thắt từng cơn dùng: hương phụ tẩm
giấm sao 12g, Ô dược (dầu đắng) 8g sắc uống.
-
Chữa cảm cúm, hay cảm sốt gai rét, nhức đầu đau mình dùng: hương phụ 12g, Tử ô
10g, Vỏ quýt cũ, Cam thảo dây mỗi vị đều 8g, Gừng sống 3 lát, hành 3 cây, sắc
uống nóng và xông cho ra mồ hôi (Tuệ Tĩnh).
-
Chữa đau vùng tâm vị hoặc kinh nguyệt không đều, hành kinh chậm kỳ,máu xấu
loãng nhạt, dùng Hương phụ tứ chế uống 8-12g mỗi ngày.
QUẢ PHẬT THỦ
-
Trái (Quả) phật thủ có vị cay, đắng, chua, tính ấm. Có tác dụng: lý khí, cầm
nôn mửa, mạnh Tỳvị, giúp tiêu hoá, chữa ho.
-
Chữa viêm họng, làm tăng hoạt động và bồi bổ cho gan, dạ dày, lách, mỗi ngày
dùng 5-15g quả khô cùng với 100-150ml nước chưng cách thủy uống.
-
Chữa đau bụng dùng: 200g quả phật thủ khô và 150g Bạch nhãn trung, tán bột uống
trong 10 ngày với nước rau luộc hoặc nước thịt luộc.
-
Trị phụ nữ khí hư: dùng 20-25g quả khô, 40-50cm ruột non lợn cho thêm ít nước,
chưng lên lấy nước uống (Tài liệu Trung Quốc).
*
Lưu ý: Người âm hư không dùng.
CÂY CỎ TAI HỔ (Hổ nhĩ thảo)
Cỏ
tai hổ có vị cay, đắng, tính hàn, có tác dụng: thanh nhiệt, giải độc, khu
phong, giảm đau, cầm máu.
-
Chữa viêm tai giữa cấp và mãn tính, viêm họng, viêm mũi, vết thương chảy máu,
áp xe, mụn nhọt, lở ngứa ngoài da dùng 6-12g sắc uống.
-
Dùng tươi giã đắp chữa mụn nhọt, viêm, sưng, đỏ đau.
QUẢ DÂU
Cây
dâu trong nhân dân được nhiều người trồng thường để lấy quả và lá.
-
Quả dâu (Tang thầm): vị chua ngọt, tính bình, có tác dụng: tăng thêm huyết
dịch, chữa thiếu máu, đau khớp xương, chứng táo bón ở người già. Uống lâu thì
khoẻ người, ngủ ngon giấc làm sáng mắt, trẻ lâu. Liều dùng 12-20g/ngày.
-
Cành dâu: thái miếng sao vàng, vị đắng, tính bình, dùng chữa phong thấp, tay
chân co quắp, đau nhức: Cành dâu 20g, cây Huyết dụ 12g sắc uống.
Chữa
trẻ lở mép, sưng lưỡi, dùng cành dâu chặt một đoạn 30cm đốt một đầu thì đầu kia
chảy sùi nước trấp ra, lấy nước ấy bôi vào chỗ sưng lở.
-
Lá dâu: vị ngọt đắng, tính mát, có tác dụng: mát máu, thanh đờm, chữa cảm sốt
nóng có mồ hôi, đau họng ho khan, nhức đầu, chữa trẻ em hay ra mồ hôi trộm.
Chữa
trẻ cảm sốt có mồ hôi hay hấp nóng về đêm mồ hôi trộng dùng 15g lá dâu bánh tẻ
cho trẻ sắc uống.
Chữa
trê đau họng, ho khan, bạch hầu: lá dây 20g, Tăm vôi (bạch cương tàm) 10g, bạc
hà 5g sắc uống.
-
Vỏ rễ dâu (Tam bạch bì): vị ngọt tính lạnh, tác dụng: thanh đờm, lợi tiểu, chữa
ho suyễn, tiêu hơi ử phổi, phù phía trên thận.
Chữa
sưng phổi, ho sốt, trẻ ho gà, đờm suyễn: vỏ rễ dâu (lấy phần non ở dưới đất, bỏ
lớp ngoài, lấy lớp trong, tẩm mật sao qua), mạch môn, Ngưu tất đều 10g, Xuyên
tâm liên tục 5g sắc uống.
-
Cao quả dâu: trị rụng tóc, bạc tóc, trị khô miệng, khát nước, táo bón, đi lại
khó khăn ở người cao tuổi.
*
Lưu ý: Nếu chỉ dùng một vị quả dâu
làm thuốc sắc thì mỗi lần sắc không quá 20g.
DƯA BỞ
Dưa
bở là một loại trái cây ăn quả được nhiều người ưa thích.
-
Dưa bở có vị ngọt, tính lạnh, có tác dụng: giải khát, trừ phiền nhiễu, thông
khí, lợi tiểu tiện, ăn vào phòng cảm nắng trong những ngày hè.
-
Hạt dưa có vị ngọt, tính mát, tác dụng: điều hoà trong bụng, thanh phế, nhuận
tràng, trị được các chứng kết tụ sinh máu mủ ở tràng vị. Chữa ho khan hay đại
tiện táo bón ăn 10g, ngày 2 lần.
-
Hoa dùng chữa tim đau và ho nấc, sắc 8g uống.
-
Lá dưa có tác dụng chữa con gái mất kinh, phối hợp với Sử quân tử và Cam thảo,
mỗi vị 20g tán nhỏ, uống mỗi lần 8g với rượu sắc uống.
-
Cuống dưa có vị đắng, tính lạnh, có độc, tác dụng: gây nôn và thông đại tiện,
giải độc, chữa sốt phát cuồng, sốt rét cơn, dùng 4-8g cuống dưa sắc uống thì
mửa ra đờm và khỏi bệnh. Đại tiện khó thì dùng 7 cuống dưa tán nhỏ, bọc vải
mỏng nhét vào hậu môn thì thông. Ngộ độc thì dùng Cuống dưa tán nhỏ, vắt lấy
nước uống (kinh nghiệm).
*
Lưu ý: Khi ăn các loại dưa mà bị phản
ứng thì ăn loại dưa nào ta dùng Vỏ quả dưa ấy sắc uống sẽ khỏi.
QUẢ CỌ
Cây
cọ thường được trồng ở các miền Trung Du.
Quả
cọ có vị ngọt, chát, hơi béo, nay được nhân dân Trung Quốc dùng nấu cho người
bệnh ung thư mũi, họng, thực quản, ăn thì bước đầu nhận thấy chứng trạng lâm
sàng được cải thiện: mỗi ngày dùng 40g cùi quả Cọ nấu với 40g thịt nạc ăn
(Thường dùng Trung thảo dược tủ sách- Quảng Châu).
*
Lưu ý: Quả cọ nếu đem nấu hoặc luộc
(đun nước sôi lên) thì quả sẽ sần cứng, không ăn được mà chỉ chần nước hơi nóng
già ngâm độ nửa giờ rồi vớt (như cánh chần quả trám). Hoặc có thể muối ăn dần
(như muối cà).
QUẢ KÉ
Quả
ké có vị ngọt, tính ấm, chữa các chứng phong lở, thông mũi, cho ra mồ hôi và
thanh can làm sáng mắt, bổ ích xương tuỷ, dùng 8-12g phối hợp với các vị khác.
-
Chữa phong hủi dùng: lá ké, lá Đắng cẩy, lá Thầu dầu tí, quả Khúc khắc, mỗi vị
đều 2g, lá Khổ sâm, lá Hồng hoa, lá Thanh cao, Kinh giới, Xà sàng, Bạch chỉ mỗi
vị đều 8g, Nam sâm 4g sắc uống (Du phương tập của Bùi Diệm Đăng).
-
Thuốc dùng ngoài: lá Ké, lá Cà độc dược, lá Trắc bá, lá Cau, lá Khổ sâm, lá
Ngải cứu, lá Thông,lá Quýt nấu nước trước xông, sau tắm (Bách gia trân tràng).
Lau
khô rồi bôi dầu Chùm bao lớn (Đại phong tử).
-
Chữa lở ngứa các loại, ngứa ngầm dưới da, bướu tuyến giáp, cùng Ké đầu ngựa nấu
thành cao đặc, uống mỗi ngày 6-10g hoà với nước chanh.
-
Chữa phong thấp đau khớp, tê dại đau buốt nửa người, hoặc chân tay lở ngứa đau
nhức, viêm xoang chảy nước mũi, đau trước trán, hay đau ê ẩm trên đỉnh đầu
dùng: Ké đầu ngựa 12g, Kinh giới, Bạch chỉ, Hoàng đằng, Xuyên khung, Thiên hoa
phấn mỗi vị 6g sắc uống.
QUẢ QUAN ÂM
Quả
quan âm có vị đắng, tính mát, có tác dụng: trừ phong nhiệt nhức đầu, hoa mắt,
đau mắt và phong thấp đau nhức, dùng 6-16g phối hợp với các vị khác.
-
Chữa mắt đau sưng đỏ, có màng che, chảy dử, quáng mắt dùng: Quả quan âm, Hột
muồng (sao), Hột đuôi mang, hạt Mã đềm, hạt ích mẫu, các vị bằng nhau, tán bột,
làm viên, uống với nước chè,hoặc dùng mỗi vị 12g sắc uống.
-
Chữa phong ở não, nhức đầu dùng: Mạn kinh tử 12g hạt Kinh giới ngâm rượu, uống
mỗi lần 1 chén con, ngày uống 3 lần (Nam dược thần hiệu).
-
Chữa cảm sốt, nhức đầu, mắt sưng đỏ: Mạn kinh tử 16g, Cúc hoa, Chi tử, Bạc hà
mỗi vị 12g, Kinh giới 10g, Xuyên khung 4g, đổ nước, bịt kín ấm, sắc rồi xông
đầu mắt cho ra mồ hôi và uống khi còn nóng.
QUẢ THANH LONG
Quả
thanh long ở miền Trung Nam bộ trồng rất nhiều là loại quả được nhiều người ưa
thích.
Quả
thanh long dùng ăn giải khát và tráng miệng rất thú vị. Nó có tác dụng: thanh
nhiệt giải khát, mát phổi nhuận tràng. Trong quả Thanh long có chất nước nhầy,
chất xơ, một tỷ lệ protit, lipit, gluxit và vitamin C. Nó rất thích hợp đối với
người tạng nhiệt, táo bón, khô háo, nhiều rôm sảy. Cây được nhân dân sắc uống
để chữa ho.
Nấu
xúp với hoa Thanh long ăn để chữa ho viêm phế quản hay hen phế quản và cho rằng
quả Thanh long có tác dụng chữa được cả huyết áp cao.
CÀ ĐỘC DƯỢC
Cà
độc dược có nhiều ở tỉnh Phú Thọ.
Cà
độc dược có vị cay, tính ấm, có độc, có tác dụng làm dại, làm say có khi phát
điên (nên gọi là cà điên), chữa hen suyễn, viêm mũi dị ứng.
-
Chữa phong thấp sưng chân và bệnh trĩ lòi dom, dùng lá hoặc rễ cây nấu nước
ngâm rửa.
-
Chữa hen suyễn lâu năm, dùng hoa lá cà độc dược phơi khô thái nhỏ, cuốn với
giấy như điếu thuốc lá, cho bệnh nhân hút. Ngày dùng 1-1,5g.
-
Chữa bị thương đau nhức, dùng lá Cà độc dược giã nát chưng với rượu đắp, chóng
khỏi.
Hạt
dùng trong các phương thuốc gây tê để mổ.
*
Lưu ý: Khi dùng tránh ngộ độc vì quá
liều, và đối với người tạng nhiệt, hay thể lực thì không dùng được.
QUÝT
Quýt
là một loại hoa quả được nhiều người ưa thích. Quả quýt có vị chua ngọt, tính
mát, có tác dụng: giải khát, mát phổi, khai uất, trừ đờm, khoan khoái. Vỏ quả
quýt và lá quýt đều có tinh dầu, có thể làm thuốc chữa ho, long đờm, kém tiêu.
Vỏ
quả quýt xanh (Thanh bì) vị đắng cay, tính ấm, có tác dụng: hành khí khai uất,
tán kết trừ thấp, giảm đau và tăng kích thích tiêu hoá, dùng 4-12g phối hợp với
các vị khác.
Vỏ
quả quýt chín (Trần bì) có vị cay đắng, tính ấm. Tác dụng: hành khí, tiêu đờm,
chữa ho hen, nôn mửa ợ hơi, dùng 4-12g phối hợp với các vị khác.
-
Chữa ho, suyễn: Trần bì, nam tinh, Đình lịc, Vỏ rễ dâu, mỗi vị 12g sắc uống.
-
Chữa đau sưng tinh hoàn: Hột quýt 12-20g sắc lên, pha thêm một chén rượu vào
uống.
-
Chữa viêm tuyến vú, tắc tia sữa: Hột quýt 16g sắc uống. Ngoài mài hạt Gấc với
giấm bôi.
-
Chữa hong sườn đau tức, vú sưng đau dùng: Thanh bì tán nhỏ, uống mỗi lần 4g
ngày uống 2-3 lần, hoặc sắc lá Quýt 20g uống.
-
Chữa nôn mửa, ợ hơi, đau bụng, kém tiêu hoặc buồn nôn dùng: Trần bí, Hoắc hương
mỗi vị đều 8g, Gừng sống 3 miếng sắc uống (Nam dược thần hiệu).
DƯA HẤU
Dưa
hấu được người dân Nam Bộ trồng rất nhiều, dưa hấu là một loại quả được nhiều
người ưa thích. Dưa hấu có vị ngọt nhạt, tính lạnh, có tác dụng: giải khát,
khỏi say nắng, phiền nhiệt, hạ khí, lợi tiểu tiện, chữa đi lỵ ra máu và ngậm
khỏi viêm miệng.
Hạt
dưa hấu vị ngọt, tính lạnh, có tác dụng chữa đau lưng và phụ nữ hành kinh quá
nhiều, uống mỗi lần 12g ngày uống 3 lần.
Vỏ
quả dưa hấu có vị ngọt, tính mát, sắc uống thì thanh nhiệt, lợi tiểu, đốt ra
than tán bột ngậm thì khỏi miệng lưỡi lở loét.
*
Lưu ý: Dưa hấu ăn nhiều sinh nôn
tháo. Người lạnh bụng không nên ăn.
QUẢ CHANH
Quả
chanh thường được mọi người dùng pha nước giải khát, dùng trong các bữa cơm
hàng ngày.
Quả
chanh có vị rất chua, tính lạnh, có tác dụng: giải khát, tiêu đờm, thông khí
kết. Chữa nôn oẹ, ho khan, dùng quả chanh, cắt từng miếng, cho thêm vài hạt
muối, nhai nuốt.
-
Chữa bướu hơi ở cổ, dạ dày đầy hơi,lợm giọng buồn nôn mửa, dùng Quả chanh sau
khi đã vắt hết nước, còn vỏ và xác, thái miếng nhào với mật ong mỗi ngày 3-5
quả.
-
Chữa trẻ nhỏ chướng bụng, bí đái, dùng lá chanh giã nhỏ, hấp nóng, đắp vào rốn,
thì đái thông, bụng bớt đầy.
-
Chữa ho khan mất tiếng: Vỏ rễ chanh (bỏ lớp ngoài lấy lớp trắng), vỏ trắng rễ
dâu, rễ Bướm mỗi vị đều 15g sắc uống.
-
Chữa cảm sốt nóng, không có mồ hôi, hay cảm cúm dùng lá chanh 40-80g sắc uống
và xông hơi cho ra mồ hôi.
-
Chữa trẻ em sốt cao, co giật, trợn mắt: vắt nước chanh nguyên chất cho uống
liên tục, thật nhiều, và lấy vỏ chanh xoa vào lồng ngực và xát vào tay chân từ
trong ra, xát nhiều ở các khuỷu tay, kheo chân thì số đẩy lùi ra và tỉnh.
MƠ MUỐI
Mơ
muối có vị chua mát, có tác dụng trừ nhiệt khát, sinh tân dịch, chữa ho sát
đờm, kiết lỵ, nôn ói.
Mơ
hun khói vị chua chát, tính ấm có tác dụng: giải phiền nhiệt, liễm khí nghịch,
ho thở gấp, đờm rãi, chữa sốt rét cơn.
-
Chữa ho nhiệt, khạc đờm ra máu, dùng Ô mai, Hoa hoè sao, Dành dành sao, vỏ rễ
Dâu, mỗi vị 12g sắc uống.
-
Chữa sốt rét cơn: Ô mai quả bỏ hột, Thường sơn đồ với giấm, phơi khô tán nhỏ
8g, giã nhỏ làm viên, uống với rượu vào sáng sớm, đón trước khi lên cơn.
-
Chữa trẻ em đại tiện ra máu dùng rễ cây Mơ (bỏ vỏ ngoài) một nắm, rửa sạch, sắc
cho uống.
Nhân
hạt mơ được dùng làm Hạnh nhân chữa các chứng về bệnh phổi.
-
Chữa ho lâu ngày dùng: Mơ muối với thiên môn, Mạch môn, Bách bộ, vỏ rễ dâu, tán
nhỏ, luyện với mật ong và nước Gừng làm viên ngậm và nuốt dần (Nam dược thần
hiệu).
-
Chữa kiết lỵ lâu ngày dùng: Mơ muối 20 quả, nước một bát, sắc còn 6/10, uống
lúc đói.
-
Chữa chứng tiêu khát, uống nhiều nước và nóng trong xương: Ô mai bỏ hạt 80g,
sao qua tán nhỏ, mỗi lần dùng 8g với Đậu sị (Đậu đen đồ ủ lên men) 200 hột, sắc
uống hoặc nấu ăn, vào lúc đói (Nam dược thần hiệu).
THẢO QUẢ
Thảo
quả thường được nhân dân miền Bắc dùng để nấu chè trong những ngày lễ Tết.
Thảo
quả có vị cay sít, tính ấm, có tác dụng: bổ Tỳ Vị, tiêu thức ăn, trị lạnh bụng,
bí đầy, thổ tả, giải độc cá thịt, tiêu đờm đọng tích tụ, chữa nấc cụt, ợ chua,
nôn ói, dùng 2-6g.
Chữa
sốt rét cơn: thảo quả 6g, Hạt cau 6g, thường sơn đồ với giấm, phơi khô bỏ gân
cuống 6g, sắc uống, trước khi lên cơn sốt.
QUẾ
Quế
là một gia vị thường được dùng ướp tẩm trong các món ăn dân tộc.
-
Quế chi vị cay ngọt, tính ấm, dùng chữa bệnh cảm lạnh không ra mồ hôi, và tê
thấp chân tay đau buốt, dùng 5-10g với các vị khác.
-
Quế thông dùng chữa các chứng lạnh ở nội tạng, thông huyết mạch, chữa hàn thấp
đau nhức.
-
Quế tâm tính vị mạnh hơn quế chi, dùng chữa đau tim với liều 4-8g phối hợp với
các vị khác.
-
Quế nhục có vị ngọt, cay, tính nóng, có tác dụng: thông huyết mạch, làm mạnh
tim, tăng sức nóng, chữa các chứng trúng hàn, trúng phong quyết lạnh, hôn mê,
mạch chạy chậm nhỏ, tim yếu (truỵ mạch, huyết áp hạ) và bệnh dịch tả nguy cấp.
Mài với nước uống mỗi lần là 2-3g hay sắc 12g uống, hoặc phối hợp với các vị
khác.
-
Chữa người dương hư thường, sợ gió, sợ lạnh, khí lực suy nhược, lưng gối yếu
mỏi, nam di tinh liệt dương, nữ mất cảm hứng về tình dục, thai nghén, hư hoả
bốc lên mà hạ bộ thiếu sức nóng quy đầu thun lạnh, hai chân tê buốt, dùng: Quế
12g, Phụ tử 8g, Thục địa 24g, Sơn thù, Hoài sơn, Bạch linh đầu 16g, Mẫu đơn,
Trạch tả đều 8g, tán bột làm viên uống mỗi ngày 30-40g hay sắc uống.
+
Nếu thận hư phù thũng mạn tính thì thêm Xa tiền và Ngưu tất, mỗi vị đều 16g.
+
Nếu ho hen suyễn khó thở thig gia thêm Mạch môn và Ngũ vị tử mỗi vị 12g, cùng
sắc uống.
-
Chữa trúng phong hôn mê, không tỉnh, dùng: Quế 12g sắc, cho uống dần dần.
CÙI DỪA
Cùi
dừa được nhân dân miền Nam bộ trồng rất nhiều để láy nước và cùi.
-
Cùi dừa có vị ngọt, tính bình, ích khí, trị phong thấp, ăn thì không đói, sắc
mặt tươi đẹp trẻ mãi không già.
-
Nước dừa có vị ngọt, tính bình, có tác dụng: bớt chứng háo khát, khỏi thổ
huyết, say nắng, dùng nước dừa gội bôi lên đầu thì tóc đen.
-
Vỏ quả dừa: Phần xơ dùng chữa bệnh lở giang mai, gân xương đau nhức, đốt tồn
tính, uống với rượu 4-10g cho ra mồ hôi thì bớt đau, hoặc sắc uống.
-
Vỏ quả dừa có vị đắng, tính bình có tác dụng: cầm chảy máu mũi, ngừng nôn (sắc
uống), chữa bỗng dưng đau tim, đốt tồn tính tán nhỏ uống 4-10g với nước nguội
rất công hiệu.
QUẢ CÀ
Cây
cà được nhiều gia đình trồng lấy quả muối món ăn trong bữa ăn.
Quả
cà có vị ngọt, tính lạnh, không độc, có tác dụng chữa nóng lạnh, ngũ tạng hao
tổn, tán huyết ứ, tiêu sưng và cầm máu.
-
Chữa sưng tấy, dùng quả Cà mài với giấm bôi hay giã nhỏ, chưng với giấm đắp
vào.
-
Chân bị nứt các ngón chân sưng đau, dùng rễ và cây Cà khô nấu nước ngâm rửa.
-
Chữa đái buốt ra máu, đi lỵ ra máu, hay loét ruột chảy máu, dùng rễ và cây Cà
khô 40g sắc uống.
-
Chữa lở miệng có nấm, răng sâu, sưng đau, bệnh trĩ ra máu, dùng cuống hay hoa
cà đốt ra tro tán nhỏ, uống với nước cơm, mỗi lần 8g và dùng sát vào chỗ đau.
-
Chữa đại tiện ra máu, hay phụ nữ rong huyết, dùng quả Cà già màu vàng cả cuống,
sao già tán nhỏ, uống mỗi lần 8g với nước giấm nhạt, ngày 3 lần.
QUẢ MƯỚP ĐẮNG
Mướp
đắng được rất nhiều người trồng và dùng chế biến thành các món ăn hàng ngày.
*
Quả mướp đắng có vị đắng, tính lạnh, có tác dụng: trừ nhiệt, sáng mắt, mát tim,
nhuận tỳ, bổ thận, nuôi can huyết, bớt mệt mỏi, giải phiền khát.
*
Hoa mướp đắng chữa đau dạ dày, tán nhỏ uống: chữa đau mắt sắc với Bấc lùng
uống.
*
Hạt mướp đắng có vị đắng ngọt, tăng thêm khí lực, cường dương.
-
Chữa viêm họng, nhai hạt mướp đắng nuốt nước.
-
Chữa trẻ đầu khô sủi vảy trắng, chốc đầu, dùng lá Đào nấu nước gội, rồi nhai
quả và hạt mướp đắnh xoa, hoặc giã nát bôi.
*
Lá mướp đắng chữa đơn độc sưng đỏ và mụn nhọt, đau nhức, sắc một nắm uống với
chén nước, hoặc phơi khô tán bột uống mỗi lần 12g với rượu. Ngoài giã nát tươi
chưng nóng đắp vào.
-
Chữa lao động quá sức hay thức đêm, đi đường xa, hoặc sau khi phòng sự, mệt
mỏi, háo khát, sốt (hư nhiệt), dùng lá Mướp đắng (non), rau Khủ khởi hay lá hoa
Thiên lý nấu canh ăn thì bình phục.
NHÓT
Quả
nhót có vị chua, chát, tính bình có tác dụng: ngừng hen suyễn và cầm ỉa chảy.
-
Chữa hen suyễn, hay khạc nhổ ra máu, dùng lá Nhót khô 30g, lá Bồng bồng lau
sạch lông, 5 lá thái nhỏ, sắc uống.
-
Chữa ỉa chảy và đi lỵ mãn tính, dùng quả Nhót 5-7 quả sắc uống, hoặc dùng rễ
cây Nhót 40g với rễ cây Mơ 20g sắc uống.
-
Chữa thổ huyết và đau họng khó nuốt, dùng rễ cây Nhót 30g sắc uống.
NHÓT TÂY
-
Quả Nhót tây có vị ngọt chua, ăn thì khỏi khát, mát phổi, hạ khí, ngừng nôn,
nhưng ăn nhiều thì sinh đờm, kém tiêu.
-
Lá Nhót tây có vị đắng, tính bình, có tác dụng: chữa ho nhiệt ngừng nôn ợ và
lợi tiểu, dùng 2-4g lá sắc uống hoặc phối hợp với các vị khác.
-
Chữa phổi nóng, ho khan lâu ngày, dùng lá Tỳ bà lau sạch hết lông 12g, Mạch
môn, Vỏ rễ dâu, Thiên môn, Sinh địa mỗi vị 10g sắc uống.
-
Chữa gan lách sưng đau vì đờm kết trở ngại đến việc lưu thông huyết mạch, dùng
hạt Nhót tây giã nhỏ, mỗi lần dùng 10g sắc uống, hoặc phối hợp với Rẻ quạt,
Nghệ đen, mỗi vị 8g sắc uống.
-
Chữa phong ở đầu chảy nước mũi (viêm xoang) dùng hoa cây Nhót tây với búp cây
Đa lông bằng nhau, tán nhỏ, uống mỗi lần 8g, ngày uống 2 lần với rượu nhạt.
*
Lưu ý: Người hư hàn, lạnh bụng kiêng
ăn.
BẠCH CHỈ
Bạch
chỉ vị cay tính ấm, có tác dụng tán phong thấp, giải cảm cho ra mồ hôi, chữa
đau nhức đầu, khớp xương đau buốt, mụn nhọt chảy mủ, dùng 2 - 6g phối hợp với
các vị khác.
-
Chữa tê thấp đau nhức, uống bột Bạch chỉ, Xuyên khung mỗi ngày 8 - 12g với sắc
Ngưu tất hay rễ Cỏ xước 20-30g làm thang. Nếu sưng khớp thì sắc Bạch chỉ 6g và
Hoàng đằng 12g uống.
-
Chữa cảm cúm, sốt gai rét, nhức đầu ê ẩm, thân thể đau mỏi: Bạch chỉ, Xuyên
khung bằng nhau, tán bột uống mỗi lần 2-3g, ngày uống 3-4 lần với rượu hay nước
nóng cho ra mồ hôi.
-
Chữa mụn nhọt mưng mủ liên miên, hay trẻ bị bỏng rạ, thủy đậu dùng: Bạch chỉ, ý
dĩ sao, lượng bằng nhau tán bột, uống mỗi ngày 8-12g với nước Bồ công anh, Khúc
khắc, mỗi vị 10-20g làm thang.
-
Chữa đau răng, sâu răng, dùng bột bạch chỉ thấm bông xỉa vào chân răng.
*
Lưu ý: Người nóng và phụ nữ có thai
không nên dùng.
MÍT
Phụ
nữ ít sữa dùng lá mít sắc uống hoặc hầm quả mít non với gạo nếp và chân giò lợn
ăn thì nhiều sữa. Trâu bò, dê, lợn khi đẻ ít sữa, người ta cũng dùng lá mít non
với Lá dâu tằm cho ăn thì lợi sữa.
Mít
có vị ngọt, mùi thơm, hơi chua, có tác dụng; bổ tỳ ích khí, làm đẹp mày mặt,
khỏi phiền khát, dã say rượu.
Hạt
mít bùi, ngon, bổ trung ích khí, làm cho
khỏi đói mạnh sức, nhẹ mình. Hạt mít nướng hay luộc ăn thì hạ khí, thông
trung tiện.
Gỗ
mít, nhựa mít có tác dụng tiêu sưng, giải độc: chữa sưng tấy mụn nhọt, dùng Gỗ
mít hay lá mít sắc uống và dùng nhựa mít bôi vào chỗ sưng, hay giã lá mít đắp
mụn nhọt, thì bớt sưng khỏi đau.
SẦU RIÊNG
Sầu
riêng là một loại trái cây ăn quả, được nhân dân Nam Bộ trồng nhiều.
Sầu
riêng là một loại quả ngon, bổ và có tác dụng kích thích sinh dục, tình dục.
Hạt
sầu riêng có chất bột rất bổ, rang nướng hay luộc ăn như hạt mít, hoặc dùng làm
mứt kẹo.
Lá
và rễ cây sầu riêng còn được nhân dân dùng 30-40g sắc uống để chữa cảm sốt,
viêm gan vàng da, hoặc phối hợp với lá và rễ Cây đa cùng sắc uống.
GẤC
Gấc
là một vị thuốc được nhân dân ta trồng rất nhiều, thường dùng để lấy quả.
a)
Dầu gấc có chất caroten là tiền sinh tố A, có thể dùng để bồi dưỡng cho người
vừa ốm hay thiếu máu gầy xanh, táo bón, người mắt mờ kém thị lực trẻ khô mắt
quáng gà. Dầu gấc còn có khả năng phòng ung thư cho những người bị sơ gan. Nó
rất cần thiết cho những người bị bệnh gan mãn tính, nhất là trường hợp đã bị
viêm gan virut B. Uống mỗi ngày vài thìa con sau mỗi bữa ăn.
Dầu
gấc còn có khả năng làm da mịn màng, dùng bôi các vết lở bong da, khô da, vết
bỏng và vết thương bị loét.
b)
Hạt gấc vị ngọt, tính ấm hơi độc, uống trong có tác dụng tiêu tích kết, tan u
hạch, bôi ngoài làm tan sưng tấy:
-
Chữa tràng nhạc, bướu, hạch, dùng Hạt gấc rang giòn tán nhỏ, uống mỗi ngày 6g,
sau mỗi bữa ăn.
-
Chữa sốt rét hay các loại u nang, kết hạch, dùng nhân hạt gấc ép bỏ dầu và vảy
tê tê rang phồng, lượng bằng nhau, tán nhỏ, uống mỗi lần 6g ngày uống 12g với
rượu.
-
Chữa sưng vú, quai bị hay sưng chân răng, mài hạt với giấm bôi vào. Chữa vết
thương hay phong thấp đau nhức, dùng hạt gấc rang giòn tán nhỏ ngâm rượu bôi,
xoa bóp.
c)
Dây gấc, phía gần gốc, dùng chữa phong thấp sưng chân phối hợp với đơn gối hạc,
mộc thông, tỳ giải mỗi vị 15g sắc uống. Ngoài ngâm rượu xoa bóp.
*
Lưu ý: Rễ gấc uống trong không được
dùng với các vị cay nóng hay ngâm rượu.
HỒNG BÌ (Hoàng bì)
Hồng
bì là một loại trái cây ăn quả được nhiều gia đình trồng.
Quả
hoàng bì có vị chua, tính bình, có tác dụng: thở khó, tiêu hoá thức ăn, tiêu
đờm, ngừng nôn mửa, chữa đau nhức dưới tim và giun đũa chòi lên,.. dùng quả
nhai cả vỏ nuốt ăn.
Hạt
Hồng bì vị đắng the, tính ấm có tác dụng: chữa đau dạ dày, đau bụng co thắt:
dùng hạt Hồng bì phơi sấy khô tán nhỏ, uống mỗi lần 6-10g ngày uống 2-3 lần.
Lá
Hồng bì vị cay đắng hơi ấm có tác dụng giải cảm nắng, cảm cúm sốt ho và sốt
rét, dùng 40 - 50g sắc uống nóng cho ra mồ hôi.
Chữa
ho cảm, ho gió, dùng quả hồng bì bổ đôi, hấp với đường, ăn rất chóng khỏi.
DƯA GANG
Dưa
gang có vị ngọt, tính lạnh, có tác dụng: lợi tràng vị, khỏi phiền khát, giải
say rượu, dùng muối dưa ăn thì bổ ích hơn.
*
Lưu ý: Dưa gang ăn sống nhiều thì
sinh đau bụng và gây tích kết ở rốn, làm cho người ta hư nhược. Người mới bị
bệnh và tạng hàn thì không nên ăn.
CHUỐI TRĂM NẢI
Chuối
trăm nải là một loại cây ăn quả, được nhiều người trồng. Ăn chuối trăm nải,
người cảm thấy khoan khoái, đêm ngủ không mê mộng, tinh thần tinh sảng, nhẹ
nhõm, người hồi hộp bồn chồn, nóng ruột, hay nghẹn, đôi khi đau bụng, đại tiện
bất thường, ăn chuối "cảnh chùa" hầu như "Bách bệnh tiêu
tán" nên có tên: Chuối vạn phúc.
Về
tác dụng khác, theo thực tiễn.
-
Quả chuối chín ăn thì nhuận tràng, đại tiện thông, khỏi tích trệ.
-
Ăn chuối xanh thì chặt phân khỏi đi tiểu lỏng.
-
Chuối xanh phơi khô dưới nắng nhẹ tán bột ăn vào lúc đói, chữa khỏi viêm loét
dạ dày do tác dụng kích thích sự tăng cường ở màng nhầy chống vị toan và hàn
gắn những vết loét.
QUẢ VÚ SỮA
Quả
vú sữa được dùng làm thức ăn bổ, tráng miệng, có vị ngọt thơm, ngon, thành phần
gồm 0,08% prôtit, 7,3% gluzid và 4 mg% Vitamin C.
Vỏ
cây vú sữa được nhân dân dùng làm thuốc bổ kích thích. Và theo tài liệu Trung
Quốc rễ và lá có tác dụng làm ta máu ứ, hoạt huyết, tiêu sưng và giảm đau, chữa
các chứng bệnh đau nhức sưng tấy.
QUẢ MẮC CỌT
Quả
mắc cọt trông giống quả lê, nhưng bé hơn, có vị chua, hơi ngọt và hơi chát, có
tác dụng: thanh nhiệt, giải khát, sinh tan dịch, thanh đờm, mát phổi, giã ép
lấy nước uống thì khỏi uất nóng, buồn bực ở lồng ngực, nướng ăn chữa được bệnh
lỵ mới phát.
Vỏ
rễ cây Mắc cọt có vị chua chát, tính hàn nấu nước rửa khỏi lở ngứa.
Chữa
lở sần da (lở chàm) thì cạo lấy lớp vỏ trắng giã nhỏ hoà với giấm, dùng vải gói
lại mà tẩm xát vào chỗ đau, chỗ lở.
QUẢ CÀ CHUA
Quả
cà chua được nhiều nhà nông dân trồng thu hái quả và dùng trong chế biến thức
ăn.
Quả
cà chua có vị ngọt, ngọt nhạt, tính mát, có tác dụng bổ huyết, sinh tân dịch,
giúp tiêu hoá, điều hoà bài tiết.
Quả
cà chua còn được dùng trừ rận chấy: vắt nước xát vào chân tóc và bịt khăn giữ
lại một chốc cho thấm đều, rồi gội đầu thì trứng chấy, rận bọ ung và chết hết.
QUẢ TRÁM
Quả
trám có vị chua ngọt, bùi béo, tính ấm, sinh tân dịch, giải khát, thanh giọng,
giải độc rượu, độc cá.
-
Chữa môi chụm lại, không há ra được hoặc bị lở đau không ăn được dùng quả Trám
đốt thành tro, tán nhỏ trộn với mỡ lợn bôi (Nam dược thần hiệu).
-
Chữa hôn mê gần chết, hoặc bị hóc xương cá, dùng quả Trám giã vắt lấy nước,
hoặc sắc uống, liều dùng không hạn chế.
-
Chữa trời rét quá, da bị nứt nẻ, dùng hạt Trám đốt, tán nhỏ, hoà với dầu bôi.
-
Chữa viêm tắc mạch máu: Quả trám trắng nấu luộc ăn mỗi ngày 200g, uống cả nước,
ăn liều trong 50 ngày thì công hiệu.
-
Chữa sâu răng: Quả trám đốt, tán nhỏ, trộn với một tý Hạ hương bôi xỉa.
BỒ KẾT
Quả
Bồ kết thường được nhân dân ta nấu lên dùng để gội đầu, trị chấy, gầu.
Bồ
kết dùng gội đầu và giặt quần áp lụa len không ố và không phai màu. Gia quả và
hạt đều có vị cay, tính ấm, hơi độc, dùng làm thuốc như sau:
-
Gia bồ kết (Tạo giác thích) có tác dụng: chữa nhọt bọc không vỡ mủ, tắc tuyến
sữa, dùng 5-10g sắc uống.
-
Vỏ quả và hạt bồ kết (Tạo giác, Toạ giác tử) có tác dụng: tiêu đờm, khai khiếu,
thông quan, gây nôn và thông đại tiểu tiện, trung tiện, sát trùng.
-
Chữa trứng phong, kinh giản, đờm đưa ngược lên nghẹt thở, khò khè khó thở, dùng
bột Bồ kết (đốt tồn tính) và phèn phi bằng nhau, trộn đều, hoà với nước cho
uống mỗi lần 0,5g ngày uống 3-6g đến khi mửa đờm ra hay hạ đờm xuống được thì
thôi.
-
Chữa bị ngất, hôn mê, cắn răng, dùng quả Bồ kết và hạt đốt cháy tán bột, lấy
một tý thổi vào lỗ mũi thì hắt hơi và xát một tý vào chân răng thì há miệng,
tỉnh ngay. Nghẹt mũi, khó thở hoặc viêm xoang, đốt một quả Bồ kết xông khói vào
mũi thì mũi thông dễ thở.
-
Chữa bí đại tiện, tắc ruột, hoặc bụng trướng sau khi mổ, không đánh trung tiện
được, đại tiểu tiện khó, dùng Bồ kết đốt tồn tính tán bột trộn với dầu lạc hay
dầu vừng (hoặc xà phòng) tẩm vào bông để trong hậu môn.
*
Lưu ý: Bồ kết không thể dùng lâu và
kêing dùng đối với phụ nữ có thai.
QUẢ SẤU
Quả
sấu vị ngọt chua, tính bình, có tác dụng giải khát, sinh tân dịch, giải độc,
giải say rượu, chữa phong độc khắp mình nổi mẩn, mụn cóc sinh lở, ngứa hoặc
đau, ăn nhiều thì khỏi.
Quả
sấu dùng nấu canh cho người bệnh ăn có tác dụng làm ngon miệng và tăng cường
tiêu hoá, nhất là đối với các bệnh nhiệt.
Phụ
nữ có thai hay nôn nghén, nấu canh quả sấu với cá diếc hay thịt vịt ăn cũng
chóng lành, hết nôn nghén.
QUẢ CAM
Quả
cam có vị ngọt chua, tính mát, có tác dụng giải khát, sinh tân dịch, mát phổi,
tiêu đờm, thanh nhiệt và lợi tiểu.
Lá
Cam chữa tai chảy nước vàng hay máu mủ dùg 7 lá non giã với ít nước vắt lấy
nước cốt và hoà một chút muối ăn rỏ vào tai, để một chốc, rồi quấn lấy bông lau
chùi sạch, làm mỗi ngày vài lần sẽ khỏi.
Vỏ
quả cam có vị cay thơm, tính ấm, có tác dụng: tiêu đờm, thông khí trệ, giúp
tiêu hoá, có thể dùng thay vỏ quýt.
Vỏ
cây cam vị ngọt hơi the, tính mát, có tác dụng: hạ khí đầy, điều hoà tỳ vị,
chữa sau khi đẻ bị phù, sắc 20g uống hoặc phối hợp với vỏ bưởi và vỏ chân chim
mỗi vị 12g cùng sắc.
QUẢ KHẾ
Quả
khế có vị chua ngọt, hơi sít, tính bình, có tác dụng; giải khát, sinh tân dịch,
trị phong nhiệt, giải độc, lợi tiểu.
-
Chữa dị ứng do tiếp xúc với sơn, dùng quả thái miếng xát, hay dùng lá vò xát.
-
Chữa đái buốt, đái ra máu, hoặc bạch đới chảy chất vàng trắng hay viêm bàng
quang, âm đạo, dùng lá Khế 100g và rễ Cỏ tranh 40g sắc uống.
-
Chữa nôn oẹ, hay phong nhiệt nổi mẩn sưng ngứa dùng vỏ cây khế, bỏ lớp ngoài,
sắc 40g uống. Phong ngứa thì dùng nước nấy vỏ cây Khế rửa, hay dùng lá Khế vò
xát vào.
-
Chữa ngộ độc: ép nước Khế uống thật nhiều.
Ngoài
ra, quả khế vắt lấy nước dùng tẩy các vết gỉ sắt hoen ố trên vải lụa, quần
áo...
-
Chữa đái không thông: dùng 7 quả Khế chua, cắt mỗi quả lấy một miếng 1/3 phía
gần cuống, đổ vào một bát nước, sắc còn bát, uống vào lúc nóng. Lại lấy 1 quả
Khế và 1 của Tỏi cũng giã đều, đem rịt vào lỗ rốn thì đái thông (Nam dược thần
hiệu).
QUẢ DỨA
Quả
dứa có vị ngọt, tính bình, có tác dụng: giải khát, sinh tân dịch, giúp tiêu hoá,
chống viêm dạ dày ở các trường hợp thiếu vị toan dùng: nước dứa nhuận tràng,
uống nhiều có thể xổ nhẹ, khỏi trích trệ.
-
Chữa tiểu tiện không thông, đái ra cát sỏi, dùng rễ cây dứa 30 - 40g sắc uống.
-
Chữa sốt nóng, nhân dân dùng lá dứa non 30 - 40g giã vắt nước cốt uống hoặc sắc
uống.
QUẢ MƯỚP
Mướp
được rất nhiều gia đình trồng lấy quả, chế biến làm thức ăn hàng ngày. Quả mướp
có vị ngọt, tính bình, có tác dụng thanh nhiệt, trừ thấp, lợi tiểu, tiêu đờm,
mát máu, giải độc, thông kinh mạch, làm ra sữa, khỏi lở sưng đau nhức và bổ
khí, an thai.
-
Chữa tắc tia sữa, dùng quả mướp cả hạt, đốt tồn tính, tán bột uống với rượu,
mỗi lần 8g và dùng xoa đắp ngoài, sẽ thông. ít sữa, thì nấu mướp với chân giò
lợn ăn thì có sữa.
-
Chữa phụ nữ kinh nguyệt không thông hoặc không hành kinh được, dùng một quả
mướp khô, đốt tồn tính tán bột, uống vào lúc sáng sớm, đói lòng, với rượu hoặc
trộn bột quả mướp với tiết vịt tráng làm bánh, ăn mỗi ngày 8 - 16g vào lúc đói
lòng, với rượu.
-
Chữa trẻ em đầu lở loét dùng lá mướp tươi giã nhỏ vắt lấy nước cốt tẩm gội vào
đầu, vào tóc sẽ khỏi.
-
Chữa các loại lở ngứa chảy nước, nấu rễ cây mướp già ngâm rửa thì sẽ khỏi.
-
Chữa đau lưng lâu khỏi, dùng rễ mướp 80 - 120g sắc uống.
QUẢ MẬN
Quả
mận có vị chua chát, tính bình, ăn thì bớt đau nóng khớp xương. Nhưng ăn nhiều
thì sinh nóng âm ỉ trong bụng.
-
Rễ mận có tính lạnh, cạo bỏ lớp ngoài, sắc 20-30g uống chữa khí hư bạch đới,
hay sắc ngậm chữa đau răng.
-
Nhân hạt Mận có vị đắng, tính bình, có tác dụng: lợi tiểu dùng chữa phù thũng
và làm tan máu ứ, chữa bị thương đau xương, dùng 12g phối hợp với các vị khác.
-
Vỏ cây mận (lớp trắng) sắc uống chữa phiền khát, hơi cuộn dưới tim, bệnh lỵ,
bạch đới, dùng 20 - 30g. Sắc ngậm khỏi đau răng và bôi nước sắc làm mụn lở
chóng lành.
-
Nhựa mận có vị đắng, tính lạnh, có tác dụng: chữa mắt sưng đau, dùng 1-2g bột
uống với nước sắc Hạt muồng (sao) làm thang.
-
Hoa mận thơm, vị đắng, dùng xát mặt bị tàn nhang xạm đen, da sẽ được sáng ra.
-
Lá mận có vị chua, tính bình, sắc 20-30g cho uống, chữa trẻ sốt cao co giật.
QUẢ GIUN
Quả
giun có vị ngọt, tính ấm, tác dụng: trục giun tiêu ích và tăng sức tiêu hoá.
Liều dùng 6-20g.
-
Chữa trẻ em cam tích bụng to, mình gầy, mặt vàng, hâm hấp sốt dùng: Quả giun bỏ
vỏ sao vàng, quả xoan bỏ vỏ ngoài và hạt trong, lấy cùi sao, mỗi thứ 40g, vỏ
vối bỏ vỏ tẩm nước gừng sao, vỏ quýt mỗi vị 20g, các vị tán nhỏ, trộn với mật
lợn, viên bằng hạt đỗ, cho uống với nước cơm vào lúc đói theo liều sau: 3-6
tuổi uống 5 viên, 7-9 tuổi uống 10 viên, 10 tuổi trở lên uống 15 viên mỗi lần. Ngày
uống 1-2 lần.
-
Chữa trẻ em bị giun sán, thường đau bụng, miệng ứa nước rãi trong, dùng 3-4 quả
giun, bỏ vỏ, sắc với nước vo gạo cho uống. Hoặc tán nhỏ cho uống mỗi lần 4g hoà
với nước cơm vào lúc rạng sáng.
-
Chữa giun đũa và giun kim, dùng quả giun giã nát sắc uống, người lớn dùng mỗi
lần 10 quả, trẻ em cứ mỗi tuổi dùng 1 quả, uống vào trước khi đi ngủ mỗi ngày
uống 1 lần, uống liền trong 3 ngày.
*
Lưu ý: Uống Quả giun với nước chè thì
dễ gây nấc, buồn nôn và chóng mặt, uống quá liều thì say. Uống Quả giun mà
chiêu với nước nóng thì dễ nôn ra ngay. Vỏ quả, dùng 20g sắc uống thì giã say
rượu. Lá, dùng 30-60g sắc uống chữa giun, sán.
QUẢ NA
Quả
na là loại quả được nhiều người ưa dùng.
Quả
na có vị ngọt hơi chua, tính ấm, có tác dụng: hạ khí, tiêu đờm, chữa đi lỵ và
tiết tinh, đái tháo, người có bệnh tiêu khát nên ăn.
-
Chữa nhọt ở vú: dùng Quả na điếc mài với giấm bôi nhiều lần.
-
Chữa đi lỵ ra nước không dứt, dùng 10 quả Na ương bổ ra,cho vào 2 lít nước, sắc
còn 1 lít đem ăn và uống cả nước.
-
Chữa sốt rét cơn dùng lá Na một nắm 20-30g giã nhỏ chế nước sôi vào vắt lấy
nước cổ tung tâm bát, phơi sương 1 đêm, rồi đem uống vào trước lúc lên cơn 2
giờ, mỗi ngày uống 1 lần, uống liền 5-7 ngày.
-
Hạt na dùng trừ chấy rận: đem giã nhỏ ngâm nước gội đầu hay ngâm quần áo. Dùng
trừ chấy thường người ta giã nhỏ hạt na trộn với rượu, đem xát vào chân tóc,
bịt khăn lại, giữ 15 phút rồi gội đầu. Tránh để giây vào mắt, có thể gây hỏng
mắt.
*
Lưu ý: Ăn nhiều quả na có thể sinh
nóng, rôm xảy, mạch yếu. Nhân hạt na có độc mạnh không được dùng uống.
QUẢ CAU
Quả
cau thường được các cụ ăn với lá trầu không.
-
Vỏ quả cau gọi là Đại phúc bì có vị cay, tính hơi ấm, tác dụng: hạ khí, tiêu
trướng đầy và lợi tiểu, tiêu phù thũng trước bụng.
-
Rễ cau cũng được dùng làm thuốc có tác dụng: cường dương, với liều 40-60g lấy
thứ rễ trắng ở dưới đất sao vàng sắc uống. Lưu ý dùng nhiều rễ cau: tán khí có
hại.
-
Hạt cau gọi là Tân lang nhân (còn có tên là Binh lang) có vị cay đắng chát,
tính ấm, tác dụng: sát trùng, lợi tiểu và thông đại tiện.
-
Chữa giun đũa và sán làm đau bụng, miệng ứa ra nước trong, dùng: hạt cau khô
80g tháo nhỏ, đổ 2 bát rượu, sắc lấy một bát, chia uống dần trong 1 giờ cho
hết, giun sán sẽ ra.
-
Hoặc phối hợp với ăn hạt Bí ngô: sáng sớm ăn hạt Bí ngô (rang cho đến khi chín)
rồi sắc 80g hạt cau lấy 600ml uống tiếp sau khi ăn hạt Bí ngô 2 giờ. Sau đó
uống thuốc tẩy để sổ giun sán ra.
QUẢ VẢI
Cây
vải được người dân Hưng yên trồng rất nhiều, thu hái làm quả ăn và chế biến làm
thuốc.
-
Quả vải có vị ngọt chua, tính mát, có tác dụng mát phổi, bổ tỳ, khoan khoái,
bớt bốc nóng, nặng đầu.
-
Hạt vải có vị ngọt chát, tính ấm có tác dụng: làm ấm bụng, chữa đau bụng và đau
tinh hoàn.
-
Vỏ cây vải có tính thi liễm, dùng chữa ỉa chảy.
-
Chữa dái sưng to dùng: hạt vải, thanh bì (bỏ ruột), hoa hồi bằng nhau, sao tán
bột, uống mỗi lần 8g với rượu.
-
Chữa đau bụng khi hành kinh hay sau khi đẻ dùng: hạt Vải đốt tồn tính (không
thể cháy thành than) 20g, Củ gấu (Hương phụ) sao 40g, tán nhỏ, uống mỗi lần 8g
với nước muối nhạt hay nước cơm, ngày uống 2, 3 lần.
-
Chữa răng sưng đau có sâu dùng: quả Vải xanh để cả vỏ đốt tồn tính, tán nhỏ xát
vào chân răng.
CHÔM CHÔM
Dùng
quả xanh và vỏ quả có chất tanin, nhân dân thường dùng sắc uống, chữa ỉa chảy,
kiết lỵ, với liều 20-30g (kinh nghiệm).
Hạt
Chôm chôm có vị đắng và gây say, không ăn được (nó chứa một chất dầu béo, đặc,
có thể dùng làm xà phòng hay nến).
QUẢ MĂNG CỤT
Quả
măng cụt được nhân dân Nam bộ trồng rất nhiều, vỏ quả măng cụt có vị chát,
thường làm thuốc cầm ỉa chảy hay đi lỵ lâu ngày: sắc 10 - 20g uống.
QUẢ HỒNG
Quả
hồng có vị ngọt, chát, tính bình, có tác dụng: nhuận phế, sinh tân dịch, làm
bớt khô háo, tiêu đờm, bớt ho và chặn chôn, nấc, ngừng ỉa chảy... Dùng quả hồng
xanh giã vắt lấy nước uống hay nhai, nuốt nước. Hồng khô thì sắc nước uống.
Chữa
nấc cụt, nôn mửa, thổ huyết, đái đêm: dùng tai hồng (thị đế) 10 - 20g sắc uống.
Quả
hồng chín có tác dụng bổ hư lao, nhuận tâm, phế nhưng kiêng ăn đối với những
trường hợp mới cảm gió lạnh, đờm thấp, bụng đầy, sốt rét cơn và các bệnh sau khi
mới sinh ở phụ nữ.
Chữa
băng huyết, đại tiểu tiện ra máu, đi lỵ ra máu và ỉa xối không dứt, dùng vỏ cây
hồng và rễ 60 - 80g sắc uống.
DƯA CHUỘT
Dưa
chuột có vị ngọt, tính lạnh, có tác dụng thanh nhiệt, giải khát, lợi tiểu, chữa
phù thũng và trẻ em kiết lỵ.
Chữa
hội chứng lỵ ở trẻ em, dùng 10 quả dưa chuột non nấu với mật cho trẻ ăn dần,
trong 1 - 2 ngày thì khỏi.
Chữa
phù thũng, bụng chướng, tay chân đều phù, dùng một quả dưa chuột to bổ ra, để
cả hạt nấu với giấm cho đến chín nhừ, ăn vào lúc sáng sớm đói lòng, ăn hết cả
nước lẫn cái thì nước sẽ rút dần và hết phù thũng.
Chữa
trị mèo cào phải, sinh sưng, đau dùng dễ cây dưa chuột giã nhỏ, đắp vào thì
khỏi.
Lá
cây dưa chuột giã nhỏ vắt lấy nước cốt uống thì gây nôn tháo, có thể dùng để
chữa ngộ độc.
* Lưu ý: Ăn nhiều dưa chuột thì sinh đái nhiều, vãi
đái và dẫn đến liệt dương. Người lạnh bụng và thận hư không nên ăn.
QUẢ LỰU
Vỏ
quả và vỏ rễ, thân đều có vị đắng chát, có tác dụng: sát trùng, cầm ỉa chảy.
Ỉa
chảy không dứt: dùng vỏ quả lựu 20g sắc uống.
Chữa
són đái: Vỏ cây lựu cạo bỏ lớp vỏ ngoài, vỏ rễ dâu mỗi loại 20g sắc uống.
*
Lưu ý: Phụ nữ có thai và trẻ nhỏ
không nên dùng.
CÂY XOÀI
Quả
xoài ngon và bổ, có chừng 20% chất đường, một tỷ lệ caroten, vitamin C và B khá
cao.
Vỏ
quả xoài được dùng làm thuốc xổ và cầm máu. Chữa rong kinh, ho khạc ra máu, đại
tiện ra máu, lỵ mãn tính, bạch đới: dùng 30g sắc uống.
Nhân
hạt xoài, hạt quéo dùng làm thuốc trừ giun, phối hợp với hạt chanh giã nát, mỗi
vị 5 - 20g sắc uống lúc sáng sớm, đói. Uống vài lần sẽ ra giun.
Thông
lợi, đại tiện dùng 50g sắc uống.
Vỏ
cây xoài hay cây muỗm dùng trị sưng viêm, lở loét, sắc đặc ngâm rửa, đối với
bệnh loét, sưng lợi chân răng thì sắc đặc ngậm súc miệng rồi nhổ đi.
QUẢ BẦU
Quả
bầu có vị ngọt, tính hơi lạnh, có tác dụng trị tâm nhiệt phiền khát, nhuận
tràng, lợi tiểu, chữa bệnh tiêu khát, đái tháo và máu nóng sinh mụn, lở.
Hạt
bầu dùng chữa lợi răng sưng đau, răng lung lay, tụt lợi chân răng lộ ra: dùng
hạt bầu với ngưu tất, mỗi vị 20g sắc lên ngậm và súc miệng, ngày làm 3 - 4 lần.
Lá
bầu có vị ngọt, tính bình, có thể làm thức ăn chống đói. Tua cuống và hoa bầu
có tác dụng giải độc, nấu cho trẻ để phòng ngừa bệnh sởi, lở ngứa.
*
Lưu ý: Bầu tính lạnh, ăn nhiều sinh
nôn tháo. Người lạnh dạ nên kiêng.
BÍ ĐAO
Bí
đao có vị ngọt, tính lạnh, có tác dụng lợi tiểu, tiêu phù thũng, giải khát, trừ
phiền nhiệt.
Chữa
phù thũng (cả mình và mặt): Bí đao, hành củ nấu với cá chép ăn.
Chữa
đái không thông do bàng quang nhiệt hoặc đái đục ra chất nhầy: Vỏ bí đao sắc
đặc uống nhiều sẽ đái thông.
Chữa
trường hợp ung nhọt ở phổi hay ở đại tràng dùng: hạt bí đao, bồ công anh, kim
ngân hoa, ý dĩ (sống), diếp cá mỗi vị đều 40g, rễ nâu 20g, hạt đào, cát cánh,
cam thảo mỗi vị đều 10g sắc uống.
Chữa
chín mé đầu ngón tay sưng đau dùng: lá bí đao giã nát, xào với giấm, đắp rịt,
khô lại thay.
HỒNG XIÊM
Quả
hồng xiêm chín có vị ngọt, tính mạt, có tác dụng: bổ mát, sinh tân dịch, giải
khát, nhuận tràng.
Vỏ
cây hồng xiêm già và quả xanh có chất chát, thu sáp, cầm ỉa chảy. Trị ỉa chảy,
đi tả: dùng vỏ cây hoặc quả xanh 15 - 20g sắc uống thì cầm ngay.
Người
đại tiện táo ăn 3 - 4 quả hồng xiêm thật chín thì nhuận tràng, đại tiện dễ
dàng.
ĐU ĐỦ
Quả
đu đủ chín có vị ngọt, rất bổ, ăn nhiều thì nhuận tràng và tiêu các thức ăn
tích trệ.
Những
người táo bón nên ăn nhiều để thông đại tiện và thường những trường hợp ăn
nhiều trứng, thịt thì nên ăn đu đủ tráng miệng vừa làm thuốc tiêu thực rất tốt.
Lá
đu đủ nấu nước dùng tẩy sạch các vết máu ở vải và rửa vết loét, vết thương, sát
trùng.
Đu
đủ xanh có tác dụng tiêu mạch, nhưng ăn nhiều thì xót ruột, người có bệnh đau
dạ dày nên ăn kiêng. Nhựa đu đủ bôi mặt bị tàn nhanh, hắc lào mới phát.
QUẢ ME
Quả
me có vị chua, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, giải cảm nắng, tiêu hoá thức
ăn, giải khát, chống nôn oẹ. Gỗ cây me sắc uống có tác dụng nhuận tràng, lợi
tiểu nhẹ, vỏ cây me sắc uống chữa lỵ và ngậm súc miệng chữa viêm lợi răng. Lá
me nấu nước tắm khỏi lở, ngứa, tích dùng để phòng bệnh ngoài da về mùa hè cho
trẻ em.
Chữa
có thai táo bón, người già táo bón mãn tính: sắc gỗ me 100g uống hàng ngày thay
chè.
Chữa
có thay chán cơm hay nôn nghén: ăn mứt me hoặc sắc quả me uống nước.
ỚT
Ớt
có vị cay, tính nóng, có tác dụng tiêu đờm, hạ khí sát trùng, kích thích tiêu
hoá, làm ăn ngon miệng và giúp chóng tiêu các chất tanh, béo, lạnh.
Lá
ớt được có thể chữa bệnh sốt rét cơn với liều 30g giã nát, chế nước đun sôi vào
vứt lấy một bát nước cốt, uống vào trước khi kên cơn khoảng 2 giờ, mỗi ngày
uống 1 lần, uống 5 - 7 ngày liền.
Hạt
ớt tán bột phối hợp với các vị thuốc khác dùng chế cao dán chữa tê thấp. Chữa
nôn ói, hàn tả uóng 1 - 3g.
Lá
ớt còn được dùng ngậm chưa ho đờm khi cảm lạnh và giã nát đắp vào vết thương
rắn, rết cắn hay mụn bọc không vỡ mủ.
*
Lưu ý: Hạt ớt rất nóng, có thể gây
phồng da, viêm niêm mạc. Ăn nhiều rất có hại cho dạ dày. Người nhiệt, máu nóng
không nên dùng.
XƯƠNG RỒNG BÀ
Xương
rồng bà thường mọc hoang hoặc được người dân trồng làm hàng rào quanh vườn nhà.
Xương
rồng bà: có vị đắng, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, tiêu viêm, giải độc, lợi
tiểu, cầm ỉa chảy.
Chữa
sưng vú, quai bị, bị thương sai khớp, rắn cắn: dùng lá, cành tươi bỏ gai, giã
nát đắp rịt.
Chữa
lỵ trùng cấp tính và đau vùng tâm vị: dùng 40 - 80g cành lá tươi sắc uống.
Dùng
mủ nhựa uống chữa hen suyễn.
Lá,
cành tươi giã nát đắp chữa trâu, bò chân bị lở loét.
QUẢ NHO
Quả
nho có màu xanh hoặc tím, vị ngọt hơi chua, tính bình, có tác dụng mạnh gân
cốt, trừ tê thấp, ích khí, thêm sức, mạnh trí làm cho cơ thể khoẻ mạnh, chịu
được đói, thích nghi với gió lạnh, lợi tiểu tiện, làm cho nhẹ mình, đại bổ khí
huyết.
Chữa
động thai hay nôn nghén: quả nho 40g ăn hoặc sắc uống nước.
Chữa
đau lưng, mỏi gối, đái buốt, nôn oẹ, buồn nôn hay động thai: lá, dây, rễ nho
20g sắc uống.
QUẢ BƯỞI
Vỏ
quả bưởi còn có tên Cam phao, có vị đắng, cay, tính không độc. Có tác dụng
thông lợi, trừ đờm, táo thấp, hoà huyết, giảm đau, trị tràng phong, đau ruột,
tiêu phù thũng. Bỏ cùi trắng, lấy lớp vỏ vàng sao dùng.
Chữa
sản phụ hậu phù thũng, cùng các trường hợp phù thũng khác dùng: Vỏ bưởi khô và
ích mẫu lượng bằng nhau tán nhỏ uống mỗi lần 8g với rượi vào lúc đói hoặc mỗi
vị 20 - 30g sắc uống.
Chữa
phù thũng trướng bụng: vỏ bưởi đào, mộc thông, bồ hòn, mỗi vị 20 - 30g, diêm
tiêu 12g, cỏ bấc 8g, sắc uống mỗi ngày 2 lần vào lúc đói và ăn một mẩu mía
trước và sau khi uống thuốc. Kiêng muối và chất mặn (Bách gia trân tàng của Lãn
Ông).
Chữa
cảm lạnh, hay đau bụng do lạnh: đốt vỏ bươi khô xông vào rốn.
Nếu
khó chịu, đầy trướng bụng, lấy một ít vỏ bưởi, cạo hết cùi trắng, đem sao vàng
thơm, tán bột uống sẽ rất nhanh khỏi.
Tép
bưởi (múi bưởi) ăn nhuận tràng, chống táo bón, giải nhiệt, chống háo khát, giải
rượu.
Hạt
bưởi có tác dụng: chữa các chứng đau dạ dày lấy một vốc hạt bưởi (để cả vỏ
cứng) rửa sạch cho vào cốc thuỷ tinh, rót nước sôi vào, đạy kín, ủ ngâm 2 - 3
giờ đem gạn lấy nước bỏ hạt uống. Có thể cho thêm một chút đường. Uống liên tục
trong nhiều ngày.
BÍ NGÔ
Phòng
bệnh viêm não, viêm màng não: nấu bí ngô ăn.
Trục
giun sán: dùng hạt bí rang ăn no rồi uống nhiều nước pha muối cho đi ngoài thì
tẩy sán ra.
Từ
kinh nghiệm trên ta có thể dùng hạt bí ngô để tây giun sán như sau:
1.
Lấy hạt bí ngô, bóc vỏ cứng, để nguyên màng xanh ở trong, dùng 100g nhân giã
nhỏ, chế vào 60ml nước, thêm vào 60g mật hay đường trộn đều, ăn vào lóc tảng
sáng khi đói, ăn hết một lúc sau đó nằm nghỉ, sau khoảng 3 giờ uống thuốc tẩy
muối sunfat magie 1 liều hoặc 10g phác tiêu muối natri hoà trong 1 cốc nước
nguội sau đó đổ 1 lít nước nóng pha thêm 2 - 3 lít nước lạnh vào trong chậu, để
cho bệnh nhân đi ngoài ngồi vào trong chậu nước ấm thì sán sẽ ra ngoài hết.
2.
Lấy hạt bí ngô cả vỏ 300g đem xay hoặc giã nhỏ, đổ vào 600ml nước đun cách thuỷ
trong 2 giờ lọc bỏ bã vớt bỏ váng ở trên, hoà thêm một ít đường vào uống hết
trong nửa giờ, nằm nghỉ, sau 3 giờ uống thuốc tẩy.
Liều
dùng cho người lớn. Trẻ em 3 - 4 tuổi dùng 30 - 40%, trẻ 5 - 7 tuổi dùng 50%,
trẻ 8 - 10 tuổi dùng 70%, trẻ 11 - 13 tuổi dùng 85%.
BỒ CÔNG ANH
Cây
bồ công anh được nhiều gia đình trồng, nấu lên để uống chữa trị dị ứng, mụn
nhọt...
Bồ
công anh có vị đắng ngọt, tính lạnh, có tác dụng: thanh nhiệt, giải độc, chữa
mụn nhọt và sưng vú dùng 30 - 40g sắc uống. Hoặc dùng lá tươi giã nhỏ chế thêm
nước, vắt lấy nước cốt uống, bã thì đắp.
Chữa
mắt đau sưng đỏ dùng bồ công anh 40g, dành dành 12g sắc uống.
QUẢ SỒI
Nhân
quả cây sồi có vị đắng chát, tính bình, không độc.
Tác
dụng: Đồ lên, giã thành bột uống cầm tả lỵ.
Vỏ
cây sồi có vị đắng chát, sắc uống chữa lỵ, chảy máu và trừ giun (kinh nghiệm
dân gian).
ĐẬU VÁN TRẮNG
Đậu
ván trắng có vị ngọt, tính hơi ấm có tác dụng bổ dưỡng và tăng sức tiêu hoá,
giải độc, chữa trong bụng cồn cào, nôn mửa, ỉa chảy, dùng 20 - 30g sắc uống
hoặc tán bột uống.
Chữa
mùa hè bị thổ tả, dùng đậu ván trắng sao vàng, tán bột uống với giấm. Hoặc dùng
lá đậu ván, hương nhu mỗi thứ một nắm, giã nhỏ, chế giấm vắt lấy nước cốt uống
hoặc sắc uống.
Chữa
trẻ em tỳ vị hư yếu, hay ỉa chảy, bụng to, thịt nhẽo, người gầy gò dùng: Đậu
ván trắng, ý dĩ, hoài sơn đồ lên, xào già, tán bột, 3 vị bằng nhau, mỗi vị 80g
trộn đều với mật ong hay kẹo mạch nha làm viên, cho uống mỗi ngày từ 15 - 20g.
Hoặc dùng 3 vị sao, tán bột, mỗi lần dùng 20g, chế nước cơm vào, hấp trên nồi
cơm rồi cho ăn.
Chữa
cảm sốt, nôn mửa, trong bụng cồn cào, bụng đầy không khí, ỉa chảy: dùng đậu ván
trắng sao 20g, hương nhu 16g, hậu phác 12g sắc uống.
Hạt
đậu ván trắng (bạch biển đậu) dùng 100g kết hợp với ý dĩ, hoài sơn 100g, hạt
sen 100g, đẳng sâm 100g, sa nhân 20g, trần bì 10g, mạch nha 30g tất cả tán bột
trộn với mật ong làm thành viên. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 6 - 8g. Chữa cam
tích, trẻ em bị gầy còm, xanh xao, biếng ăn, rối loạn tiêu hóa kéo dài, tiêu
chảy thất thường.
Chữa
tiêu chảy, tiểu ít, đau bụng, sôi bụng dùng hạt đậu ván trắng12g sao vàng, rau
lá 10g (sao vàng), sa nhân (hoặc hương nhu) 8g, hương phụ (củ ấu) 8g, hạt mã đề
8g, gừng tươi 2g sắc uống.
Giải
độc trong các trường hợp ngộ độc, để sơ cứu có thể giã nát 20g đậu ván trắng
thêm nước gạn uống.
Chữa
say do ăn phải nấm độc: dùng lá hoặc quả rửa sạch, vò nát (giã) vắt lấy nước
uống.
Rễ
đậu ván trắng với quả trám đen, đốt thành than, hãm nước uống: chữa chứng hóc
xương.
TRẦM HƯƠNG
Trầm
hương có vị cay, hơi ngọt, tính ấm, có tác dụng: bổ thận khí, tăng cường chức
năng liễm nạp khí xuống và thêm sức vận hoá của tỳ, thận, chữa bệnh người già
hư yếu, hen suyễn, thở dốc, khó thở, bệnh nguy phát nấc không ngớt dùng 6 - 10g
mài uống hoặc phối hợp với các vị khác .
Chữa
bệnh nặng phát nấc, hay nôn ói dùng trầm hương, đậu khấu, hạt tía tô mỗi vị 4 -
6g sắc uống.
Chữa
bệnh do xúc động tinh thần, khí dồn lên thở gấp, buồn bực không ăn được, dùng
trầm hương, nhân sâm, ô dược, hạt cau mỗi thứ đều 6g sắc uống.
XƯƠNG RỒNG
Xương
rồng có vị đắng, tính lạnh, hơi độc, có tác dụng trừ thấp nhiệt, tiêu độc, bớt
sưng. Mủ nhựa có tác dụng xổ mạnh, được dùng chữa phù thũng, trướng bụng. Nhân
dân dùng 0,5ml mủ xương rồng tẩm vào thịt cá trê nướng lên ăn thì tháo nước rất
mạnh và xổ hết tích độc trong bụng.
Chữa
mụn nhọt, sưng tấy, lấy mủ bôi chỗ đau hoặc lấy cành non giã nát.
Chữa
đau lưng, cứng xương sống, dùng cành non giã nhỏ, chưng nóng chườm và đắp vào
chỗ đau, thường rải thuốc ra chiếu rồi nằm ngửa đặt lưng lên (kinh nghiệm dân
gian).
*
Lưu ý: Tránh dùng xương rồng cho
người già hư yếu và trẻ em. Phụ nữ có thai tuyệt đối không được dùng.
RÂU NGÔ
Râu
ngô và ruột ngô có vị ngọt, tính bình, có tác dụng: lợi tiểu, tiêu phù thũng,
thông mật, cầm máu dùng dâu ngô 30 - 40g, bấc cây ngô 100 - 200g sắc uống.
Râu
ngô sắc uống chữa lợi tiểu.
Chữa
đái đường: hạt ngô nhúng nước ủ cho mọc mầm, dùng mầm sấy khô, tán bột, uống
mỗi ngày 20 - 30g với nước sắc khoai lang làm thang. Hoặc ăn chè nấu với củ
mài, đồng thời ăn rau lang đỏ nấu canh hàng ngày (kinh nghiệm).
Chữa
huyết áp cao: uống nước luộc ngô hàng ngày, mỗi ngày uống 2 - 3 lần, mỗi lần
vài bát. Uống liền vài ba tháng thì huyết áp trở lại bình thường và ổn định.
Chữa
phù thũng: viêm thận cấp, đái đỏ hay viêm gan tắc mật, đái vàng, da vàng, sỏi
thận dùng hoặc râu ngô 40g hoặc ruột cây ngô 100g sắc uống (kinh nghiệm).
NHÂN TRẦN
Nhân
trần có vị đắng the, tính mát, có tác dụng: Thanh nhiệt, lợi thấp, lợi tiểu,
làm ra mồ hôi, chữa bệnh vàng da dùng 20 - 40g hoặc phối hợp với các vị khác.
Chữa
trúng nắng, nhức đầu, sốt nóng: Nhân trần, hành trắng lượng mỗi vị một nắm sắc
uống.
Chữa
hoàng đản, vàng da: nhân trần 30g, dành dành 24 quả sắc rồi mỗi lần uống hoà
thêm 4 - 6g bột thạch cao nung cho vào thuốc (Nam dược thần hiệu).
Chữa
mắt sưng đỏ, đau dùng: nhân trần, mã dề mỗi vị một nắm sắc uống (Nam dược thần
hiệu).
THÀI LÀI TÍA
Thài
lài tía thường được trồng làm cây cảnh.
Thài
lài tía có vị ngọt, tính mát có tác dụng lợi tiểu, nhuận tràng, thanh nhiệt,
mát huyết dùng 30 - 40g sắc uống.
Chữa
mụn nhọt sưng tấy dùng: thài lài tía, cây sống đời (thuốc bỏng) mỗi vị 20 - 30g
giã tươi, thêm nước, vắt lấy nước cốt uống, bã dùng đắp chỗ sưng.
Chữa
đái buốt, kiết lỵ: thài lài tía, mộc thông hoặc mã đề 20g, sắc uống.
THÀI LÀI TRẮNG (Đỗ nhược)
Rễ
cây thài lài trắng có vị cay, tính ấm, có tác dụng ôn trùng hạ khí nghịch, chữa
ngộ lạnh nôn ói, đau bụng thổ tẩ, đầu sưng đau, chảy nước mắt, nước mũi, hay
chóng mặt, mắt mờ, sây xẩm dùng 10 - 20g sắc uống. Nấu nước súc miệng chữa
chứng hà ra hơi thối và xông rửa khỏi phong nhiệt ở ngoài da.
BẠCH ĐÀN
Cây
bạch đàn thường được trồng để lấy gỗ. Bạch đàn có vị cay, hơi đắng, mùi thơm,
tính bình, có tác dụng chống bệnh ngoài cảm và sát trùng.
Chữa
cảm cúm, cảm sốt, ớn lạnh, ho đờm hoặc chống viêm não lúc đầu dùng 40g lá cành
tươi hay 20 lá khô (lấy lá bánh tẻ phơi râm cho khô) cho vào ấm, đạy kín, đun
sôi vài dạo, để xông hơi và rót một bát uống nóng cho ra mồ hôi. Hoặc uống tinh
dầu 8 - 15 giọt chiên với nước nóng, ngoài dùng tinh dầu xoa.
Chữa
lở loét, nổi mẩn ngứa, bị thương sắc lá, uống 1 chén và rấp nóng vào chỗ đau
hoặc ngâm rửa.
Trẻ
em lở đầu, viêm da đều nấu nước bạch đàn gội đầu, rửa chữa mề đay, dùng lá non
vò sát.
LÔNG CU LY
Lông
cu ly có tác dụng cầm máu và làm vết thương mau lành. Thân rễ có vị đắng, ngọt,
tính ấm, có tác dụng trị phong thấp đau lưng, bại liệt, vãi đái, di tinh, bạch
đới dùng: 12 - 20g phối hợp với các vị khác.
Chữa
phong thấp đau nhức khớp xương, tay chân yếu mỏi, bại liệt co quắp dùng: cẩu
tích 16g, tục đoạn, cốt toái bổ đều 12g, độc hoạt 12g, xuyên khung, bạch chỉ
đều 4g sắc uống.
Chữa
thận hư, sống lưng đau mỏi, đái luôn, vãi đái, bạch đới, di tinh dùng: cẩu tích
16g, thục địa 12g, đỗ trọng dây 12g, ô dược, củ súng, dây tơ hồng sao, quả kim
anh, mỗi vị 8g sắc uống.
CHÈ
Chè
có vị đắng, chát, hơi ngọt, tính mát, có tác dụng: thanh nhiệt, giải khát, tiêu
cơm, lợi tiểu, làm cho đầu óc thư thái, da thịt mát mẻ, khỏi chóng mặt, sây
xẩm, bớt mụn nhọt, cầm tả lỵ. Nấu nước rửa vết bỏng hay lở loét thì chóng se
da, liền sẹo.
Chữa
ỉa chảy, hay đi ngoài ra máu (lỵ) dung: búp chè, búp ổi, mỗi thứ một nắm sao
vàng sắc uống.
BỒ CU VẼ
Bồ
cu vẽ vị đắng, tính mát, có tác dụng: thông mạch, hoá ứ, mát máu, tiêu độc,
tinh nhiệt tiêu viêm dùng 20 40g sắc uống. Hoặc phối hợp với các vị khác.
Chữa
bệnh giang mai: bồ cu vẽ, khúc khắc đều 80g, rễ trưởng lão 20g sắc uống.
Chữa
viêm họng, sưng A-mi-đan, đau dạ dày, lỵ mới phát, dùng dễ bồ cu vẽ khô 20g sắc
uống.
Chữa
rắn cắn: lá bồ cu vẽ giã tươi, chế nước vào vắt lấy nước cốt, mài hùng hoàng 1
- 2g vào uống.
Chữa
nổi mẩn, viêm da, chốc đầu, lở loét, dùng lá bồ cu vẽ tươi giã nát, xoa, đắp.
BÁCH BỘ
Bách
bộ vị ngọt tính bình, có tác dụng: nhuận táo, sát trùng, chữa long đờm, ho lao,
nhuận tràng, trừ giun. Dùng ngoài trừ chấy giận, trị ghẻ ngứa.
Chữa
giun đũa, giun kim, táo bón, dùng bách bộ 20 - 30g sắc uống vào lúc sáng sớm
chưa ăn gì thì sẽ đi ngoài ra giun. Giun kim thì dùng nước sắc bách bộ thụt vào
hậu môn lúc 19 - 21 giờ và bịt giữ lại ít nhất 15 - 20 phút.
Chữa
ho lao hay ho lâu, sốt ấm, khô khát, phổi ráo, thở yếu, suy nhược cơ thể dùng:
bách bộ, sa sâm bắc, sâm bố trích, thiên môn mỗi vị đều 10g, vỏ rễ dâu tẩm mật
sao, cam thảo dâu (dùng lá tươi) sao mỗi vị đều 8g, sắc uống.
Bách
bộ 100 - 200g nấu nước, sắc đặc dùng gội đầu thì hết chấy hoặc tắm thì hết ghẻ
lở, bớt ngứa.
TIỂU HỒI
Tiểu
hồi có vị cay, tính ấm, có tác dụng như: đại hồi, làm ấm bụng, tan hơi lạnh,
chữa đau bụng do lạnh, nôn mửa, ỉa chảy, đờm họng ho hen, tích trệ và sốt rét
cơn. Dùng 3 - 6g hoặc phối hợp với các vị khác.
Chữa
dịch sốt rét ác tính dùng hạt tiểu hôig giã tươi vắt lấy nước cốt uống hoặc tán
bột sắc uống.
Chữa
đau dọc mạng sườn dùng: tiểu hồi sao vàng 40g, chỉ xác sao 20g, tán bột mỗi lần
uống 8g với rượu hoà thêm muối, ngày uống 2 lần.
*
Lưu ý: Tinh dầu tiểu hồi dùng mỗi lần
4 - 10 giọt. Chữa đờm lạnh sinh hen, ngực căng khó thở hay ăn uống không tiêu,
lưng, ngực tức đầy dùng: tiểu hồi, hạt cải trắng, hạt cải củ, hạt tía tô, các
vị bằng nhau, tán nhỏ uống mỗi lần 1g, ngày uống 3 lần. Ngoài dùng bột này chưng nóng với
rượu, gói vải xoa chườm vào ngực, bụng.
SA NHÂN
Sa
nhân có vị cay, tính ấm, hơi sít, tác dụng: trừ lạnh, làm ấm bụng, tiêu tích
trệ, bớt nôn đầy, mạnh tỳ, vị, an thai. Dùng 4 - 8g tán bột uống hoặc phối hợp
với các vị thuốc khác.
Chữa
có thai bị đầy, lạnh trệ, tiểu tiện không thông, dùng sa nhân và hương phụ 2 vị
bằng nhau, tán bột, uống mỗi lần 3 - 4g, ngày uống 3 lần hoặc sắc uống (Nam
dược thần hiệu).
Chống
lạnh ở nơi rừng núi và phòng bệnh sốt rét ác tính, dùng sa nhân thường nhấm ăn
đôi hạt hay ăn trầu với sa nhân (nhai trầu, cau, vôi thêm sa nhân) và nuốt
nước.
Chữa
tỳ, vị khí trệ, đau bụng đầy trướng, nôn mửa, ỉa chảy, ăn uống không tiêu, hoặc
trẻ em cam tích, ỉa chảy dùng: sa nhân, chỉ xác, bạch truật mỗi vị 8g, mộc
hương 4g, tán bột uống mỗi lần 3 - 4g, ngày uống 3 lần hoặc sắc uống.
HỒI HƯƠNG
Hồi
hương có vị cay, tính ấm, có tác dụng: cảm phong hàn, người lạnh co quắp, ăn
uống không tiêu, đau bụng thổ tả, thận lạnh, đau lưng, đái nhiều, vãi đái dùng:
hồi hương tán bột uống mỗi lần 2g với rượu, ngày uống 3 - 4 lần hoặc dùng tinh
dầu hồi uống mỗi lần 4 giọt, ngày uống 3 - 4 lần.
Chữa
hơi thở miệng thối, dùng hoa hồi nhai nuốt mỗi ngày vài cánh sẽ khỏi.
*
Lưu ý: Loại hoa hồi núi 8 cánh có mũi
cong lên, có độc không dùng uống được.
HUYỀN SÂM
Huyền
sâm có vị đắng, ngọt hơi mặn, tính hơi lạnh, có tác dụng thanh hoả bổ thuỷ,
thêm tinh dịch làm mát dịu, chống khô khát, chữa sốt cao, cuồng loạn, chữa các
chứng bệnh ôn nhiệt, phát ban, bốc nóng sưng viêm, xuất huyết, nóng âm ỉ, sốt
nhiều, sưng lở mụn nhọt, kế hạch dùng 20 - 30g sắc uống.
Chữa
các bệnh âm hư sinh nội nhiệt: sốt cao, sưng viêm, phiền khát dùng: huyền sâm,
sinh địa, quyết minh tử sao các vị đều 24g, đơn bì, bạch thược, mạch môn, ngưu
tất các vị 12g, chi tử, hoàng đẳng, cam thảo các vị đều 8g sắc uống.
Viêm
phổi, ho sưng họng: gia cát cánh, bạch bộ, thiên môn, thiên hoa phấn các vị đều
10g.
Viêm
gan truyền nhiễm vàng da: gia mộc thông 16g, chỉ xác 8g. Gan cứng, không tiêu
thêm nga truật, nhân trần nam 10g.
Viêm
cầu thận, phù thũng, đái ra máu: gia xa tiền, rễ cỏ xanh, tỳ giải, mộc thông
đều 12g.
Sốt
cơn nóng, rét qua lại: gia sài hồ, địa cốt bì 12g.
Trẻ
sốt cao co giật, viêm não B: gia câu đằng, bọ mẩy (đại thanh diệp hay bản lam
can), hoè hoa, đều 12g.
Chữa
nóng âm kéo dài, hay trẻ ra mồ hôi trộm, khó ngủ trằn trọc, kém ăn: gia tâm
sen, táo nhân sao, hoài sơn, sơn tra, nga truật các vị đều 6g, sắc uống.
Sốt
xuất huyết: gia lá sen, trắc bá sao, hoa hoè 10g.
Sốt
phát ban: gia kim ngân hoa, thạch cao (nung) đều 12g.
Đau
mắt đỏ, nhức đầu, chóng mặt: gia bạc hà, cúc hoa, mạn kinh đều 10g.
NHÂN SÂM
Nhân
sâm có vị ngọt hơi đắng, ngậm thì sau ngọt, tính ấm, có tác dụng đại bổ nguyên
khí, sinh tân dịch, hồi dương cứu thoát.
Chữa
cơ thể suy yếu, kém ăn hoặc phế khí bị tổn thương, ngực tức đau, nói khó, hoặc
bệnh tăng huyết áp thấp, truỵ tim mạch thường dùng mỗi lần 4g, ngày 12g, cấp
cứu dùng 30 - 40g.
Chữa
khí lực suy bại, hơi thở thoi thóp, nói không ra lời, mắt đờ trực thị, nguy cấp
dùng 12g sắc uống.
Cấp
cứu thiếu máu nguy cấp, do xuất huyết bạch cầu và hồng cầu đều giảm, dùng sâm
và cao ban long, mỗi vị đều 10g, cùng uống.
Ngoại
cảm hàn thấp, trong lạnh ỉa chảy hoặc thổ tả huyết nghịch, dùng bài lý trung
lang: nhân sâm 12g, bạch truật 12g, chích thảo 8g sắc uống.
Nếu
hen suyễn thở thì gia thêm ngưu tất 8g. Bệnh nguy thở gấp, nấc thì mài thêm
trầm hương.
Chữa
nguyên khí suy bại, hôn mê, quyết lạnh, cấm khẩu, suyễn xúc nguy cấp, hay mất
máu trầm trọng, dùng độc sâm thang: nhân sâm 40g sắc uống.
Chữa
trúng phong hàn, quyết lạnh nguy cấp, dùng nhân sâm và cao thảo đều 12g, phụ tử
chế 8g - 12g cùng sắc uống. (Sâm phụ thang gia cam thảo).
Chữa
phế khí hư, thở yếu, ngắn hơi, nói nhỏ heo hắt, mạch yếu, dùng thang sinh mạch
tán: nhân sâm, mạch môn đều 8g, ngũ vị tử 1g sắc uống.
HÀ THỦ Ô
Hà
thủ ô có vị đắng, ngọt, chát, tính bình có tác dụng bổ huyết giữ tinh, nhuận
tràng, làm đen râu tóc, giảm đau, dùng 12 - 20g sắc hay tán bột uống hoặc phối
hợp các vị thuốc khác.
Chữa
phong thấp, đau lưng dưới liền xuống đùi háng (viêm dây thần kinh hông) vận
động khó khăn: hà thủ ô, ngưu tất mỗi vị 30g, cẩu tích 16g, độc hoạt, huyết
giác đều 12g, thiên niên kiện 8g, hoàng kỳ, bạch chỉ 6g sắc uống. Nếu nhức chỗ
này sang chỗ khác mà đau nhói cả sườn và lưng trên thì bỏ thiên niên kiện, gia
cành liễu 16g cùng sắc uống.
Chữa
bệnh lao lâm, đái ra máu, đái dắt dùng lá hà thủ ô, lá huyết dụ lượng bằng nhau
sắc rồi hoà thêm mật ong vào uống.
Chữa
huyết hư máu nóng, tóc khô hay rụng, sớm bạc và hồi hộp chóng mặt, ù tai, hoa
mắt, lưng gối mỏi, khô khát, táo bón, dùng hà thủ ô chế, sinh địa, huyền sâm
mỗi vị 20g sắc uống.
Chữa
người già sơ cứng mạch máu, huyết áp cao hoặc nam giới tinh yếu khó có con,
dùng hà thủ ô 20g, tầm gửi dâu, kỷ tử, ngư tất mỗi vị đều 16g sắc uống.
*
Lưu ý: Uống hà thủ ô thì kiêng ăn hành,
tỏi, cải củ, lươn và tiết súc vật. Đối với người có áp huyết thấp và đường
huyết thấp thì kiêng dùng.
NGŨ GIA BÌ
Ngũ
gia bì (còn gọi là cây chân chim) có vị cay, tính ấm, có tác dụng làm giảm gân
xương, trừ phong thấp dùng 6 - 12g, phối hợp với các vị khác.
Chữa
chứng kê trảo phong, miệng lập cập, tay run không cầm được. Ngũ gia bì 30g,
ngưu tất, thạch hộc mỗi vị 24g, quế nhục (bỏ vỏ ngoài) gừng đồ khô 3g sắc uống
(Nam dược thần hiệu).
Chữa
chứng khớp lưng, gối đau ê, chân tay co rút: ngũ gia bì, lõi thông, đương quy,
cẩu tích, cốt toái, ngưu tất mỗi vị 16g sắc uống.
XƯƠNG BỒ
Xương
bồ có vị cay, tính ấm, có mùi thơm, tác dụng khai khiếu, hoá đờm, mạnh tâm
thần, trừ phong thấp. Dùng 4 - 8g phối hợp với các vị thuốc khác.
Chữa
cảm gió lạnh hoặc động kinh hôn mê dùng xương bồ và địa liền mỗi vị 8g sắc
uống.
Chữa
hay quên, mất ý thức, đần độn trong di chứng viêm não B hay trong bệnh tinh
thần phân liệt, dùng xương bồ, viễn chí (rễ tiểu thảo), nhân hạt táo chua sao
đen, mạch môn, hột muồng ngủ sao, huyền sâm mỗi vị đều 8g sắc uống.
ĐỊA LIỀN
Địa
liền có mùi thơm đặc biệt, vị cay tính ấm, có tác dụng: khai khiếu, giải khí
độc, chống lạnh, chữa đau bụng thổ tả, dùng 8 - 12g tán bột uống.
Chữa
sâu răng đau nhức, tán bột địa liền xỉa vào chân kẽ răng (kinh nghiệm).
AN TỨC HƯƠNG
An
tức hương có vị cay đắng, tính bình, không độc, tác dụng khai khiếu, an thần,
tán phong đờm, trừ tà khí chữa hen suyễn, thổ tả, hay bị ngất.
Chữa
người già ho, hen suyễn, phụ nữ sau khi đẻ bị nhất, hoặc trẻ em hen suyễn tắc
đờm nghẹn thở, dùng 1 - 2g mài với mật ong uống dần mỗi lần độ 0,5g ngày uống 3
- 4 lần. Ngoài dùng thuốc xông khói vào mũi thì hạ đờm dễ thở và tỉnh ra.
Chữa
phụ nữ nứt nẻ vú (vú bị nứt cổ gà), mài sặng trắng với mật ong mà bôi.
Chữa
chứng phong hôn mê đờm, đưa ngược lên trên hoặc đau bụng lạnh thổ tả. Dùng 2 -
4g sắc vài dạo, chia uống làm 2 - 3 lần. Hoặc mài 1 - 2g với nước uống dần
trong ngày.
SIM
Sim
có vị ngọt, chát, tính bình. Rễ có tác dụng thông mạch máu, bớt đau nhức, quả
bồ huyết, an thần, lá và nụ có tác dụng thu liễm, cầm ỉa, nấu nước rửa vết
thương loét.
Chữa
phong thấp, đau xương, cơ lưng yếu mỏi, khí huyết hư tổn, dùng rễ cây sim 40g
sắc uống.
Chữa
ỉa chảy, đi lỵ dùng lá, nụ sim chừng 20 - 30g sắc uống.
Chữa
phụ nữ có thai thiếu máu hoặc sau khi ốm hư yếu, thần kinh suy nhược, dùng quả
sim khô 40g sắc uống (kinh nghiệm).
KIM ANH
Kim
anh có vị chua chát, tính bình, có tác dụng thu liễm, chữa di tinh, bạch đới,
són đái, vãi đái, ỉa chảy và đi lỵ ra máu kéo dài, hay đổ mồ hôi và ho mãn
tính, dùng 12 - 20 quả hay 20 - 30g rễ sắc uống.
Chữa
di mộng hoạt tinh, vãi đái và lưng gối đau mỏi, dùng quả kim anh, củ súng và
cẩu tích mỗi vị 16g sắc uống.
GIỔI
Giổi
thường được trồng với mục đích lấy gỗ. Quả, hạt giỏi có vị cay thơm, tính ấm.
Vỏ cây có vị đắng cay, hơi thơm, tính ấm đều được dùng chữa đau bụng, ăn không
tiêu và phong thấp đau nhức, thường dùng ngậm rượu uống và xoa bóp.
Vỏ
cây còn được dùng chữa cảm cúm, cảm sốt ớn lạnh hay chữa phong thấp với liều 20
- 30g sắc uống, hay phối hợp với các vị thuốc khác.
NGÒI TÀU
Ngòi
tàu vị đắng, tính ấm, mùi thơm, có tác dụng khai vị, giải độc các chất tanh,
lạnh và sơ phong, trừ thấp, giải cảm thấp nhiệt, kèm rối loạn tiêu hoá dùng 20
- 40g.
Chữa
cảm cúm, hay cảm sốt, đau bụng kém tiêu hoá, nôn mửa, đi ngoài dùng 30g ngòi
tàu sắc uống, hoặc phối hợp với gừng sống, củ sả, tía tô mỗi vị 12g cùng sắc
uống.
CHÈ VẰNG
Chè
vằng có vị hơi đắng, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt lợi thấp, hoạt huyết,
tiêm viêm.
Lá
sắc cho phụ nữ uống thay nước chè sau khi đẻ cho uống để thông huyết, ngon cơm.
Lá còn dùng để chữa viêm ruột, kiết lỵ, rối loạn tiêu hoá và thấp khớp hay bị
cảm thương đau nhức với liều 20 - 40g sắc uống.
Ở
miền Nam, lá vằng được dùng chữa sưng vú, sắc 30g uống và giã tươi đắp ngoài.
Nó còn được giã đắp áp xe, vết thương và nấu nước tắm chữa lở ngứa.
ĐINH HƯƠNG
Đinh
hương có vị cay, mùi rất thơm, tính ấm, có tác dụng tăng sức nóng, hạ khí
nghịch, ngừng nôn nấc, bớt đau bụng, lạnh dạ, thổ tả dùng 2 - 6g.
Chữa
tỳ vị hư hàn, thổ tả, dùng đinh hương 3 - 4g, sa nhân 6g, bạch truật 12g, tán
thành bột uống mỗi lần 2 - 4g, ngày uống 2 - 3 lần.
Chữa
tỳ vị hư hành, thổ tả dùng đinh hương 7 nụ, tai hồng 7 cái sắc uống.
Chữa
viêm xoang hay bị dị ứng do khí ẩm hay mùi hôi, sinh hắt hơi, sổ mũi, dùng một
nụ đinh hương bọc bông thỉnh thoảng nút vào mũi sẽ khỏi.
*
Lưu ý: Cấm uống đối với người tạng
nhiệt, người bệnh hen suyễn nặng, nấc hư thoát không dùng được.
DÂY ĐÒN GÁNH
Dây
đòn gánh có tác dụng thông mạch, làm tan máu ứ, tiêu sưng, giảm đau, được dùng
làm thuốc chữa bị thương, ngâm rượu uống hoặc sắc 40g rồi chế thêm rượu vào
uống. Dùng ngoài: giã nhuyễn, chế thêm rượu hay giấm xoa bóp chỗ xưng đau.
Dây
đòn gánh được dùng chữa phong thấp, đau ngang thắt lưng hoặc do gánh vác quá
nặng, đau sụn xương sống, cơ hông.
LONG ĐỞM
Long
đởm vị đắng, tính lạnh, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, trị sưng lở, sắc 1
nắm 30g uống.
Ngoài
ra còn có tác dụng như rễ cây kiên long đởm về công năng tả can hoả, sáng mắt
và tăng cường tiêu hoá.
KHỔ SÂM
Lá
khổ sâm có vị đắng, hơi ngọt, hơi chát, tính mát, có tác dụng chữa đau bụng.
Chữa
đau bụng, không rõ nguyên nhân, hái mấy lá khổ sâm nhai với mấy hạt muối, nếu
có nôn mửa, sôi bụng thì nhai kèm thêm một lát gừng sống.
Chữa
kiết lỵ hay đau bụng đi ngoài, dùng lá khổ sâm và phen đen mỗi thứ một nắm sắc uống.
Chữa
đau bụng lâm râm, sau khi ăn bị đau bụng, khó tiêu, dùng lá khổ sâm, lá ngấy
đũm đề phơi khô, mỗi thứ một nắm (khoàng 30 - 40g) thêm 3 lát gừng, sắc uống
hoặc thường sắc 2 thứ là trên uống thay chè.
Chữa
khắp mình nổi ngứa, muốn gãi luôn dùng lá khổ sâm, kinh giới, lá đắng cay, lá
trầu không nấu nước xông và tắm.
Ngoài
ra lá khổ sâm còn được dùng trong phương thuốc chữa phong hủi, phối hợp với lá
ké, lá đắng cay, lá thầu dầu tía, lá hồng hoa, lá thanh hao, kinh giới, xà
xàng... (bách gia trân tàng).
MẪU ĐƠN BÌ
Mẫu
đơn bì có vị đắng, cay, hơi lạnh có tác dụng thanh nhiệt, mất máu, hoạt huyết,
làm tan máu ứ, chữa nóng âm kéo dài, sốt cơn về chiều hoặc đơn sưng, huyết ứ
phát sốt, dùng 8 - 10g phối hợp với các vị thuốc khác.
Chữa
đơn độc sưng tấy, quai bị, bắp chuối, sưng vú, viêm tinh hoàn, chữa các chứng
máu ứ, sưng viêm phát sốt và phụ nữ đau bụng khi kỳ kinh dùng: đơn bì, bông
trang, huyết giác, cam thảo dây, đơn châu chấu, cỏ răng cưa, huyền sâm, mạch
môn, ngưu tất, mộc thông, hoàng đằng, chi tử mỗi vị 12g, sắc uống.
Chữa
bệnh ôn nhiệt, sốt nóng, viêm não cấp, sưng gan, sốt xuất huyết, sốt cao co
giật, hôn mê, trằn trọc, khô khát, gầy róc (mất nước) dùng: đơn bì, huyền sâm,
sinh địa, mạch môn, ngưu tất, quyết minh tử sao, dành dành sao và hoa hoè sao
qua, cam thảo dây mỗi vị 12g sắc uống.
SÀI HỒ NAM
Cây
sài hồ nam dùng cả dễ được nhân dân sắc chữa cảm sốt nóng và mồ hôi trộm. Cây
có thể dùng như cây sài hồ bắc và có thêm công năng tư âm ngoài tác dụng thanh
nhiệt, mát huyết.
CAM THẢO
Cam
thảo vị ngọt, tính bình, bổ tỳ, vị, nhuận phế, hoà hoãn giải độc, dùng sống thì
thanh hoả, nước lên thì ôn bổ, chữa ho đờm, đau dạ dày, điều hoà các vị thuốc
và trị khí hư suy nhược nguy cấp, dùng 6 - 12g tán bột hay sắc uống, hoặc phối
hợp với các vị thuốc khác trong các thang thuốc.
Chữa
tâm phế suy nhược, khó thở, mệt xỉu, mạch nhỏ yếu dùng cam thảo 12g, đương quy
10g, sâm Triều Tiên 8g, tán bột uống mỗi lần 4g. Mỗi ngày uống 3 - 4 lần hoặc
sắc uống nếu nguy cấp.
CAM THẢO DÂY
Cam
thảo dây được nhiều gia đình trồng, dùng để uống chữa một số bệnh thông thường.
Lá
cam thảo dây có vị ngọt, tính mát, có tác dụng giải cảm nắng, sốt nóng, chữa ho
khan, viêm họng dùng 15g sắc uống, hoặc phối hợp trong thuốc thang hay cam thảo
sống để thanh nhiệt giải độc.
Giải
độc dùng 50 - 60g cam thảo dây, sắc uống hoặc hoà thêm bột đậu xanh nghiền
sống, uống càng nhiều càng tốt. (kinh nghiệm).
LONG NÃO
Long
não có vị cay, tính nóng, tác dụng khai khiếu, khu phong tán hàn thấp, giúp
tiêu hoá, xúc tác hô hấp tuần hoàn, dùng ngoài có tác dụng sát trùng.
Chữa
đau bụng do lạnh, ăn uống kém tiêu hoá hay phong thấp, nhức xương dùng quả long
não 12 - 29g hoặc 40g rễ sắc uống.
Chữa
đau bụng, thổ tả, nguy cấp hôn mê dùng bột long não uống mỗi lần 0,1g hoà với
sữa có thể dùng 1- 2g trong ngày.
Chữa
ngứa, gãi cục bộ, hay sâu răng: bột long não, chu sa hay hùng hoàng bằng nhau
xát vào hcỗ ngứa hay chấm xỉa vào chỗ đau răng.
Chữa
cảm gió lạnh sốt gai rét, nhức đầu hoặc trúng gió mê man bất tỉnh, chân tay giá
lạnh, dùng tinh dầu long não uống 0,02 - 0,05g ngoài dùng xoa mũi, ngực, dọc
sống lưng và lòng bàn chân. Cảm sốt thường thì sắc 40g lá xông và uống.
KIM TIỀN THẢO
Kim
tiền thảo có vị ngọt nhạt, tính mát có tác dụng thanh nhiệt, lợi thuỷ, thông
đường tiết niệu, chữa viêm thận phù thũng, viêm gan vàng da, sỏi bàng quang,
sỏi túi mật, dùng 80g sắc uống hoặc phối hợp với các vị thuốc khác.
Chữa
viêm thận cấp phù thũng và viêm gan truyền nhiễm, viêm túi mật dùng kim tiền
thảo 80g, mộc thông, ngưu tất mỗi vị 20g, dành dành, chút chít mỗi vị 10g sắc
uống mỗi ngày một thang.
Chữa
sỏi thận, sỏi bàng quang dùng một vị kim tiền thảo 400g sắc đặc lấy 1,5 - 2 lít
nước uống thay chè trong một ngày. Kiên trì uống tiếp sỏi sẽ ra. Sau khi đã bớt
đau và đã thấy sỏi ra cũng cần uống tiếp với liều lượng bớt dần. Hoặc sắc 100g
kim tiền thảo với 20g bột hoạt thạch trong một ngày.
TỲ GIẢI
Tỳ
giải được y học dân tộc dùng rất nhiều, làm thuốc lợi tiểu.
Tỳ
giải có vị đắng, tính bình có tác dụng lợi tiểu, trừ thấp, chữa phong thấp, đau
nhức xương sống và khớp gối, chân tê buốt, phù thũng, đái đục dùng 20 - 40g sắc
uống.
Chữa
đau vùng thắt lưng dùng: tỳ giải, rễ câu kỷ, đỗ trọng mỗi vị 20g sắc uống (Lãn
Ông - Hành giản trân nhu).
Chữa
thấp thũng chân phù nề, nước tiểu đục hoặc đái ra dưỡng trấp nổi váng như dầu,
dùng tỳ giải 40g, tua rễ đa, rế ý dĩ đều 30g sắc uống.
BÚP ỔI
Búp
ổi có chất chát, thu liễu dùng làm thuốc cầm ỉa chảy, đi lỵ. Liều dùng: lá non
hay búp ổi 20 - 30g sau qua sắc uống hoặc phối hợp với lá khổ sâm 12g, gừng
sống 8g chữa đau bụng đi ngoài.
Chữa
bạch đới: búp ổi, vỏ sắn thuyền, rễ cỏ tranh mỗi vị một nắm (30g) sắc uống.
Chữa
rôm, sảy lở ngứa: nấu nước lá ổi tắm rửa.
VỪNG
Hạt
vừng có vị ngọt, tính bình có tác dụng dưỡng huyết, nhuận táo, bổ ngũ tạng hư
nhược, ích khí lực, đầy tuỷ não, bền gân cốt, sáng mắt thêm thông minh. Dùng
ngoài, đắp sưng tấy, vết bỏng và dùng cao dán nhọt.
Lá
vừng có vị ngọt, tính lạnh có tác dụng ích khí, bổ não tuỷ, mạnh gân cốt, khỏi
tê thấp, nấu nước gội đầu thì tóc có màu đen mượt, da mặt tươi trẻ, giã tươi
chế nước nóng vào vắt lấy nước cốt uống chữa bệnh rong huyết.
Chữa
điên cuồng dùng dầu vừng 160g, rượu một bát, đun lên, dùng 20 cành dương liễu,
lấy mỗi cành quấn 2 vòng, đến khi rượu và dầu còn 8/10 thì cho bệnh nhân uống
để có thể mửa ra, rồi ngủ say, để ngủ không đánh thức, khi thức dậy sẽ tỉnh
lại.
Chữa
rết cắn: nhai hạt vừng đắp vào.
Chữa
đẻ khó vì khô nước ổi: dầu vừng, mật ong, mỗi thứ một bát đun sôi vài dạo, vớt
bỏ bọt, trộn với 40g hoạt trạch cho uống (Nam dược thần hiệu).
Làm
thuốc vổ và trừ mọi bệnh dùng lá dâu non và vừng đen, 2 thứ bằng nhau, tán bột
làm viên uống hàng ngày.
Chữa
bị ngã, sưng bầm tím, đau nhức: dùng dầu vừng hoà với rượu uống.
Chữa
táo bón: uống một chén dầu vừng hay ăn một nắm vừng sống vào buổi sáng hoặc nấu
cháo vừng ăn. (kinh nghiệm).
Chữa
bị bỏng: bôi dầu vừng hay nhai vừng đen đắp vào chỗ bỏng sẽ nhanh khỏi, chóng
lên da non.
Chữa
kiết lỵ mới phát: vừng đen ăn sống 30g/ngày, ăn liền 3 ngày.
MỘC THÔNG
Cây
mộc thông thường được trồng làm cảnh. Mộc thông có vị ngọt nhạt hơi đắng, tính
mát, có tác dụng thông tiểu tiện, thuận tràng, tiêu viêm, chữa phù thũng: hoàng
đản, bạch đới dùng 15 - 20g sắc uống hoặc phối hợp với các vị thuốc khác.
Chữa
đại tiểu tiện không thông, hẹp môn vị, ăn nghẹn khó nuốt hoặc nôn oẹ, viêm dạ
dày, đau tâm vị, tức gan, viêm gan vi rút, đái vàng, dùng mộc thông 16g, mạch
môn 10g, ngưu tất 10g, chút chít 6g, chỉ xác 8g sắc uống.
TRẠCH TẢ
Trạch
tả có vị ngọt, tính lạnh, có tác dụng lợi tiểu tiện, trừ thấp, thanh nhiệt,
chữa phù thũng, thận nhiệt tỳ thấp, ỉa chảy đái ít, mộng tinh đái đục dùng 8 -
12g phối hợp với các vị thuốc khác.
Chữa
phù thũng đái đục và ỉa chảu nhiệt tính phọt toé ra nước kèm khát nước, nôn oẹ
dùng trạch tả 12g, ý dĩ sao 10g, tỳ giỉa 10g tán bột hoặc sắc uống.
TAM THẤT
Tam
thất có vị đắng cay, tính ấm có tác dụng thông kinh hoạt huyết, chữa hành kinh
chậm kỳ, máu xấu lởn vởn không tươi, đau bụng khi hành kinh hoặc kém ăn, tiêu
hoá kém, nôn, đầy bụng dùng tam thất ngày 4 - 8g.
Chữa
kinh nguyệt không đều, loạn kinh, vòng kinh dài ngắn không chừng, người gầy, da
xanh sạm hoặc sau đẻ rong huyết kéo dài, kém ăn, chóng mặt, đau đầu mệt mỏi
dùng. Tam thất, hồi đầu lượng bằng nhau, tán nhỏ, uống mỗi lần 2 - 3g, ngày
uống 2 - 3 lần, với nước đun sôi vào khoảng giữa buổi và trước khi đi ngủ. Uống
5 - 7 ngày liền.
MỒNG TƠI
Mồng
tơi có vị chua, tính hàn, trơn nhầy, có tác dụng nhuận tràng, lợi tiểu sinh tân
dịch, khỏi khô háo, chữa táo bón. Phụ nữ ít sữa và người già táo bón nên ăn
thường xuyên.
RAU KHÚC
Rau
khúc có vị ngọt, tính bình, có tác dụng tiêu đờm, trị ho, giúp tiêu hoá tốt,
chữa rắn cắn và bị thương đau nhức: giã lá rau khúc tươi đắp vào vết thương.
Chữa cảm sốt, ho, viêm họng, hen suyễn, nghẹt đờm dùng rau khúc khô 30g sắc
uống hoặc thêm vừng, hành mỗi vị 10g cùng sắc uống.
NẤM LINH CHI
Là
một vị thuốc được trồng nhiều ở Trung Quốc và Triều Tiên. Thần nông bản thảo và
bản thảo đời Đường: 5 thứ nấm linh chi (linh chi thảo) có tính vị theo ngũ sắc
hợp ngũ hành và có tác dụng trị bệnh theo bệnh lý thuộc ngũ tạng. Nói chung là
bổ ngũ tạng, uống lâu thì được nhẹ mình, trẻ mãi không già, mạnh tinh thần,
sáng trí tuệ, mạnh khoẻ, sống lâu.
Theo
tài liệu Trung Quốc ngay nay, linh chi có vị nhạt, tính ấm, có tác dụng tư bổ
và làm mạnh sức, trị thần kinh suy nhược, chóng mặt, mất ngủ, dùng mỗi lần 5
phân đến một đồng cân, sắc uống hoặc 3 - 5 phần (1 - 2g) tán bột uống.
Theo
dõi trên lâm sàng, các thầy thuốc khoa học hiện đại nhận định tác dụng của nấm
linh chi trên một số bệnh như đau thắt cơ tim, bệnh về động mạch vành, huyết áp
giao động, viêm phế quản hen, viêm gan mãn tính, thấp khớp, bệnh đường tiêu
hoá, bệnh phụ nữ về tiền mãn kinh và làm tăng trí nhớ, minh mẫn.
Riêng
tử chi (nấm gỗ) thì có vị ngọt, tính ấm, có tác dụng giữ thần kinh tỉnh táo,
ích tinh khí, bền gân cốt, chữa điếc tai, hư lao và bệnh trĩ.
Kèm
theo phương thuốc tử chi hoàn gồm: tử chi 1 lạng 5 đồng cân, sơ vu, bá tử nhân,
ba kích, bạch linh, chỉ thực đều 3 đồng 5 phân, viễn chí, khiếm thực đều 2 đồng
5 phân, nhân hạt dưa, trạch tả đều 5 đồng, tán bột viên với mật uống dần. Chủ
trị hư lao, ngắn hơi, đau hông ngực, chân tay lạnh hoặc khô háo, mắt mờ, có khi
đau bụng, nhác ăn và an thần giữ tinh.
RAU MÁ
Rau
má có vị đắng, hơi ngọt, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, chữa
trong bụng cồn cào, nóng ruột, nhiệt uất sinh nóng, đau bụng dưới, không muốn
ăn, trẻ em cam nhiệt, sưng tấy, mụn nhọt, lở ngứa dùng rau má một nắm, giã nhỏ,
chế nước chín vào vắt lấy nước cốt hoà với đường uống hoặc sắc lên uống (kinh
nghiệm dân gian).
Chữa
cảm sốt, khát nước, nhức đầu, đái đỏ hoặc trẻ em gầy khô, da nóng, không ăn,
nổi mẩn ngứa, sưng tấy hoặc phụ nữ có thai nóng ruột, chán cơm, thường đau bụng
vặt, đại tiện thường táo dùng: rau má, rau sam mỗi thứ 1 nắm, giã nhỏ, chế thêm
một chén nước nguội, vắt lấy nước cốt uống. Hoặc dùng rau má, rau sam, sắn dây
mỗi vị 30g sắc uống.
*
Lưu ý: Cần phân biệt cây rau má trên
với các loại khác cùng mang tên rau má như rau má mơ, rau má họ...
RAU MUỐNG
Rau
muống có vị ngọt nhạt, tính mát, có tác dụng giải nhiệt, sinh ra da thịt. Ăn
nhiều thì da thịt nở nang, đại tiện thông, khỏi táo bón, đái dắt.
Người
có mụn miệng lõm sâu, ăn rau muống thì mụn sẽ chóng sinh da gom đầy miệng.
Ăn
rau muống hàng ngày có thể thải bớt Cholesterol và chống tăng huyết áp. Vì vậy,
những người có huyết áp cao và cơ thể gầy gò nên ăn nhiều rau muống, có lợi cho
sức khoẻ.
Bị
ngộ độc hay say sắn, giã rau muống vắt lấy nước cốt, uống nhiều thì cơ thể có
thể giải độc, khỏi say.
RAU MUỐNG BIỂN
Rau
muống biển có vị hơi đắng, tính ấm, có tác dụng khu phong trừ thấp khớp, bạt
độc tiêu sưng.
Chữa
mụn nhọt sưng lở, dùng tươi giã đắp.
Chữa
bỏng, giã vắt lấy nước cốt bôi.
Chữa
phong thấp đau lưng, đau chân, sưng gối dùng 20g sắc uống.
*
Lưu ý: Phụ nữ có thai không nên dùng.
HÚNG CHANG
Húng
chanh có vị cay, tính ấm, có tác dụng giải cảm cho ra mồ hôi và chữa ho, tức ngực,
gần giống vị tử tô. Chữa ho, viêm họng, hái vài lá nhanh, ngậm nuốt nước.
Chữa
rết cắn, hay dị ứng dùng lá húng chanh nhai nuốt lấy nước, bã thì đắp hay xoa
xát.
Chữa
cảm cúm, cảm sốt, nóng rét, nhức đầu, ngẹt mũi, ho đờm dùng húng chanh 15 - 20g
giã nát, vắt lấy nước cốt uống hoặc thêm gừng, hành mỗi vị 12g cùng sắc uống và
xông cho ra mồ hôi.
HÀNH TÂY
Hành
tây là một thứ gia vị ngon, vừa có tác dụng thông tiểu tiện, vừa lợi đường hô
hấp, nếu đái không thông hay thấy khó thở thì nên ăn nhiều hành tây hoặc sắc
nước 50g uống.
Hành
tây có tác dụng làm giải đường huyết, uống nước cốt hành mỗi buổi sáng 1 thìa,
uống liều trong một tháng thì có công hiệu.
Hành
tây được dùng như một loại thuốc bổ, hồi sức nhanh chóng cho người mới ốm dậy.
Hành tây sắc đặc cho thêm mật ong và uống vào mỗi buổi sáng 1 thìa, nó được
dùng để phục hồi cơ năng vận động cho các bệnh nhân bị liệt.
TÍA TÔ
Lá
tía tô có vị cay, tính ấm, có tác dụng làm ra mồ hôi, hạ khí tiêu đờm. Chữa cảm
cúm, ho...Ngoài ra còn chữa đau bụng, đầy bụng dùng 20 - 30g/ liều.
CẢI BẮP
Cải
bắp có vị ngọt nhạt, tính lạnh, nấu ăn thì lợi tiểu tiện và nhuận tràng. Người
đái buốt, đái khó hay đại tiện táo nên ăn thường xuyên.
Lá
cải bắp được luộc đắp vết bỏng hay sưng tấy sẽ mát dịu, chóng khỏi.
*
Lưu ý: Người hư hàn, ỉa lỏng, hay
tiểu tiện đêm không nên dùng.
RAU DIẾP
Rau
diếp có vị đắng, tính lạnh, có tác dụng bổ gân cốt, lợi ngũ tạng, thông kinh
mạch, lợi khí, thơm miệng, sáng mắt, dễ ngủ.
Chữa
tiểu tiện không thông hoặc đái ra máu, dùng một nắm rau diếp giã nhỏ, đắp lên
rốn.
Chữa
sữa không thông sắc 100g rau diếp, chế thêm vào một chén rượu uống.
Chữa
sâu, kiến bò vào trong tai không ra dùng rau diếp giã nhỏ, vắt lấy nước cốt nhỏ
vào.
RAU MÁC (từ cô)
Củ
và lá cây rau mác có tác dụng nhuận tràng, được dùng như một thứ thuốc bổ mát.
Hải Thượng Lãn Ông dùng rau mác để thanh nhiệt, giải độc: nhai dễ từ cô nuốt
hoặc giã vắt lấy nước uống chữa các loại ngộ độc và chống các bệnh truyền
nhiễm.
Bất
kỳ ngộ độc thứ gì, ta đều dùng: rễ sòi, củ chuối uống thì trục ra, đậu đen, cam
thảo trung hoà, hoàng đằng, quán chúng, từ cô giải liền.
*
Lưu ý: Không dùng cho phụ nữ có thai.
RONG MÁI CHÈO
Rong
mái chèo có vị đắng tính hàn, có tác dụng thanh nhiệt, lợi tiểu dùng chữa bệnh
khí hư, bạch đới: dùng 30g sắc uống.
RAU CẦN
Rau
cần có vị ngọt, tính mát, có tác dụng lợi đại tiểu tràng, ích khí, ngon cơm,
dưỡng tinh, bảo vệ huyết mạch, cầm máu, chữa phụ nữ rong kinh, bạch đới, giải
nhiệt, khỏi phiền khát.
Chữa
đái ra máu và đái buốt, dùng rau cần cải rễ giã vắt lấy nước cốt uống càng
nhiều càng tốt.
Chữa
trẻ em thổ tả, dùng rau cần thái nhỏ sắc 40g cho uống.
RAU HẾN
Rau
hến có vị chua, tính bình, không độc, có tác dụng phá huyết, chữa trĩ, sau khi
đẻ máu hôi, không thông sinh đau bụng, sữa không thông dùng 15 - 20g sắc uống
hoặc dùng ăn sống. Rau hết ăn liên tục thì râu tóc sẽ đen.
Ngoài
ra giã tươi đắp ngoài chữa lở loét, mụn nhọt. Chữa nam giới lở ngứa bộ phận
sinh dục, đầu dương vật lở loét, đau sưng, đái buốt, đái dắt, sản phụ tích
huyết thành hòn cục: dùng rau hến một nắm nấu uống hàng ngày sẽ khỏi (kinh
nghiệm).
RAU SAM
Rau
sam có vị chua, tính lạnh, có tác dụng thanh nhiệt giải độc, mát máu tiêu sưng,
sát trùng, tiêu cam, khỏi lở ngứa, kiết lỵ.
Chữa
trẻ bị đơn hoả, nổi mẩn ngứa quanh rốn, nóng như lửa đốt (hay sốt phát ban) dùng
rau sam giã uống, bã thì xoa đắp.
Chữa
trẻ em đi lỵ, đau buốt: dùng rau sam giã nát vắt lấy nước cốt, đun sôi chế thêm
một thìa đường cho uống (Nam dược thần hiệu).
Chữa
phụ nữ bạch đới: rau sam giã vắt lấy nước cốt 30ml đập vào hai lòng trắng trứng
gà, quấy đều, đun sôi, uống vào lần.
Chữa
lậu nhiệt, đái buốt: rau sam giã vắt lấy nước uống hàng ngày.
Chữa
bệnh giun: rau sam 3 nắm to, sắc lấy một bát nước uống vào lúc đói. Uống 2 - 3
lần thì giun ra.
Chữa
uống nhầm phải thuốc có chất độc nguy cấp: rau sam thật nhiều giã vắt lấy nước
cốt 100ml cho uống, ngày 4 - 5 lần và lấy bã đắp vào rốn.
Chữa
tích tụ trong bụng, dùng rau sam một nắm to, cho vào một nhúm muối và một chén
giấm, giã nhỏ, vắt lấy nước cốt uống. Uống nhiều lần thì sẽ tiêu.
Chữa
được bệnh đái ra máu: lấy rau sam nấu canh ăn liên tục 3 - 5 ngày thì khỏi.
Rau
sam giã nhỏ, đắp lên mụn nhọt, ngòi xanh sẽ ra máu, rất nhanh khỏi.
MÙI TÂY
Mùi
tây được gia đình trồng làm rau ăn sống.
Lá
và hạt mùi tây sắc 8 - 12g có tác dụng lợi tiểu. Mùi tây dùng chữa đái khó, đái
buốt và phối hợp với râu ngô chữa bệnh lậu.
Hạt
mùi tây sắc uống hàng ngày có thể làm tan sỏi thận. Lá mùi tây giã đắp lên vú
để chữa bệnh căng sữa và dùng xát các vết thương sâu, côn trùng cắn hay viêm
tấy.
Mùi
tây dùng làm thuốc điều kinh, chữa bệnh bế kinh, chậm thấy kinh, kinh nguyệt
không đều hoặc đau bụng trong khi thấy kinh dùng 5 - 10g hãm uống mỗi ngày 2
lần vào trước bữa ăn, dựa theo kỳ kinh tháng trước mà uóng đón trước 3 ngày và
uống liên tiếp 2 ngày thì thấy kinh.
Rễ
mùi tây khô sắc 20g uống chữa cảm sốt và lợi tiểu.
TỎI TÂY
Tỏi
tây được coi là một vị thuốc đặc hiệu đối với các bệnh thận và bàng quang, chữa
viêm bàng quang, viêm thận, bí đái: dùng tỏi tây nấu canh ăn, không dung muối
là một thứ thuốc lợi tiểu rất nhanh.
Y
học cổ truyền dùng tỏi tây chữa bệnh đau dạ dày và cây tỏi tây trồng chữa lao
phổi.
Người
ta còn dùng tỏi tay ngâm dầu, đắp lên tóc cho khoẻ với tác dụng tăng lực.
RAU DIẾP ĐẮNG
Rau
diếp đắng thường được trồng làm rau ăn sống. Rau diếp đắng có vị đắng, tính hàn,
không độc, ăn nhiều thì an thần, ích khí, minh mẫn, mạnh sức, nhẹ nhõm cơ thể,
lâu già, sáng mắt.
Rễ
rau diếp đắng có tác dụng lợi tiểu tiện, chữa đái ra máu và đi lỵ nóng âm. Rau
diếp đắng ăn sống chữa cảm sốt và lợi sữa, cành lá sắc uống vào sáng sớm để
chữa bệnh trĩ. Nước sắc này còn có tác dụng khử lọc máu và bớt đái tháo đường.
Hoa
và quả vị ngọt, tính bình, thanh nhiệt, an thần chữa trong nóng trằn trọc, khó
ngủ, hoàng đản mỗi lần 8 - 16g sắc uống.
Cành
hoa giã đắp chữa mụn cóc, lở tai, nước dịch lắng trong rỏ vào mắt để chữa vảy
mắt cá.
RAU DỪA NƯỚC
Rau
dừa nước có vị ngọt nhạt, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, lợi tiểu, mát máu,
giải độc, chữa cảm sốt, ho khan, đái đục, phù thũng, đắp ngoài chữa sưng lở, bị
thương, rắn cắn.
Chữa
đái dưỡng trấp, viêm cầu thận cấp và đái dắt đục: rau dừa nước 30 - 40g, tua đa
(lấy phần non rễ mọc ở cành rủ xuống) 20 - 30g, tỳ giải 15 - 20g sắc uống 5 - 7
thang thì khỏi.
RAU MÁ MƠ
Rau
má mơ có vị ngọt, hơi cay, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, lợi thấp,
tiêu đờm, ngừng ho và lợi tiểu, tan ngưng hết, tiêu viêm.
Chữa
viêm gan truyền nhiễm và sơ gan cổ trướng dùng 20 - 30g sắc uống hoặc phối hợp
với các vị thuốc khác.
Rau
má mơ còn được dùng chữa cảm cúm, cảm sốt, ho, viêm họng dùng 40 - 80g sắc
uống.
RAU MÙI
Rau
mùi có vị cay, tính ấm, có tác dụng phát tán và tiêu đờm, tăng cường tiêu hoá
dùng 4 - 8g hoặc phối hợp với các vị thuốc khác.
Chữa
sau khi ăn bụng đau lâm râm, bị đầy bụng không tiêu, buồn nôn dùng rau mùi một
nắm, vỏ quýt 8 - 10g sắc uống.
Chữa
giun kim: hạt mùi tán nhỏ, trộn với trứng gà luộc, chế thêm ít dầu vừng, giã
nhuyễn làm viên, nhét vào hậu môn lúc buổi tối và để suốt đêm, làm liền 3 đêm
thì sẽ hết.
RAU DỀN
Rau
dền có thể dùng để lợi tiểu, sát trùng, trị được mẩn ngứa.
Ăn
rau dền nấu canh hàng ngày vừa lợi tiểu lại vừa tốt cho sức khoẻ. Phong nhiệt,
mắt mờ hay trị giun đũa thì dùng hạt rau dền. Rễ rau dền sắc chung với rễ bí
ngô thì có thể ngăn chặn được xuất huyết trong thời kỳ sinh nở của phụ nữ.
Rau
dền củ khai vị, mạnh tì, hạ khí, lợi tiểu, bổ nội tạng, thông huyết mạch.
Rau
dền củ thích hợp với vùng đất cao như Đà Lạt. Củ được dùng kèm với các loại rau
củ khác làm cho màu sắc của món ăn thêm hấp dẫn, lại có tác dụng giải nhiệt rất
tốt.
Bị
kiết lỵ, đại tiện ra máu dùng củ dền giã vắt lấy nước cốt uống. Ngoài ra, ăn củ
dền còn giúp cho người dễ ngủ nên rất tốt cho việc điều trị viêm thần kinh, ung
thư. Trong Đông y dùng củ dền làm vị thuốc trị nhiều bệnh giúp khai vị, mạnh
tỳ, thông huyết mạch, bổ cho nội tạng.
RAU ĐAY
Rau
đay tiêu viêm, cầm máu, trị cảm nắng, kiết lỵ.
Rau
đay thường được nấu canh với cua, mồng tơi thêm quả mướp hương là một món ăn
được ưa thích vào mùa hè. Ăn vừa mát lại vừa bổ.
Rễ
và lá rau đay trị được cảm nắng, kiết lỵ, cầm máu, ho ra máu. Hạt rau đay còn
có tác dụng hoạt huyết trợ tim, nhưng không nên dùng cho phụ nữ có thai. Nếu
dùng đúng liều lượng có thể giúp điều hoà kinh nguyệt.
Rau
đay quả dài cho hạt làm thuốc, phơi khô sao vàng chữa được bệnh hen suyễn. Chú
ý cây đay dại mọc ở ruộng không ăn được chỉ dùng làm sợi, làm giấy hoặc giã nát
đắp lên mụn nhọt để hút mủ.
RAU RĂM
Rau
răm vị cay, tính ấm, có tác dụng làm cho thích nghi với gió lạnh, ích thêm trí
nhớ, trừ được khí độc ở ruột, trị thổ tả và tiêu hơi nước, chữa phù thũng. Ăn
sống thì ấm bụng, mạnh chân gối, sáng mắt nhưng ăn nhiều thì sinh nóng rét
thương tổn đến tuỷ kém khí ít tinh, dịch giảm tình dục.
Chữa
bỗng dưng đau tim không chịu nổi dùng dễ rau răm 50g, sắc rồi chế thêm một chén
rượu vào rồi uống.
Chữa
thổ tả dùng hạt rau răm 20g, hương nhu 40g sắc uống.
Chữa
rắn cắn hay chó dữ cắn, giã rau răm tươi vắt lấy nước cốt uốt, bã thì đắp vào
vết thương.
Chữa
mùa hè say nắng, háo hát giã rau răm tươi vắt lấy nước cốt, đun sôi lên rồi
uống.
RAU NGỔ
Rau
ngổ thường trồng làm rau ăn sống.
Cây
rau ngổ có vị cay, mùi thơm, tính mát, có tác dụng chữa ăn uống không tiêu,
giải độc rắn và tiêu sưng, khỏi ngứa.
Chữa
ghẻ ngứa, nổi mẩn dần da chảy nước (chàm hoá) giã lá xoa xát.
Chữa
rắn cắn: sắc 40 - 80g uống và giã vắt lấy nước bôi vào vết thương.
RAU CẢI CÚC
Rau
cải cúc được nhiều gia đình trồng làm rau ăn. Cải cúc có vị ngọt nhạt, hơi
đắng, mùi thơm, tính mát, giúp tiêu hoá, thanh đờm, chữa ho lâu ngày và tán
phong nhiệt, chữa đau mắt.
Những
người ăn uống chậm tiêu, viêm họng, đau mắt dùng ăn sống hoặc nấu canh ăn thì
lại có tác dụng chữa bệnh.
KINH GIỚI
Kinh
giới có vị cay, tính ấm, có tác dụng tán phong thấp, chống co cứng.
Chữa
trúng gió, rắn cắn, méo mồm, lệch mắt hoặc phụ nữ sau khi đẻ xấu máu, hay
choáng ngất co cứng dùng kinh giới 30g, bạc hà 15g sắc uống.
Chữa
trẻm em lên sởi và các chứng lở ngứa: kinh giới và kim ngân hoa (cả lá, hoa,
cành) mỗi vị 15g - 20g sắc uống.
Chữa
cảm gió lạnh khi nhức đầu chảy máu mũi dùng: hoa kinh giới, bạch chỉ lượng bằng
nhau tán nhỏ uống mỗi lần 4g với nước chè nóng cho ra mồ hôi.
Chữa
hậu môn, trực tràng lở loét, đi ngoài ra máu: kinh giới và lá trắc bá sao sém
mỗi vị 15 - 20g sắc uống. Ngoài ngâm nước bồ kết.
Chữa
cảm phong thấp nhức đầu ê ẩm, đau mình, không có mồ hôi, lở ngứa, hay đổ mồ hôi
khi gặp gió lạnh, trẻ lên sởi, lở ngứa dùng kinh giới 20g sắc uống, hoặc phối
hợp với các vị thuốc khác.
RAU DIẾP CÁ
Rau
diếp cá có vị chua, tanh hôi, tính mát. Có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, lợi
tiểu tiêu thũng dùng 30g sắc uống hoặc phối hợp với các vị thuốc khác đắp ngoài
các loại đơn sưng, lở ngứa.
Chữa
bệnh đau trĩ nhức dùng rau diếp cá nấu nước xông, ngâm rửa lúc còn nóng, bã
dùng dịt vào chỗ đau.
Trẻ
lên sởi: dùng rau diếp cá sao qua, sắc uống thì tiệt nọc và không tái phát.
Chữa
lòi dom: trước lấy phác tiêu (muối Natri hoặc muối ăn) hoà tan với nước rửa qua
rồi giã lá diếp cá đặt trên lá chuối, ngồi lên (hoặc dịt băng lại) thì dom tự
thụt vào.
Chữa
viêm phổi, viêm ruột, đi lỵ, viêm thận phù thũng dùng lá diếp cá 50g sắc uống.
Chữa
viêm tuyến sữa: dùng lá diếp cá, lá cải trời, mỗi vị 1 nắm (30g) giã nát, chế
nước sôi vào vắt lấy nước, bã chưng nóng với giấm, đắp rịt.
Chữa
đơn sưng của người lớn và trẻ em dùng: rau diếp cá, lá nhọ nồi, lá cải trời, lá
khế, lá đơn đỏ, lá huyết dụ, lá dưa chuột, lá nhài, lá mía già các vị bằng nhau,
mỗi vị 15g thêm lá xích hoa xà 3 lá, bí đao 3 miếng, củ nâu 3 miếng, giã nát
chế vào vắt lấy nước cốt uống, bã thì dùng xoa đắp lên chỗ bị sưng.
Chữa
trẻ em sốt cao co giật: giã nát lá diếp cá với củ xả 6g, quả xuyên tiêu 2g thêm
nước gạn nước uống, bã đắp lên thái dương.
NGẢI CỨU
Ngải
cứu có vị đắng, hơi cay, mùi hắc, tươi thì tính ấm, khô thì tính có tác dụng
làm tan hàn thấp, thông kinh sát trùng, dùng tươi với liều ít và phối hợp với
các vị khác thì có thể cầm máu, an thai. Liều dùng mỗi ngày 4 - 8g.
Chữa
động thai đau bụng, doạ sảy thai: lá ngải cứu tươi 8g giã nhỏ chế nước vào vắt
lấy 2 chén nước cốt hoà với một ít mật ong, đun sôi rồi cắt thêm 10g cao da
trâu hoà loãng để uống (Nam dược thần hiệu).
Chữa
chứng hàn thấp, đau vùng tim, bụng đau lan ra hông sườn: ngải cứu, quế, gừng
khô đều 8g, gừng sống 3 lát sắc uống nóng (Tuệ Tĩnh).
Chữa
trẻ đau bụng do giun, dùng lá ngải cứu tươi giã nhỏ, chế nước sôi vào vắt lấy
một chén nước, uống và lúc sáng sớm, sau khi đã ăn một miếng thịt nướng, uống
thuốc vài giờ sau đi ngoài thì giun ra.
CẢI XOONG
Cải
xoong có vị hơi cay, tính mát. Tác dụng làm thuốc lợi tiểu và chữa bệnh hoạt
huyết với liều 100g cải tươi, giã vắt lấy nước cốt uống.
Dùng
ngoài: cải xoong giã đắp mụn tràng nhạc lở loét và nhai ngậm chữa viêm lợi
răng.
Theo
y học Trung Quốc thì cải xoong có tác dụng thanh huyết, giải nhiệt và giảm đau.
HƯƠNG NHU
Hương
nhu có vị cay, mùi thơm, tính ấm, có tác dụng trừ thấp nhiệt, ra mồ hôi và lợi
tiểu.
Nếu
sốt có mồ hôi thì dùng kinh giới, thêm sắn dây tươi giã cùng vắt lấy nước uống
hoặc dùng hương nhu, cát căn, mỗi vị đều 20g sắc uống.
Chữa
trẻ em chậm mọc tóc dùng hương nhu sắc đặc với mỡ lợn bôi hàng ngày (Nam dược
thần hiệu).
Chữa
mùa hè bị cảm nắng, xốn xáo, nôn đầu: hương nhu 10g, vỏ vối rừng, đậu ván sao
giã giập mỗi vị đều 10g, cam thảo nướng 6g sắc uống.
Chữa
cảm sốt nhức đầu dùng một nắm lá hương nhu giã nhỏ, chế thêm nước sôi, vắt lấy
nước cốt uống, bã đắp lên đầu, trán và hai bên thái dương.
CÂY SẢ
Sả
có vị cay, tính ấm, có tác dụng làm ra mồ hôi, ấm bụng, bớt nôn, ỉa chảy và lợi
tiểu bớt phù. Dùng ngoài thì tẩy uế sát trùng.
Nấu
nồi thuốc xông giảm cảm, dùng cả củ lá, lá bưởi, lá chanh, cúc tần, hương nhu,
lá bạch đàn mỗi thứ một nắm, bịt kín ấm, đun rồi lau khô, xong uống một bát
thuốc, đắp chăn năm nghỉ, ra thêm một ít mồ hôi nữa sẽ khỏi.
Tinh
dầu sả được dùng phun muỗi và trừ mùi hôi thối, dùng xoa ngoài chống cúm, phòng
bệnh truyền nhiễm.
Chữa
cảm cúm, phòng bệnh truyền nhiễm. Chữa cảm cúm hay cảm mưa ướt, sốt gai rét mà
không có mồ hôi dùng 10 - 15 giọt uống với một chén nước nóng, đắp chăn cho ra
mồ hôi. Chữa nôn, ỉa chảy dùng 6 - 8 giọt, uống vài ba lần.
Chữa
bỗng dưng phù nề hai chân, đái ít, thấp thũng: cả củ, lá sả 2 nắm, cỏ xước 1
nắm, rễ cỏ tranh 1 nắm hay bông mã đề 1 nắm sắc uống 3 ấm.
RỄ CỎ TRANH
Rễ
cỏ tranh có vị ngọt, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, làm mát và lợi tiểu.
Chữa
tiểu tiện khó khăn, đái buốt, đái dắt, đái ra máu, ho ra máu, chảy máu cam, hen
suyễn dùng rễ cỏ tranh 10 - 50g sắc uống.
Chữa
nóng quá sinh thổ huyết, chảy máu mũi, đái ra máu, đi đại tiện ra máu, dùng rễ
cỏ tranh, ngó sen hoặc lá sen, rễ ô rô cạn hay nõn chuối tiêu mỗi vị 30 sắc
uống.
Chữa
bệnh phù thũng, trong bụng ứ nước, tay chân đều phù, dùng cỏ tranh 50g, đậu đỏ
30g cùng nấu cho đến khi đậu nhừ thì bỏ rễ cỏ tranh, lấy đậu ăn và uống hết
nước (Nam dược thần hiệu).
Chữa
sốt nóng phiền khát, phổi nóng thở gấp, dạ dày nóng, nôn oẹ dùng rễ cỏ tranh và
củ sắn dây mỗi vị 12 - 20g sắc uống.
*
Lưu ý: Hoa cỏ tranh cũng có tác dụng
như rễ: thu hái về mùa đông, phơi khô, liều dùng 10 - 20g sắc uống. Người hư
hàn, đái nhiều về đêm thì không nên dùng trong trị bệnh.
RAU NGÓT
Rau
ngót có vị ngọt, tính mát, tác dụng điều hoà nội tạng, bổ ích cho cơ thể, tăng
cường cơ năng tiêu hoá và bài tiết.
Chữa
trẻ em nóng ấm, đái đục, đái dầm hay bị ốm, đổ mồ hôi trộm, nóng ruột, chán
cơm, đái sẻn, đại tiện táo dùng rau ngót và rau bầu nấu canh với bầu dục lợn
cho ăn.
Chữa
trẻ em tưa lươi, giã rau ngót vắt lấy nước cốt thấm vào lưỡi.
RỄ CÂY GAI
Rễ
cây gai có vị ngọt, hơi đắng, tính mát có tác dụng cầm máu, an thai, mát máu,
lợi tiểu, chữa động thai chảy máu, sưng tấy, đái đục, đái ra máu.
Chữa
tử cung sưng viêm, sa tử cung: rễ cây gai 30g, bồ công anh, quả kim anh, lõi
cây móc (sát gốc) mỗi vị 12g sắc uống.
Chữa
các chứng lậu, đái buốt, đái dắt: củ gai, bông mã đề mỗi vị 30g, hành 3 nhánh,
sắc uống (Nam dược thần hiệu).
Chữa
phụ nữ có thai phù thũng, đái đục, tê thấp đau mỏi, ỉa lỏng kém ăn: rễ cây gai,
tỳ giải, rễ ý dĩ mỗi vị đều 25g sắc uống.
Chữa
thai nhiệt đau bụng, động thai rong huyết dùng 50 - 70g sắc uống hoặc thêm
huyết dụ 20g (nếu ra máu.
RỄ CỎ GÀ
Rễ
cỏ gà có vị ngọt nhạt, tính mát cs tác dụng thanh nhiệt làm mát huyết và lợi
tiểu, dùng một nắm sắc uống.
Hải
Thượng Lãn Ông đã dùng lá chữa sưng họng, viêm họng amiđan.
RỄ DỨA DẠI
Rễ
dứa dại mới được dùng trong nhân dân làm thuốc lợi tiểu, chữa phù thũng, cổ
trướng với liều 30 - 40g phối hợp với rễ cỏ xước, cỏ lưỡi mèo mỗi vị 20 - 30g
sắc uống. (kinh nghiệm dân gian).
RỄ CÂY TẦM XUÂN
Rễ
cây tầm xuân thường mọc hoang ở các bụi gai ven đường. Nam dược thần hiệu ghi
lại: rễ tầm xuân có vị đắng chát, tính mát, có tác dụng sát trùng, chữa lỵ, trừ
thấp nhiệ, làm gân cốt, chữa mụn nhọt lở ngứa.
Chữa
trẻ em kiết lỵ lâu ngày dùng rễ tầm xuân sắc uống.
Chữa
phong thấp teo cơ, lưng gối đau mỏi, đi lại vận động khó khăn dùng rễ tầm xuân,
cây vú bò, ngưu tất, dây chìu, rễ thanh tào, hà thủ ô, cẩu tích mỗi vị 20g sắc
uống.
Chữa
bệnh tiêu khát, đái tháo, hay vãi đái không nín nhịn được dùng rễ tầm xuân một
nắm sắc uống (Nam dược thần hiệu).
HẠT TIÊU
Hạt
tiêu có vị cay, tính nóng, có tác dụng làm ấm bụng, hạ khí, tiêu đờm, chống
lạnh.
Chữa
đột ngột đau bụng do lạnh, nôn mửa, ỉa lỏng dịch tả, trúng hàn đau vùng tim,
hen suyễn khó thở, đờm tắc dùng mỗi lần 20 - 30 hạt (dưới 2g) bệnh cấp có thể
dùng tăng 2 - 3 lần.
Hồ
tiêu dùng ít thì tăng tiêu hoá, dùng nhiều thì kích thích niêm mạc dạ dày, có
thể dẫn tới xung huyết và gây viêm, đại tiện ra máu.
Hạt
tiêu tán bột dùng xỉa chữa sâu răng, thổi vào mũi gây hắt hơi và xát vào chân
răng chữa trúng gió lạnh hôn mê cắn răng, co quắp. Hạt tiêu còn dùng để chữa
sâu bọ, người ta thường bỏ vào tủ, hòm quần áo cho khỏi có gián...
Dùng
hạt tiêu làm gia vị thường được rang qua xát, sảy vỏ ngoài rồi mới xay hay tán
bột. Dùng làm thuốc thường: hạt tiêu đen dùng chữa bệnh cảm hàn vừa cho ra mồ
hôi, làm tan lạnh ở người vừa làm cho ấm bụng tăng sức nóng ở trong.
BỒ HÒN
Rễ
bồ hòn có vị đắng, tính mát, hơi độc, có tác dụng tiêu đờm hoá trệ, chữa cảm
gió ho có đờm, rối loạn tiêu hoá dùng 20 - 30g sắc uống.
Dầu
quả bồ hòn dùng bôi vào đùi, chân có thể phòng ngừa đỉa cắn khi lội xuống ao,
ruộng.
Vỏ
quả bồ hòn nấu nước đặc tươi, có tác dụng diệt sâu, trừ giòi.
RỄ LỨC
Rễ
lức có vị hơi mặn, hơi đắng, tính mát có tác dụng chữa cảm sốt, hay sốt từ cơn,
thoảng nóng, hay nóng rét xen kẽ từ vùng gan và đau đầu, chóng mặt dùng 15 -
20g sắc uống.
Chữa
sốt nóng mùa hè hoặc cảm sốt lúc nóng, lúc rét, khát nước, nhức đầu, đắng
miệng, ho, nôn oẹ dùng rễ lức 15g, sắn dây 12g, hương nhu 10g, thanh bì 8g sắc
uống.
RỄ HƯƠNG BÀI TRẮNG
Rễ
hương bài trắng có vị đắng, mùi thơm dịu, không độc, tính ấm, có tác dụng tán
khí, trừ khí độc, chữa đau bụng do lạnh, đau vùng tâm vị, nôn mửa, thổ tả hay
trúng khí độc bị ngất dùng với liều 12 - 20g sắc uống.
Ngoài
ra còn dùng để nấu nước tắm cho trẻ em bị rôm sảy, ngứa ngáy.
HẠT KÊ
Hạt
kê vị ngọt, tính bình, có tác dụng bổ thận, chữa các chứng nhiệt, ho nhiệt, ho
khan. Chữa trẻ nhỏ khắp mình nổi mụn đỏ như hạt kê, dùng lúa kê nấu lấy nước
tắm. Khi tắm thì hoà thêm vài hạt muối.
Chữa
âm hư hao khát, mỏi mệt sau những buổi thức đem mất ngủ, lao động quá sức,
trong người hắc nóng, ho, mồ hôi trộm, khó ngủ dùng hạt kê nấu chè đường ăn
thấy mát khoẻ, lại sức.
HẠT MUỒNG LẠC
Hạt
muồng lạc có vị ngọt, hơi chát, tính mát, bổ gan thận, làm sáng mắt, giữ tinh, chữa
bạch đới, di tinh, hư lao.
Chữa
thận hư đau lưng mỏi gối, di mộng tinh, trẻ em hay đái dầm, đái đục dùng hột
muồng lạc 15g, củ súng, tỳ giải, ngưu tất, cẩu tính mỗi vị 10g sắc uống. Ăn rau
bầu đất nấu canh và ăn nhộng (kinh nghiệm).
Chữa
phụ nữ bạch đới, đái dắt, đái són dùng: hột muồng, rau dừa nước, mỗi vị khoảng
20g, sao vàng sắc uống. Ngoài ra thêm ý dĩ sao vàng tán bột 15 - 20g/ngày.
CÀ PHÊ
Hạt
cà phê sống giã nát ngâm rượu uống chữa tê thấp, sốt rét, sắc uống thì gây nôn
để giải độc.
Lá
cà phê sắc uống làm chóng tiêu thức ăn và tiêu phù thũng.
Cà
phê rang tán bột uống có tác dụng tiêu mỡ, tiêu bớt chất đạm, tiêu độc rượu và
thuốc phiện.
*
Lưu ý: Người gầy, khó ngủ không nên
dùng. Tuy nhiên, dù không phải nhóm đối tượng trên cũng không nên dùng kéo dài
sẽ sinh bệnh.
HẠT MUỒNG
Hạt
muồng (còn gọi thảo quyết minh) tươi có vị nhạt, hơi đăng đắng, có chất nhầy.
Chữa
đau mắt, mờ mắt, hoa mắt (có ám đểm như màng nhện, con ruồi bay), đau lưng
chuột rút: hạt muồng sao 20g, huyền sâm, sinh địa, dành dành, ngưu tất mỗi vị
12g sắc uống.
Chữa
khó ngủ, ngủ hay mê, tim hồi hội, huyết áp cao: hạt muồng sao 20g, mạch môn
15g, tâm sen sao 6g sắc uống.
Chữa
xuất huyết dưới da, đại tiện ra máu, hội chứng lỵ, bệnh trĩ, đi ngoài ra máu và
dự phòng xuất huyết não thì dùng theo bài thuốc sau:
Hạt
muồng sao 10g, hoa hoè sao 10 sắc uống.
Hoặc
sao, tán bột uống mỗi lần 5 - 7g, ngày uống 3 lần.
Dự
phòng thì uống mỗi ngày 10 - 12g.
*
Lưu ý: Hạt muồng uống nhiều dễ gây đi
lỏng và kém tiêu, khi thấy xuất hiện triệu chứng trên thì ngừng. Sau vài hôm sẽ
uống tiếp với liều lượng ít và thưa hơn, có thể uống thêm 12g ý dĩ sao vàng thì
không đi lỏng. Người đang ỉa chảy kiêng không được dùng.
ĐẬU ĐỎ
Đậu
đỏ có vị chua ngọt, tính bình, ngoài là một thức ăn bổ dưỡng, ngon miệng còn có
tác dụng: thanh nhiệt, giải độc, lợi tiểu, hành huyết, trị nôn mửa và mụn lở do
thấp nhiệt.
Chữa
trẻ chậm biết nói, dùng đậu đỏ tán nhỏ, hoà với rượu bôi dưới lưỡi trẻ hàng
ngày.
Chữa
thấp nhiệt sinh lở và sưng chân: dùng đậu đỏ 20g, vỏ núc nác, ngưu tất, kim
ngân hoa, bồ công anh, đơn đỏ mỗi vị 12g sắc uống.
Chữa
mụn trĩ chảy máu và đại tiện ra máu: dùng đậu đỏ 20g, đương quy 8g, hoa hoè sao
12g sắc lên rồi hoà vào 20g cao da trâu đun loãng uống.
Chữa
mụn nhọt mới phát sưng, nóng, đỏ, đau dùng bột đậu đỏ hoà với nước, cho sền sệt
đắp thay hàng ngày.
HẠT CẦY THÌA
Thìa
có vị cay, tính ấm, y học dân tộc cổ truyền thường dùng thay tiểu hồi có tác
dụng chủ yếu làm ấm tỳ, vị, giải độc thức ăn tanh, hôi, giúp tiêu hoá, chữa nôn
đầy đờm trệ dùng 3 - 6g hạt nhai nuốt.
NHÂN HẠT TÁO
Nhân
hạt táo sao đen, vị ngọt, tính bình, có tác dụng yên tâm thần, bổ gan mật, chữa
ít ngủ, hay quên dùng 8 - 12g phối hợp với các vị thuốc khác.
Nếu
dùng sống thì không ngủ được nhưng lại có tác dụng nhuận tràng.
Lá
táo sao sắc uống chữa trẻ em hen suyễn và dùng tươi đắp mụn hút mủ.
Chữa
kinh hãi, hồi hộp, ít ngủ, khó khỏ, hay nằm mê, hoảng hốt, mất trí dùng nhân
táo sao, sinh địa, hạt muồng sao, mạch môn, long nhãn, hạt sen mỗi vị 12g sắc
uống, hoặc tán bột viên với mật ong, uống mỗi ngày 20 - 25g.
Ý DĨ (Bo bo)
Ý
dĩ vị nhạt, dùng sống tính mát, lợi tiểu, lợi sữa, trừ thấp nhiệt: sao vào thì
tính bình bổ tỳ, vị, ngưng tả lỵ, chữa phù thũng, tê thấp, phụ nữ bạch đới liên
miên dùng 10 - 16g bột ăn hoặc sắc uống.
Chữa
trẻ nhỏ ỉa chảy do vi rút, ỉa phọt phẹt ra nước như cháo, sắc mặt của trẻ xanh,
vàng, háo khát (bú chặp chặp) vàng đít đỏ dùng ý dĩ sao 30g, xa tiền tử 15g sắc
uống liên tục, trẻ đái được nhiều mà chặt phân, ngừng ỉa lỏng.
ĐẬU ĐEN
Đậu
đen là loại cây rất dễ trồng. Đậu đen có vị ngọt, tính mát, có tác dụng bổ
thận, trừ phong nhiệt, giải độc, hạ khí, lợi tiểu, chữa bệnh thận, tiểu khát.
Trong
cuốn “Nam dược thần hiệu” của Tuệ Tĩnh ghi lại: đậu đen chữa đau bụng dữ dội
dùng đậu đen 50g sao cháy sắc với rượu uống hoặc sắc với nước rồi chế thêm rượu
vào uống.
Chữa
bỗng dưng sườn đau nhói: đậu đen sao 200g ngâm rượu uống.
Chữa
các chứng phong thấp, tê thấp, tay chân co rút: đậu sị (đậu đen đồ lên rồi ủ có
lên mốc) rồi lại đồ và phơi 9 lần, ngâm rượu uống.
Chữa
trúng độc trong khi có thai, bị ngất: đậu đen 80g, gừng sống 20g sắc uống.
Chữa
đau khi đẻ, bị trúng gió nguy cấp, tay chân tê cứng, chóng mặt sây xẩm dùng đậu
đen 300g sao cháy đến bốc khói, đổ vào 500ml rượu, ngâm qua 1 ngày, đem uống và
đắp chăn cho ra mồi hôi.
Chữa
tiêu khát (đái đường) do thận hư: đậu đen, thiên hoa phấn lượng bằng nhau tán
nhỏ làm viên, uống nước sắc đậu đen làm than.
Ngoài
ra: đậu đen còn được dùng với hà thủ ô để uống cho tóc đen mượt.
ĐẬU NÀNH
Đậu
nành có rất nhiều chất dinh dưỡng và cho nhiều calo. Đậu nành dùng chế biến
thành tương, cháo, đậu phụ là những thực phẩm có nhiều chất dinh dưỡng, bổ ích
và đặc biệt sữa đậu nành là một thức uống cần thiết cho các bệnh nhận đái tháo
đường, cao huyết áp và tim mạch với tác dụng giảm bệnh rõ rệt. Chất đạm thực vật
của đậu nành rất thích hợp với việc điều dưỡng bệnh nhân.
Đậu
nành chủ yếu dùng làm tươi, đậu phụ và làm sữa đậu nành, là thức uống để bồi bổ
trong sinh hoạt hàng ngày, đó là những thức thanh đạm và có nhiều dinh dưỡng,
được nhân dân ta quen dùng từ rất lâu đời và được Lãn Ông lưu ý về nuôi dưỡng
bệnh nhân trong tập “Vệ sinh yếu quyết và Nữ công thắng lãm”.
Đậu
nành ngày nay đã phổ biến trong nhân dân ta, đã có mặt trong các bữa ăn, đồ
uống...
CANH KI NA
Cây
canh ki na thường được nhân dân Nam Bộ trồng.
Vỏ
canh ki na vị đắng, chát, có tác dụng làm mạnh khí lực và chữa sốt rét cơn,
dùng 5 - 10g bột uống hàng ngày hoặc ngâm rượu uống.
Bột
canh ki na còn được dùng chữa cảm cúm, tim đập nhanh, uống theo liều và dùng
rắc vết thương, vết loét, chống nhiễm trùng.
HẠT ÓC CHÓ
Nhân
hạt óc chó “còn gọi hồ đóa nhục” có vị ngọt, tính bình, hơi ấm, có tác dụng bổ
phế, thận, làm mạnh sức béo người, đen tóc, trơn da, chữa tinh tiết, ho lâu,
gối lưng đau mỏi, dùng 4 - 12g phối hợp với các vị thuốc khác.
Chữa
bị thương đau nhức, dùng nhân hạt óc chó giã nhỏ hoà với rượu uống và giã lá
tươi hay vỏ quả đắp rịt ngoài.
Chữa
bệnh người già hen suyễn và đái ra cát, sỏi, giã nhân hạt óc chó nấu cháp
thường ăn thì bệnh chóng khỏi.
Dầu
óc chó bôi ngoài chữa bị bỏng, lở tràm và nhuộm tóc đen.
Chữa
thận lạnh, đau buốt ngang lưng, rũ mỏi, liệt dương, đái són, đái luôn, vãi đái,
tiết tinh: nhân hạt óc chó 12g, ba kích 10g, nhân quả rễ (ích trí nhân), ô
dược, cẩu tích mỗi vị đều 8g sắc uống.
ĐẬU XANH
Đậu
xanh có vị ngọt, hơi tanh, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, giải khát, trừ
độc, trừ phiền nhiệt, bớt đau sưng, điều hoà ngũ tạng, nấu ăn thì bổ mát và trừ
được các bệnh nhiệt.
Chữa
các loại ngộ độc: đậu xanh nghiền sống chế vào nước, hoà đều cho uống thật
nhiều để nôn ra sẽ giải được độc.
Chữa
trong bụng cồn cào, nhức đầu, nôn oẹ hoặc có thai hay nôn oẹ, thai không yên
dùng: đậu xanh nhai sống nuốt hoặc nấu cháo đậu xanh với đường ăn.
Chữa
bệnh tiêu khát, khát nước uống nhiều lvà đái tháo không ngừng, dùng đậu xanh
nấu cháo ăn hàng ngày và sắc cây bông ổi (cứt lợn) uống thay chè.
Đời
xưa, dự phòng các bệnh ôn nhiệt, mùa hè dùng đậu xanh, đậu đỏ, đậu đen 3 thứ
bằng nhau nấu cùng với một ít cam thảo (hay cam thảo dây) ăn và uống nước trong
7 ngày liền sẽ giúp cơ thể có thể tránh nhiễm cảm.
NHÂN HẠT ĐÀO
Nhân
hạt đào (đào nhân) có vị đắng, chua ngọt, tính bình, có tác dụng phá tan máu ứ,
nhuận tràng, lợi tiểu, chữa đau vùng tim, ho nhiều và kinh bế dùng 6 - 12g phối
hợp với các vị thuốc khác.
Lá,
vỏ, nhựa cây đào có vị đắng, tính bình, lá đào có tác dụng sát trùng, nhựa đào
làm tan kết tụ và giảm đau, ngoài ra tác dụng lợi tiểu mạch hơn lá và vỏ.
Chữa
bí đại tiện dùng nhân hạt đào 40g luộc ăn vào lúc đói. Chữa đại tiểu tiện không
thông dùng lá đào 1 nắm to giã vắt lấy nước cốt uống ( theo Nam dược thần
hiệu).
Chữa
ho hen thở gấp, ngắn hơi dùng nhân hạt đào 100g (bỏ vỏ hạt và đầu nhọn) giã nhỏ
nấu cháo ăn hoặc cùng một cái gan lợn khô giã nát làm viên uống dần (Nam dược
thần hiệu).
Chữa
tinh hoàn sưng to thì dùng lá đào, lá sâm quấn chiếu mỗi thứ một nắm sắc uống.
Ngoài
ra còn cách dùng cả hai thứ là này đem giã nhỏ, chưng nóng và đắp vào chỗ sưng
của tinh hoàn (Hành giản trân nhu).
Chữa
đái đường cấp dùng nhựa cây đào 12g nhỏ vào với nước sắc dây tơ hồng 30g uống.
Chữa
bệnh chốc lở, rôm xảy, sưng âm hộ, thì bứt một nắm lá đào tươi đem giã nát rồi
sau đó xoa xát thật kỹ.
Chữa
đái đường dùng nhựa đào 20g nhỏ uống với nước sắc địa cốt bì và râu ngô mỗi vị
30g.
MÃ TIỀN
Nhân
hạt mã tiền vị đắng, tính hàn, dùng chữa tê thấp, tay chân đau nhức, bại liệt,
liệt nửa người, chó dại cắn.
Chữa
phong quàng cổ hay bạch hầu, họng sưng đau không nuốt được dùng mã tiền 1 hạt,
lấy nhân cùng mài với thạch mộc hương 1g và hoà với mật gấu 1g, phèn xanh 1g
phết vào họng nhiều lần trong ngày sẽ có kết quả.
Chữa
trúng phong bại liệt hoặc bàng quang đái khó hay đái nhỏ giọt dùng mã tiền chế
uống mỗi lần 0,1g ngày uống 3 lần.
*
Lưu ý: Mã tiền có độc, khi dùng phải
thận trọng.
CỎ NHỌ NỒI
Cỏ
nhọ nồi có vị chua, tính lạnh có tác dụng làm đông máu và cầm máu, hạ sốt dùng
50g lá tươi giã vắt lấy nước cốt uốgn hoặc 20 - 30g lá khô phối hợp với các vị
huyết dụ, lá trắc lá sao, mỗi vị 15g sắc uống.
Chữa
các chứng đau sưng ở trẻ em và người lớn: cỏ nhọ nồi, rau diếp cá, lá xương
sông, lá huyết dụ, lá khế, lá dưa chuột, lá nhài, lá cải trời giã nát, chế nước
vào, vắt lấy nước uống, bã dùng xoa, đắp chỗ xưng (Nam dược thần hiệu).
Chữa
mộng tinh do nóng ở trong (tâm thận) dùng cỏ nhọ nồi sấy khô tán nhỏ uống mỗi
lần 8g với nước cơm hoặc sắc 30g uống (Nam dược thần hiệu).
Chữa
sốt xuất huyết nhẹ, sốt phát ban, phong nhiệt nổi mẩn: cỏ nhọ nồi, rau sam, sài
đất, huyền sâm, mạch môn, ngưu tất mỗi vị 10 - 15g sắc uống.
ĐẬU HÀ LAN
Hạt
đậu Hà Lan có tác dụng bồi dưỡng cơ thể, làm mạnh sức và có công năng lợi tiểu,
cầm ỉa lỏng.
Hạt
giã sao vàng sắc 20 - 30g uống chữa trẻ em ỉa chảy ra nước và đái ít hay ỉa sốt
về mùa hè.
Lá
cây 60 - 100g uống để giải cảm nắng hoặc dùng để hạ sốt.
HẠT MUỒNG TRINH NỮ
Hạt
muồng trinh nữ có vị đắng, hơi mặn tính mát, có tác dụng giúp tiêu hoá, lợi
tiêu, bài chữa phù thũng, dùng 15 - 20g sắc uống hoặc phối hợp với các vị thuốc
khác.
Lá,
rễ có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, nhuận tràng, chữa lỵ mới phát, dùng 20 -
30g sắc uống.
HẠT ĐẬU DẠI
Hạt
đậu dại cũng được nhân dân dùng làm thuốc có tác dụng mạnh tỳ, khi dùng rang
thơm, sắc uống để chữa rối loạn tiêu hoá, nôn mửa và ỉa lỏng về mùa hè hay ở
trẻ em (như hạt đậu ván).
Ở
Trung Quốc lá và rễ cây này được dùng làm thuốc giải độc và tiêu sưng.
CỎ SỮA
Cỏ
sữa có vị nhạt, hơi chua, tính lạnh, có tác dụng thanh nhiệt, lợi thấp, thu
liễm, chữa lỵ khuẩn, lòi dom chảy máu, giải độc, phong ngứa và thông sữa dùng
50g thuốc khô hay 80g thuốc tươi, giã vắt lấy nước cốt hoặc sắc uống.
Chữa
viêm da nổi mẩn ngứa: dùng cỏ sữa giã mát xoa hay nấu nước rửa.
Chữa
kiết lỵ, viêm ruột, viêm da, mẩn ngứa và tắc tia sữa dùng 20 - 40g cỏ sữa khô
sắc uống.
CỎ XƯỚC
Cỏ
xước được Tuệ Tĩnh dùng thay ngưu tất, nó có tính tương tự như ngưu tất (cùng
họ, cùng chi) có vị chua đắng, tính bình. Tác dụng: hoạt huyết mạch gân, liễm
hoả, lợi tiểu, chữa phong thấp yếu liệt, sốt kinh niên, dùng 10 - 20g phối hợp
với các vị thuốc khác.
Chữa
phù thũng hay vàng da dùng: cỏ xước, rễ cỏ tranh, bông mã đề, dây khố rách (mộc
thông) mỗi vị 25g sắc uống.
Trị
nhiễm khó độc của rừng núi, mê man nguy cấp dùng: lá cỏ xước một nắm to sắc
uống.
Chữa
phụ nữ bí đái hoặc trẻ em ngọc hành đau buốt khi đi tiểu dùng: cỏ xước hay ngưu
tất một năm 16 - 24g sắc uống (Nam dược thần hiệu).
CỎ LÁ TRE
Cỏ
lá tre có vị ngọt nhạt, tính mát, có tác dụng chữa sốt nóng, sốt cao, nhiều mồ
hôi, khát nước, trằn trọc, mê sảng, trẻ em sốt cao, co giật, viêm đường tiết
niệu, đái đoe, miệng lở, răng đau, sưng lợi: dùng 10 - 16g sắc uống với bột
thạch cao 12g hoặc bột sắn dây 20g.
Y
học dân tộc xưa nay vẫn dùng lá tre xanh cũng như cỏ lá tre (theo cách của Tuệ
Tĩnh).
CỎ THÁP BÚT
Cỏ
tháp bút có vị ngọt hơi đắng, tính bình, có tác dụng chữa mắt sưng đau đỏ, màng
mộng, viêm gan vùng da, đái ra sỏi, vừa có tác dụng làm ra mồ hôi và cầm máu tử
cung.
Liều
dùng 10 - 20g hoặc phối hợp với các vị thuốc khác.
Chữa
ỉa chảy ra máu: cỏ tháp bút 20g sắc uống vào lúc đói (Nam dược thần hiệu).
Chữa
mắt đau lâu ngày, bị màng che cùng mọi chứng mệnh bắt dùng: cỏ tháp bút, cỏ dùi
trống (cốt tinh thảo), một muồng ngủ sao, xác rắn, sinh địa, hoa cúc mỗi vị 10g
sắc uống.
Chữa
bệnh viêm gan, đái vàng thẫm, hoặc bệnh viêm thận, viêm bàng quang đái đỏ hoặc
đái ra sỏi, thì dùng cỏ tháp bút, mộc thông, xa tiền tử (hạt bay lá bông), sinh
đoạ, cỏ xước hay ngưu tất, rễ cỏ tranh mỗi vị chừng 15g sắc uống với bột hoạt
thạch 15g chia là 3 lần.
CỎ SÒ HUYẾT
Cỏ
sò huyết có vị ngọt nhạt, tính mát, có tác dụng mát máu, chữa cảm sốt ho, ho ra
máu, trẻ em ho gà, đi lỵ ra máu dùng lá hoa tươi 30 - 40g sắc uống. (kinh
nghiệm dân gian)
CỎ NGỌT
Cỏ
ngọt có chất Steviosid là một loại đường thiên nhiên không có nitơ, có độ ngọt
bằng 150 - 300 lần đường ăn (sacaroza) với hàm lượng 7 - 10% trong hoa lá khô
và 0,4% trong thân. Steviosid được dùng trong thực phẩm để tăng độ ngọt, trong
các loại bánh kẹo, nước giải khát hoặc trộn với chè để pha uống hàng ngày.
Về
mặt y học, Steviosid được dùng thay thế loại đường ăn cho những người mắc bệnh
béo phì, đái đường, tăng Cholesterol trong máu vì nó chỉ cung cấp năng lượng
cho cơ thể ở mức thấp, không gây tác dụng phụ và không độc hại, rất tốt cho
người cao tuổi.
CỎ ROI NGỰA
Cỏ
roi ngựa có vị đắng, tính mát, có tác dụng: hoạt huyết, tán ứ, thanh nhiệt,
giải độc, thông kinh, lợi tiểu dùng 20 - 30g phối hợp với các vị thuốc khác.
Chữa
ăn nhầm phải các loại cá độc sinh cổ trướng dùng: cỏ roi ngựa một nắm to sắc
uống càng nhiều càng tốt.
Chữa
kinh bế, tích huyết thành hòn cục dùng: cỏ roi ngựa giã nhỏ, nấu cao, uống mỗi
lần một thìa với rượu vào lúc đói, ngày uống 3 lần (Nam dược thần hiệu).
Chữa
viêm gan, gan cứng, bụng trướng hay viêm cầu thận, phù thũng: cỏ roi ngựa, ích
mẫu, mộc thông, cỏ xước, cỏ rễ tranh mỗi vị 20g sắc uống.
Chữa
lở ngứa: dùng cỏ roi ngựa nấu nước tắm rửa, xoa xát rất công hiệu.
Chữa
vú sưng sinh nhọt, tắc tia sữa, sưng đau: dùng cỏ roi ngựa một nắm, gừng sống 1
củ giã nhỏ, chế vào một chén rượu, vắt lấy nước cốt uống, bã dùng đắp chỗ đau.
(Nam dược thần hiệu).
CỎ MẦN CHẦU
Cỏ
mần chầu có vị ngọt, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, mát máu, chống bốc
nóng, chữa cảm nắng, sốt nóng, máu xông lên đầu, nổi mẩn ngứa, đái sẻn, đái đỏ
dùng 80 - 120g sắc uống hoặc phối hợp với rễ cỏ tranh mỗi thứ 40g cùng sắc
uống.
Chữa
phong nhiệt lở ngứa, nổi mẩn: cỏ mần chầu giã tươi vắt nước uống.
Chữa
sa đì (viêm tinh hoàn) dùng cỏ mần chầu, ích mẫu môic thứ 40g, sắc uống (Bách
gia trân tàng).
Có
người dùng cỏ mần chầu giã vắt lấy nước uống cho mát gan và chữa cao huyết áp.
Kinh nghiệm có trường hợp dùng cỏ mần chầu khô sắc uống ngày 100g uống thay chè
liền trong 1 năm đã khỏi được biếu cổ.
HOA HỒNG
Hoa
hồng có vị ngọt, mùi thơm mát, tính lành, có tác dụng chữa các bệnh:
Chữa
ra máu, tiểu tiện ra máu, lỵ ra máu dùng hoa hồng đỏ 10 bông nấu với đậu đen
một vốc với vài thìa đường, lấy nước uống dần trong một ngày, dùng 3 ngày liền.
Chữa
trẻ nhỏ ho dùng hoa hồng bạch chưng với đường phèn, cho uống ít một, rất nhanh
khỏi.
Chữa
mụn nhọt sưng tấy, thì giã hoa hồng đắp sẽ tiêu.
Chữa
miệng lưỡi lở loét dùng mấy cánh hoa hồng giã nhỏ trộn với mật ong, xoa ngậm.
HOA NHÀI
Hoà
nhài, lá nhài vị cay, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, giải biêu, chữa cảm
sốt, đầy bụng, đi ỉa lỏng dùng mỗi lần 6 - 12g phối hợp với các vị thuốc khác
như lá dây chè, lá ngấy hương hay ngấy tía mỗi thứ 20g sắc uống, bó rịt thì bớt
đau nhức.
Chứa
đau mắt sưng đỏ dùng lá nhài nấu nước xông và rửa mặt.
Chữa
trẻ em đầu mô (lở có mủ dưới lớp da khô như vảy), dùng lá nhài giã nhỏ đắp sau
khi rửa sạch mủ với nước sôi và bỏ lớp mô ngoài.
Chữa
lỵ, đi ngoài ra máu: dùng hoa nhài khô pha với trà uống.
HOA MÀO GÀ
Hoa
mào gà có vị ngọt, tính mát. Tác dụng chữa băng huyết, đại tiện ra máu, kiết lỵ
dùng 20 sắc uống.
Chữa
hành kinh không dứt, rong huyết, dùng hoa mào gà khô tán nhỏ, uống mỗi lần 8g
với rượu (kiêng ăn cá tanh và thịt lợn).
Chữa
sau đẻ máu hôi không thông sinh đau bụng dùng hoa mào gà trắng 30g sắc uống
(kinh nghiệm).
Chữa
bệnh lỵ lâu ngày, đái ra máu dùng hoa mào gà cả hai loại đỏ và trắng mỗi thứ
20g sắc uống.
Hạt
mào gà có vị đắng, tính mát chữa đau mắt, mắt bị sưng, đỏ, chói, sợ ánh sáng,
hay chảy nước mắt và đau đầu: thanh tương tử, lá dâu, hoa cúc vàng, cỏ tháp bút
mỗi vị 12g, cỏ thanh ngâm (thăm ngăm) 4g sắc uống và xông mắt.
Lá
cây mào gà phơi khô dùng 30g sắc uống chữa hen phế quản hoặc phối hợp với lá
hẹ, lá xương sông, dây tơ hồng (sao) mỗi vị 20g sắc uống.
Chữa
lở ngứa và trĩ chảy máu, dùng lá mào gà tươi nấu nước rửa ngâm hoặc giã nhỏ xoa
đắp băng lại.
*
Lưu ý: Hột mào gà có tác dụng làm
giãn con ngươi, những người can thận hư hoặc có bệnh bazơđô không được dùng.
CỎ BỜM NGỰA
Cỏ
bờm ngựa có vị ngọt, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, lợi tiểu, mát huyết,
giải độc, chữa viêm nhiễm đường tiết niệu, đái buốt, đái đường, viêm thận, phù
thũng và viêm gan, vàng da hoặc cảm sốt nóng dùng 40 - 80g thuốc tươi sắc uống.
*
Lưu ý: Cây này có tác dụng gần như rễ
cỏ tranh.
HOA CÚC
Hoa
cúc được nhiều người trồng, thu hoạch lấy hoa. Hoa cúc có vị ngọt đắng, tính
mát, có tác dụng thanh nhiệt, hạ hoả, chữa đau mắt, chóng mặt, nhức đầu dùng 12
- 20g hoặc phối hợp với các vị thuốc khác.
Chữa
mắt có mạng mộng: dùng hoa cúc vàng, xác ve sâu bằng nhau tán nhỏ, uống mỗi lần
8 - 12g với nước hoà mật ong. (Nam dược thần hiệu).
Chữa
phong nhiệt đau mắt hay phong ôn cảm sốt đau đầu, đỏ mắt: Hoa cúc, huyền sâm,
sinh địa, hạt muồng sao, kinh giới, sài hồ mỗi vị 12g, xuyên khung 8g sắc uống
và xông.
Chữa
can thận hư mắt mờ, có ám điểu con ruồi bay, hoa mắt chóng mặt, huyết áp và dự
phòng co thắt mạch máu não dùng: cúc hoa, hoè hoa, quyết minh tử sao, kỷ tử,
thục địa, huyền sâm, hoài sơn, trạch tả, ngưu tất mỗi vị 12g sắc uống.
HOA HOÈ
Hoa
hòe và quả hoè đều có vị đắng: Hoa hoè tính mát, quả hoè tính lạnh có tác dụng
thanh nhiệt, giáng hoả, cầm máu, bổ não, phụ nữ băng huyết, cao huyết áp...
Chữa
các loại xuất huyết, đi lỵ ra máu, bệnh trĩ, đi ngoài ra máu, dùng hoa hoè (sao
qua) 10 - 15g sắc uống. Quả hoè dùng lượng ít hơn 8 - 12g.
Chữa
người bị huyết áp cao, đầu choáng váng, ngón tay hơi tê cần dự phòng xuất huyết
não hoặc người có bệnh trĩ đại tiện táo bón và thường ra máu, làm việc suy nghĩ
nhiều, đầu óc căng thẳng thần kinh suy nhược, hoả bốc nhức đầu, mắt đau sợ
chói, khó ngủ... dùng hoa hoè sao và hoa muồng (thảo thuyết minh) sao đen, hai
vị bằng nhau, tán bột, uống mỗi lần 5g, ngày dùng 10 - 20g hoặc dùng mỗi vị 10g
hãm vào phích uống nước chè.
Chữa
sốt xuất huyết sau khi sốt bệnh đã lùi mà còn xuất huyết nhẹ, chảy máu dưới da,
trẻ em thường đổ máu mũi, chảy máu chân răng, trằn trọc khó ngủ cũng dùng như
trên, ngày uống 10 - 12g hoặc sắc 10g quả hoè uống.
HOA HIÊN
Hoa
hiên có vị ngọt, tính mát, có tác dụng làm yên ngũ tạng, khoan khoái trong
lòng, trừ thấp nhiệt, an thai, lợi tiểu, khỏi bốc nóng, ăn ngon ngủ yên, sáng
mắt, nhẹ mình.
Chữa
động thai: ăn canh hoa hiên và uống nước sắc củ gai bánh 30g (thập tam phương
gia cảm của Tuệ Tĩnh).
Chữa
chứng vàng da do tích rượu dùng rễ củ hoa hiên giã nhỏ, vắt lấy nước cốt uống.
HOA SÓI
Cây
hoa sói, gốc và rễ có dầu thơm, tính hơn độc, có tác dụng trừ thấp, giảm đau,
giải độc, giã đắp ngoài chữa mụn nhọt đinh độc chưa mưng mủ hoặc ngâm rượu xoa
bóp chữa phong tê thấp gân xương đau buốt.
HOA ĐẠI
Vỏ
cây, vỏ rễ và nhựa đều có tác dụng tẩy mạnh và tháo nước, chữa bí tiểu tiện và
thũng trướng.
Vỏ
cây dùng 6 - 12g sắc với 200ml nước, chia uống làm 3 lần, đại tiện thông thì
thôi.
Chữa
mụn nhọt sưng tấy: chính mủ bôi.
Chữa
đại tiện táo: dùng 0,4g đến 0,8g hoà với 1 chén nước, chia uống làm 3 lần, đi
được thì thôi.
Hoa
đại có vị ngọt, tính bình, mùi thơm, có tác dụng thanh nhiệt, trừ thấp.
Chữa
huyết áp cao dùng hoa đại 12 - 20g sao vàng sắc uống.
Chữa
lỵ và nhiệt tả mùa hè dùng 20g hoa khô sắc uống.
CÚC DẠI
Cúc
dại có vị đắng, tính mát, có tác dụng mất máu tiêu sưng, giải độc, chữa mụn nhọt
và bị thương sưng tấy. Lãn Ông đã dùng chữa nhiệt độc sưng tấy dùng cây hoa cúc
dại giã nát sắc với rượu, cho uống lúc nóng và lấy bã giã đắp chỗ sưng. Chữa
mụn nhọt dùng lá cúc trắng giã nhừ với ít muối đắp.
*
Lưu ý: Cây cúc dại có hoa màu vàng
giống tổ ong, mọc hoang hay được trồng ở nghĩa địa thì có độc không dùng thuốc
được.
BÔNG GẠO
Bông
gạo có vị ngọt, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, nhuận táo, chữa tan huyết ứ,
tiêu sưng, giảm đau...
Chữa
sưng tấy đơn độc, quai bị, viêm dạ dày, dùng vỏ gạo tươi (bỏ lớp ngoài) thái
miếng 30 - 40g sắc uống.
Chữa
bị thương gãy xương: vỏ chữa bị thương bỏ lớp thô ở ngoài giã nhỏ đắp đắp vào
băng bó lại. (Nam dược thần hiệu).
Chữa
giang mai lở loét hay nổi nhọt: vỏ cây gạo tươi (bỏ lớp thô) 80g, khúc khắc
50g, lá xấu hổ, bồ cu vẽ 30g, bồ kết, lá thầu dầu tía, lá cà độc dược mỗi vị
10g sắc uống 2 ngày 1 tháng (Bách gia trân tàng của Lãn Ông). Kiêng rượu và các
chất cay nóng.
Chữa
mụn nhọt, đơn sưng, lấy hoa gạo tươi giã nhuyễn đắp.
Chữa
kiết lỵ, viêm ruột già, dùng hoa gạo tươi 20 - 30g hoặc 30 - 40g hoa khô sắc
uống.
Chữa
bỏng: dùng hoa gạo tươi giã vắt nước cốt bôi. Trường hợp bị bỏng do đất đen hay
hơi hàn, tia lửa xì bỏng nặng thì dùng hoa gạo tươi ngâm trữ sẵn như sau: hái
hoa gạo trên cây rửa sạch, giã nhuyễn, đem chứa vào bình, chế vào một lượng dầu
gấc tương đương ngâm và đánh đều, trữ để dành. Khi xảy ra bị bỏng dùng nước
thuốc này bôi. Nếu vết thương lở loét thì lấy bã đắp. (Kinh nghiệm dân gian).
HOA THIÊN LÝ
Qua
kinh nghiệm trong nhân dân, ăn canh nấu với hoa thiên lý cho thấy trong người
khoan khoái, dễ ngủ và ngủ ngon giấc, bớt đi đái đêm và đỡ mệt mỏi đau lưng sau
những buổi làm việc quá sức. Hiện tại có thể coi hoa thiên lý là một vị thuốc
an thần tư bổ tâm thận.
Theo
kinh nghiệm, lá thiên lý giã với 5% muối vắt lấy nước cốt tẩm bông đắp rịt vào
hậu môn hay âm hộ mỗi ngày thay một lần, có thể chữa khỏi bệnh lòi dom.
Ngoài
ra, trong thực tế dùng hoa thiên lý xào với thịt bò hoặc luộc chấm muối vừng ăn
vào bớt đau mình mẩy, nhức xương.
LÁ CÂY BÀNG
Lá
bàng tính mát, chữa cảm sốt cho ra mồ hôi nhẹ, sắc 30g với lá hương nhu, cúc
tần uống.
Uống
lá tươi bánh tẻ giã nát, sao chườm chỗ sưng đau nhức rất tốt.
Quả
bàng nhai nuốt nước bỏ bã có tác dụng cầm ỉa lỏng, hết đau bụng, đầy hơi.
LÁ MƠ TAM THỂ
Lá
mơ tam thể có vị đắng, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, sát trùng.
Chữa
chứng kiết lỵ đi ngoài ra máu mũi hoặc có sốt hay đại tiện bất thường, ỉa chảy
phân lổn nhổn, hoa cà hoa cải cùng lá mơ tam thể vò qua, thái nhỏ 30g, trộn với
trứng gà, thêm vài hạt muối đánh đều, dàn mỏng trên lá chuối gói lại rồi lót
thêm một lượt lá chuối, đặt lên chảo rang hay nướng cho chín, đến khi thấy lá
chuối gần cháy thì đem ra ăn, làm vài lần là khỏi.
LÁ VÔNG
Cây
vông là loại cây rễ trồng và được nhiều người dân trồng lấy lá nấu canh chữa
chứng bệnh mất ngủ. Lá vông được dùng làm thuốc an thần.
Sắc
lá bông, lá sen uống chữa chảy máu mũi, đại tiện ra máu, lòi dòm hoặc giã lá
vông và lá sen vắt lấy nước cốt uống và chưng nóng bã đắp rịt chỗ lòi rom.
Nấu
canh với lá vông non và lá dâu non ăn cho dễ ngủ, khỏi nóng âm, trằn trọc, nhức
đầu, chóng mặt, người huyết áp cao và trẻ em mồ hôi trộm nên dùng.
Vỏ
vông theo y học cổ truyền có vị đắng, tính bình, có tác dụng trừ phong thấp,
chân tê phù: vỏ công, vỏ châm chim, kê huyết đắng, phòng kỷ, ý dĩ sao, ngưu tất
mỗi vị 15g sắc uống.
Chữa
kinh nguyệt không đều, rong kinh: hoa vông 15g, sắc uống hàng ngày đến khi hết
chứng bệnh trên.
Chữa
sau đẻ máu xẩm đưa lên choáng đầu, mờ mắt dùng: vỏ vồn già, lá mần tươi, cỏ mần
chầu, ngưu tất mỗi vị 10 - 15g sắc uống.
LÁ SUNG
Lá
sung dùng cho phụ nữ sau khi đẻ ít sữa, hay tắc tia sữa: quả mít non (dái mít)
thái nhỏ nấu cháo với gạo nếp hay nấu canh với chân giò lợn ăn.
Chữa
đinh nhọt các loại: chích mủ sung bôi vào.
Chữa
trên mặt nổi sưng từng cục đỏ như hạt đào, hạt mơ dùng lá sung tật (có vú) nấu
nước nóng xông rửa hàng ngày.
Chữa
bị thương bong gân, sai khớp dùng lá sung, lá bàng, lá mua, lá cỏ xước, lá cứt
lợn (bông ổi) giã nhỏ, chế rượu và rịt chỗ đau (gia thư hợp ký). Và dùng nhựa
sung hoà với rượu uống.
Chữa
bệnh nổi từng cục nhỏ ở lưng, ngực đau nhức, có sốt (Zona) dùng lá sung vú 40g,
huyền sâm, huyết giác, ngưu tất mỗi vị 20g sắc uống.
Chữa
nhức đầu, lấy nhựa sung phết vào giấy dán ở hai bên thái dương. Chữa liệt mặt
thì dánm vào bên mặt trệ xuống.
Chữa
trẻ em ghẻ lở: lá sung non giã nhỏ xát vào sẽ bong vảy.
LÁ THỊ
Quả
thị có mùi thơm, vị ngọt, tính mát.
-
Chữa bụng trướng sinh hơi nhất là sau khi mổ, không đánh trung tiện được, dùng
lá thị tươi giã nát dể vào hậu môn và đắp vào rốn. Hoặc dùng 100g lá thị khô
sắc lấy 100ml nước, cho uống 20 - 30ml mỗi lần và tẩm bông đắp vào rốn.
-
Chữa vết bỏng hay vết thương lở loét, dùng lá thị sắc đặc lấy nước dội bôi vào,
nếu chảy nước có giòi thì dùng lá thị khô tán bột hay vỏ cây thị đốt thành than
tán nhỏ rắc vào thi se da.
Dân
gian dùng lá khô cuộn như điếu thuốc lá cho bệnh nhân hút cũng gây chúng tiện
được.
BÈO CÁI
Bèo
cái có vị cay, tính bình có tác dụng: giải biểu cho ra mồ hôi và thanh nhiệt
lợi tiểu, tiểu độc, trị cảm nhiệt phong không ra mồ hôi,nổi mẩn ngứa dị ứng,
đơn độc sưng tấy, dùng bèo cái (hoặc bèo ván) 30 - 40g sắc uống lúc thuốc còn
ấm và xông.
-
Chữa đơn độc mới phát hay lang ngứa do mồ hôi ứ đọng, hay trẻ em lòi dom, đều
dùng lá bèo ván nấu nước xông và giã bèo ván đắp chỗ đau.
Chữa
phù thũng mới phát (vượng thuỷ: phù nhẹ toàn thân ấn không lõm, da đỏ): bèo ván
một nắm sắc uống. (Nam dược thần hiệu).
-
Chữa phong nhiệt đầu mặt sưng ngứa, đau mắt, khắp mình nổi mẩn ngứa hoặc sưng
phù dùng bèo cái (bỏ rễ), bạc hà, kinh giới mỗi thứ một nắm 30g sắc uống và
xông rửa.
LÁ MÓNG TAY
-
Chữa kinh gián đoạn do huyết hư, thiếu máu dùng lá móng tay 20g hồi dầu 15g sắc
uống.
-
Chữa con gái chậm kinh (không có quan hệ tình dục) dùng lá Móng tay sắc uống.
-
Chữa thông kinh để tránh thụ thai, dùng lá móng tay 50g, ích mẫu 40g, nghệ đen
30g sắc uống liền 3 tháng sau khi giao hợp hoặc trước kì kinh 3 ngày, mỗi ngày
uống một thang cho thấy kinh mới thôi (thông kinh thì thai không đậu).
-
Chữa nấm móng tay, móng chân,lở ngứa ở kẽ chân móng rồi lây lan ra các ngón
khác và khi lở cả bàn tay, bàn chân, dùng lá móng tay thêm vài hạt muối giã nát
đắp vào buổi tối, buộc rịt lại, ngày co thể mở ra cho thoáng hơi và dễ làm
việc.
Tuần
đầu thay thuốc mới hàng ngày, tuần thứ hai đắp thuốc thưa ra 2 ngày 1 lần, tuần
thứ 3 đắp 3 ngày 1 lần. Đến khi bớt lở ngứa mà bong da thì đắp lá thuốc bỏng
hoặc bôi dầu gấc.
-
Chữa sưng gan: dùng lá móng tay 30g, dành dành, huyền sâm, ích mẫu, mộc thông,
mỗi vị 15 - 20g sắc uống.
ÍCH MẪU
Ích
mẫu có vị đăng hơi cay, tính bình, có tác dụng: hoạt huyết điều kinh, làm tan
máu ứ, tiêu phù thũng, chữa các chứng trong khi thai nghén và các bệnh sau khi
đẻ của phụ nữ. ích mẫu có khả năng hạ huyết áp, trung hòa vị toan, chữa viêm
loét dạ dày hành tá tràng, hưng phấn cơ năng của tử cung và ứ chế vi khuẩn
ngoài da. Liều dùng: 12- 20g phối hợp với các vị khác.
-
Chữa huyết áp cao, đau đầu chóng mặt, rối loạn tiêu đình thì uống 4g với nước
sắc Hột muồng sao, Dành dành, Mộc thông mỗi vị đều 15g.
Để
tăng hoạt lực, ích mẫu được nấu thành cao đặc. Uống mỗi ngày 4 - 6g với tá dược
hay nước thanh tùy theo chứng bệnh.
Chữa
viêm loét dạ dày, tá tràng, ợ chua hay ợ hơi, uống mỗi lần 3g hòa với nước cơm,
lúc đói, ngày uống 2 lần.
-
Chữa trẻ em lở ngưa, rôm sảy, chốc đầu, thủy đậu, dùng cao ích mẫu hòa lòng
trong nước tắm cho trẻ hoặc hòa đặc bôi.
-
Cao ích mẫu uống liều cao có tác dụng thông kinh mạch thì thai không đậu được.
ích mẫu lại có độ kiềm cao làm cho môi trường trong tử cung không thích nghi
cho việc thụ tinh. Vậy dùng cao ích mẫu để tránh thai.
-
Dùng 40g cao ích mẫu và 40g bột Hoạt mạch chia uống làm 5 lần: uống trước khi
giao hợp 1 lần, liền sau khi giao hợp 1 lần, còn uống tiếp ngày hôm sau 3 lần.
-
Chữa kinh nguyệt thấy sớm kỳ kinh (vòng kinh ngắn lại) lượng máu nhiều màu đỏ
tươi, hay lượng máu ít, màu tím sẫm là huyết nhiệt thì dùng 4g cao hòa vào
trong nước sắc 12g Dành dành mà uống.
-
Kinh loạn kỳ, máu xấu, lượng ít là huyết hư thì uống 4g cao với 6g bột Hồi dầu.
-
Kinh chậm kỳ (vòng kinh dài ra), kinh đỏ nhạt là hư hàn thì uống 4g với nước
sắc Hương phụ và Ngải cứu mỗi vị đều 10g.
-
Kinh bế, quá kỳ kinh 10 ngày mà không thấy ( không phải là có thai) hoặc đau
bụng nhiều trước khi thấy kinh thì uống 6g cao ích mẫu với bột Nga truật hay
Nghệ đen 12g.
-
Hành kinh kéo dài, máu dính cục, sẫm đen thì uống 4g các với nước sắc Lưỡi vàng
và Trắc bá sao mỗi vị đều 10g.
-
Đau bụng trong khi hành kinh thì uống 15g cao với nước sắc Mần tưới, nếu đau
lưng, mỏi mệt thì thêm 10g Ngưu tất cũng sắc, hòa cao vào mà uống.
-
Rong kinh ra nhiều máu như băng huyết, thì uống 3g với nước sắc Cỏ nhọ nồi, là
Huyết dụ và lá Trắc bá sao sém mỗi vị đều 12g hoặc với 8g muội nồi hòa với 10g
cao da trâu đun loãng.
-
Trong khi có thai hay lao động phải đứng luôn, xuống máy chân, hoặc viêm thận
phù thũng thì uống 4g cao với nước sắc Mã đề, rễ Cỏ tranh hay Mộc thông 16g.
-
Khí hư, bạch đới thì uống 4g cao với nước lá cây Bấn, cây Vậy lá Bạc sao và rễ
Cỏ tranh mỗi vị đều 12g.
TRẮC BÁ
Trắc
bá có vị đắng chát, tính mát, lá và cành con đem sao, có tác dụng làm mát máu,
cầm máu; vỏ thân và rễ có tác dụng thanh nhiệt hóa thấp.
-
Chữa hỏa bốc gây nhức đầu, chảy máu mũi, ù tai viêm tai, miệng lưỡi lở loét,
mụn lở nước chảy, đau nhức dây thần kinh, dùng vỏ, cành, rễ trắc bá 29g, huyền
sâm và cành liễu mỗi vị 16g cùng sắc uống.
-
Chữa chảy máu các loại, dùng là trắc bá sáo cháy đen 20g, hoặc thêm cỏ nhọ nồi
và lá huyết dụ mỗi vị 15g sắc uống.
-
Quả trắc bá có vị ngọt, tình bình, có tác dụng: an thần, nhuận táo. Chữa khó
ngũ, hồi hộp, nôn nao kinh sợ, dùng quả trắc bá 20g, hạt táo chua sao đen, hạt
muồng ngủ sao, mạch môn, long nhãn, hạt sen, mỗi vị đều10g sắc uống.
NẤM HƯƠNG
Nấm
hương có vị ngọt, tính bình, không độc, ăn thì cho khí lực mạnh lên và có tác
dụng chữa bệnh chảy máu, đại tiện ra máu.
MỘC NHĨ
Mộc
nhĩ có vị ngọt, tính bình, hơi độc, ăn thì ích khí, không đói, mạnh chí, nhẹ
mình, còn dùng chữa các bệnh ssu:
-
Chữa đi lỵ ra máu, dùng 20g sao, tán bột, uống làm 3 lần.
-
Chữa bệnh trĩ lâu ngày, nấu mộc nhĩ ăn thì khỏi luôn.
-
Chữa đau răng, dùng mộc nhĩ và kinh giới, sắc lấy nước ngậm và xúc miệng.
Ngoài
ra, mỗi thứ nấm tùy theo loại cây nó mọc mà có tác dụng riêng, nhưng nói chung,
mộc nhĩ có công năng làm mát máu và cầm máu.
Một
số cây nấm có tác dụng như sau:
-
Nấm cây dâu dùng chữa băng huyết, rong kinh hành kinh không dứt, dùng nấm dâu
sao đen, tán nhỏ, uống vài ba thìa, ngày uống 3-4 lần.
Chữa
bỗng dưng đau gấp vùng tim, dùng nấm dâu đốt tồn tính, uống mỗi lần 8g, ngày
uống 3 lần.
-
Nấm cây bồ kết, hơi độc, không dùng ăn, chỉ dùng chữa đại tiện ra máu, hoặc ỉa
không thông, phân táo, uống mỗi lần 5g bột nấm bồ kết, chưa bớt thì uống thêm
3-4 lần là khỏi.
-
Nấm cây thông chữa đái đục, nấu ăn thì khỏi.
-
Nấm cây hòe chữa sau khi phụ nữ sinh đẻ đau bụng máu, dùng 20g tán nhỏ, uống
với rượu, khỏi ngay.
-
Nấm cây liễu chữa nôn ói, mửa ra đờm dùng 7 cái sắc uống.
* Lưu ý: Nấm lim có độc chết người, cấm dùng, không
nên ăn các thứ nấm lạ có thể bị ngộ độc nguy hiểm. Nếu ngộ độc do nấm thì dùng
bài thuốc như sau để giải độc:
-
Dùng đồng tiện (nước tiểu trẻ nhỏ con trai: lấy phần giữa) uống thật nhiều.
-
Sắc rễ cây Vỏ giẻ (hoa vàng) 30g, hay dây Kim ngân hoa 30g mà uống liên tục
(Nam dược thần diệu). Dùng đất sét quấy với nước để lắng, gạn lấy nước trong ở
phần trên mà uống thật nhiều.
LÁ BÈO TÂY
-
Chữa mụn nhọt thì giã lá với tý muối đắp.
-
Chữa sưng tấy thì giã với giấm chứng nóng đắp.
Khô
thì thay thuốc mới, ngày đắp 2 - 3 lần, tiêu sưng nhanh, nếu nhọt đã mưng mủ
thì chóng vỡ mủ và ráo mủ nhanh.
Trong
kháng chiến chống Mỹ, nhân dân miền Nam đã dùng lá bèo tây để dắp các vết
thương sưng tấy lở loét do độc chất đều có hiệu quả, đồng thời dùng lá bèo tây
nấu với đậu đen và đường uống để giải độc, trị các trường hợp ngộ độc hóa chất
cũng đều có hiệu quả tốt.
BẠC HÀ
Bạc
hà có vị cay, tính mát, có tác dụng: tán phong nhiệt, làm ra mồ hôi, giải cảm
sốt nhức đầu và chữa nôn mửa không tiêu. Liều dùng như sau:
-
Tinh dầu dùng giải cảm sốt nóng không có mồ hôi, mỗi lần uống 8 - 15 giọt với
nước nóng; dùng chữa nôn mửa, không tiêu, mỗi lần uống 4 - 8 giọt chiêu với
nước nguội. Rót tinh dầu vào chén hay thìa nước, chiêu vào họng rồi uống tiếp
nước tráng miệng.
Chữa
các chứng cảm sốt nóng (không gai rét) nhức đầu, mắt đau sưng, nôn ọe, hoặc trẻ
sốt nóng, lên sởi lúc bắt đầu mọc, dùng Bạc hà và Sắn dây, mỗi vị 10-15g, đổ
1/3 lít nước, bịt kín ấm, đun sôi vài dạo bắc xuống để xông, rồi rót 1 chén
uống. Sau sắc uống thêm 1-2 nước. Nếu cảm có mồ hôi thì không xông và uống
thuốc nguội.
- Lá tươi hay khô ( bằng nhau) một lần hay mỗi
thang thuốc dùng 8-15g.
-
Chữa dị ứng mề đay, dùng lá Bạc hà tươi vò xát đỡ ngứa.
LÁ NGÓN
Lá
ngón vị cay đắng, tính ấm, cực độc cấm ăn uống. Dùng đắp ngoài hay nấu nước
rửa, chữa mụn nhọt, đinh độc, lở chàm da bong vẩy, lở có giòi ...
Chủ
yếu làm thuốc trừ sâu và diệt các loại côn trùng, thú vật phá hoại hoa màu,
lương thực.
*
Lưu ý: Thuốc dùng để đắp, rửa ngoài
da, cấm uống.
CÂY MÃ ĐỀ
Mã
đề giải khát, giải nhiệt, mát máu, cầm máu, tiêu ung bướu, thông tiểu.
Mã
đề mọc hoang ở những nơi ẩm ướt, nhưng dùng làm rau ăn và vị thuốc nên được
nhiều người mang về trồng ở vườn nhà để dùng khi cần thiết.
Dùng
cây mã đề để nguyên cả rễ, rửa sạch rồi đem phơi khô hoặc sao vàng để dùng lâu
ngày hoặc có thể ngâm rượu rồi phơi khô và tán thành bột.
Thân
và lá tươi nấu nước uống uống thay trà giải khát vào mùa viêm nhiệt. Nhất là
những người bị đi đái dắt, yếu thận hay đái đêm, hỗ trợ cho những người chữa
trị sỏi thận thì dùng mã đề nấu với râu ngô uống rất tốt.
Hạt
mã đề rửa sạch phơi khô, tán nhỏ uống chung với nước gạo rang rất tốt, trị được
bệnh tiêu chảy. Nước cốt mã đề nấu thành cao có tác dụng lợi tiểu, sỏi ở niệu
đạo, ho lâu ngày, viêm khí quản, huyết áp cao, kiết lỵ.
TRẦU KHÔNG
Trầu
không hạ khí ôn trung, phá đờm trừ phong, tiêu viêm sát trùng.
Trầu
và cau là một thứ lễ vật không thể thiếu trong hôn lễ. Nhưng ngoài ra, trầu
không còn có rất nhiều tác dụng trong việc chữa bệnh. Trong dân gian, mỗi khi
bị cảm mạo hay trúng gió thì lấy lá trầu không vò nát đánh gió ở xương sống.
Vết thương bị lở loét thì dùng lá trầu với phèn chua nấu nước để rửa hàng ngày.
Bị
đau mắt đỏ, đau chảy nước mắt liên tục, ngứa khó chịu, dùng lá trầu tươi đắp
lên mắt cho mát hoặc vò nát lá trầu cho vào nước sôi với vài hạt muối để xông
mắt, vừa có cảm giác dễ chịu lại vừa sát trùng.
Lá
trầu còn trị được ho, khó thở, chàm ăn mặt, viêm chân răng có mủ. Bị đau bụng
đầy hơi, lạnh bụng hay nấc cụt dùng lá trầu tươi hơ lửa cho héo rồi đắp lên rốn
sẽ bớ
CHỮA BỆNH BẰNG CÂY
LÁ QUANH NHÀ
Sách do CÔNG
TY VĂN HÓA BẢO THẮNG liên kết xuất bản
********************************************************************************************************************************************
Chịu trách nhiệm xuất bản:
BÙI CAO TIÊU
Biên tập:
CẨM
HƯƠNG
Trình bày sách: THÁI LOAN
Sửa bản in: ĐẶNG XUÂN PHƯƠNG
Trình bày bìa: HẠ VINH THI
********************************************************************************************************************************************************
In 3.000
cuốn khổ 13x19cm, tại Công ty cổ phần In và TB Khuyên học.
Số
ĐKKH: 963-2008/CXB/08 - 121/ThaH, ngày 20 tháng 10 năm 2008.
In xong
và nộp lưu chiểu Quý I năm 2014
Hôm nay mới biết có cuốn sách này đăng trên trang nhà.
Trả lờiXóaTuyệt quá!
Cám ơn chủ bút Đặng Xuân Xuyến nhiều!