TẠI SAO NHÀ VĂN VŨ BẰNG
KHÔNG RA BẮC
*
Thương nhớ mười hai, Miếng ngon Hà
Nội… cây bút Vũ Bằng đã bao năm bện quyện với muôn người! Cái câu hỏi băn khoăn
bâng khuâng rằng hàng bao năm biệt với Hà Thành với xứ Bắc như thế; năm 1984,
Vũ Bằng mất nhưng tuyệt nhiên không một chuyến ra?
Năm xa ấy lọ mọ đi tìm tư liệu để viết
về hậu duệ Vũ Bằng đang làm miếng ngon ở Hà Nội, tôi được gặp ông Dũng hói -
chủ quán phở có tiếng ở Lê Duẩn - người gọi Vũ Bằng là chú ruột. Qua ông Dũng,
tôi biết thêm người em gọi Vũ Bằng là chú vợ, ông Bùi Hồng Thắng. Ông Thắng
trước làm ở Vụ Báo chí - Bộ Văn hoá thông tin đã hưu.
Sài Gòn giải phóng được ít lâu thì nhà
báo Hồng Thắng tìm đến nhà ông chú vợ... Sau những ngỡ ngàng ô, a ngạc nhiên
mừng rỡ một hồi, Vũ Bằng dẫn anh cháu đi luôn...
Từ nhà Vũ Bằng ở Khánh Hội, hai chú
cháu lần vào nội thành đến đường Pasteur có những quán phở Bắc. Ông chú kêu một
tô cho cháu, nói mình đau bao tử không xài được. Bao dấu hỏi sau bữa phở ấy?
Sao ông chú không để mình ở nhà chơi với thím mấy các em? Mình đã kịp chuyện
trò thăm hỏi gì đâu? Nhưng những câu hỏi ấy tức thì có ngay câu trả lời.
Trời ơi, tại vì nghèo, quá nghèo! Ông
chú không muốn cho anh cháu chứng kiến!? Bữa ấy ông chú chỉ đủ tiền mua cho
mình một bát phở? Chứng kiến gia cảnh ông chú vợ so súi túng bấn, ông Thắng đã
lẳng lặng những sẻ chia. Có cái đàn piano mua được định bụng đem ra Bắc cho con
gái, khi ấy là thứ sang, Thắng đã đắn đo rất lâu nhưng rồi cũng quyết định bán
phứt cho chú thím vay để mua sợi nilon về cho cả nhà đan túi!
...Cứ qua cầu Khánh Hội một đoạn gặp
ngôi chùa là tới... Trí nhớ của người chưa tới bảy mươi của ông Thắng và non
hai chục năm chưa vô Sài Gòn hình như đã hơi duễnh doãng thế nào nên báo hại
tôi tìm mất non một ngày không ra! Mãi hôm sau, anh công an khu vực mới nhăn
cái trán lại rằng cách cầu Khánh Hội đi xuôi chi đó có một cái chùa tên là
Nguyên Hương thử đến coi có trúng không? Quả nhiên nhà Vũ Bằng ngay sát chùa!
Những cái bậc thấp dẫn xuống căn nhà
âm u. Mé trước nhà là thênh thang khoáng đạt nhưng đầy rác rưởi của một mé sông
Sài Gòn...
Một cái trang thờ đang nghi ngút khói
hương. Những tấm ảnh đen trắng ngự trên vị trí trang trọng nhất thì rõ là song
thân nhà văn. Và kia, tấm ảnh phía dưới một chút rõ ra là nhà văn Vũ Bằng
rồi... Nhưng còn người đàn bà có nét cười buồn buồn trong tấm hình mầu kia?
Thôi rồi, chán làm sao cho cái tính hay dùng dắng đã mấy lần vô thành phố đã
vài lần cứ định đến đây, thế mà... Tôi đã đến muộn! Vợ nhà văn Vũ Bằng, bà
Lương Thị Phấn mất mới non trăm ngày!
Anh con trai Lê Văn Long rầu rầu báo
cho tôi cái tin ấy khi đã ngồi giữa nhà một lúc lâu... Long làm bảo vệ của
cảng. Đêm làm ngày nghỉ nên bữa nay tôi mới gặp.
Nhà văn Vũ Bằng di cư ... Thời gian
lang thang mãi ở Sài Gòn có một thời khắc đáng kể đáng nhớ là lần gặp lại bà
Quỳ người vợ từ thuở tao khang lặn lội tận ngoài Bắc vào Sài Gòn năm 1956. Đôi
guốc ngày ấy bà Quỳ trở ra Bắc có tài liệu của Vũ Bằng giấu trong đó gửi ra cho
tổ chức! Và thời điểm nữa là gặp được bà Phấn; khi ấy, Long, con riêng của bà
đã 4 tuổi!
Dạ, má em quê ở Sa Đéc lên Sài Gòn làm
ăn cũng lâu mới gặp ba em... Long nhớ lại, mới đầu là ở một ấp Nhân Hoà nào đó
của ngoại thành. Rồi sau dời vô quận Nhất. Rồi quận 3. Trước khi vợ chồng Vũ
Bằng về ở hẳn đây còn có một thời tá túc ở một hẻm của Khánh Hội.
Đã quần tụ trong cái gian âm u này
trong một thời khốn khó, ngoài Long ra Vũ Bằng có sáu người con với bà Phấn. Ba
anh con trai mang những cái tên có lẽ phải ngự trong cái xóm bình dân này như
là một sự bất đắc dĩ: Hầu, Bá, Công và ba cô con gái Châu, Khương, Giao. Chính
cái sàn nhà đá hoa đen trắng này một dạo dài cứ tối tối lại rào rào tanh tách
âm thanh của việc đan túi nilông để bà Phấn đi bỏ mối. Rồi mối túi nilông cũng
hết. Bà Phấn đành phải ra ga Sài Gòn ngược tàu cất hàng lặt vặt nhì nhằng về
Sài Gòn bán lại chút đỉnh kiếm lời cho những bữa cơm rau mắm... Trong thời gian
bà Phấn chạy tàu thì ông chủ, nhà văn kiêm cựu điệp viên Vũ Bằng cùng anh cháu
Hồng Phấn nhà báo cách mạng đi bỏ mối thuốc Tây; mà theo trí nhớ của nhà báo
Hồng Thắng là những phi vụ làm ăn ấy thường xuyên lỗ chỏng gọng phần thì thuốc
giả, phần thì bị lừa... Khi ông Thắng bất lực không thể có phương cách chi để
góp phần thúc đẩy đời sống nhà ông chú vợ tiến thêm bước nào đành lùi lũi ngược
tàu ra Bắc.
Bà Phấn cùng sắp nhỏ dọn dẹp phía
trước nhà và trên tầng thượng cho gọn gàng chút để dành chỗ cho phương thức
kinh doanh mới: Cho người ta thuê chỗ bày cây kiểng và kiếm can xăng can nhớt
bán lẻ nhì nhằng. Bà Phấn sau thời gian kinh doanh xăng dầu và cho thuê cây
cảnh đổ bể lại tòn ten (trước đó một thời gian bà cũng đã từng làm) đôi quang
gánh đi khắp cái địa bàn cảng Sài Gòn hay chợ Khánh Hội mênh mông này để cất
rau hay trái cây kiếm chút đỉnh nhì nhằng...
Nhà văn Vũ Bằng lọc cọc cái xe đạp
tàng, ra đường thì mũ phớt chĩnh chiện trên đầu, dáng xiêu xiêu nhoà trong dòng
người xe xuôi ngược ào ạt trong màn bụi mù mịt khét lẹt các loại khí thải động
cơ xe dầu của trời trưa Sài Gòn... Ông đi đâu vậy? Thấy chợt nhói lên ý nghĩ
dường như không muốn tin lời anh con trai rằng, đằng sau hay chỗ giỏ xe thường
những trưa liêu xiêu khật khưỡng như thế là mấy cuốn sách dầy cộp có khi là
những cuốn từ điển nhưng lúc ông về chẳng thấy sách đâu? Chao ôi Vũ Bằng phải
mang sách cũ đi bán!
Tôi ngồi ngó mãi bức sơn dầu chân dung
Vũ Bằng treo ở gian tiếp khách vẽ theo lối mới của hoạ sĩ Tạ Tỵ. Phía dưới còn
chữ ký của Tạ Tỵ và hàng chữ như một thứ lạc khoản Sài Gòn năm 1965. Trong
hình, Vũ Bằng chỉ có một con mắt? Hiện diện ở vị trí đó, bức chân dung tồn tại
từ năm sáu lăm ấy đến nay... Bên cạnh là một bức sơn dầu phong cảnh như Long
nói lại là Vũ Bằng mua từ năm 1962.
Long đưa tôi lên gác. Dạ. hồi tới đây
là ba em cho làm cái gác này theo kiểu của ổng... Cái cầu thang chỉ vừa một
người đi bằng gỗ có chín bậc be bé bằng hai bàn tay. Sàn cũng lát thứ gỗ dầu
chi đó trơn nhẵn bóng láng. Một cửa sổ có những con tiện làm diện tích căn gác
gần bốn mét vuông đâm có tí hồn. Long cho hay ngày trước cửa sổ này là thông
thoáng là lồng lộng một mảng mây trời nắng gió của một mé sông Sài Gòn. Một cái
bàn gỗ loại xấu sứt sẹo nhỉnh vừa phải trên nền sàn gỗ... Dạ, cái bàn này ba em
vẫn thường viết chi đó... Nếu đích thế thì những Bốn mươi năm nói láo và những
đau đáu khôn nguôi của Thương nhớ mười hai ... đã từng phôi thai đã từng manh
nha rồi bay bổng ám ảnh bao người từ cái bàn viết sứt sẹo này? Tôi cố hình dung
trong câu chuyện của Long những năm đơ đỡ, thời gian mà các báo các nhà xuất
bản thường đến com măng chữ nghĩa với Vũ Bằng, trên căn gác này cứ chiều thứ
bảy bao giờ cũng có một cuộc nhậu nho nhỏ. Khi thì những Tạ Tỵ, Thượng Sĩ, chú
Chinh - tức Ba Hội (người chứng sau này cho Vũ Bằng có mối dây với tình báo
cách mạng) những cây bút Sài Gòn một thời như L. H Dương như B.Đ Trung... chuối
xanh khế chua mắm tép hay mắm sống với thịt ba chỉ hay giò heo luộc là những
thứ ba em với bạn của ba ưa nhậu. Khi không có ai, một mình ba em cũng chơi hết
một xị. Rồi còn mù mịt khói thuốc lào nữa chứ! Cái thứ thuốc lào mà như Long
nói ổng phải thân chinh lên tận chợ Ông Tạ để mua… Đêm chuyển về sáng một ngày
tháng tư năm một ngàn chín trăm tám tư, Vũ Bằng thều thào với Long kiếm cho ba
cái điếu?! Trời đất, bệnh nặng vậy mà hút chi? Nhưng ông cứ kéo cái điếu về
phía mình kéo một hơi rồi ho sặc sụa... Vũ Bằng sau hơi thuốc dim lim vẻ như
khỏe lại? Nhưng rồi cứ lịm dần, lịm dần... Nhà văn Vũ Bằng trút hơi thở cuối
cùng lúc bốn giờ ba mươi sáng!
Một vật lấp lánh phía góc căn gác. Tấm
Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Ba của Chủ tịch nước Trần Đức
Lương ký tháng 12 năm 2000 tặng thưởng cho nhà văn Vũ Bằng về thành tích điệp
báo nằm vùng.
Lại thấp thoáng những dòng hồi ức của
nhà văn Tô Hoài về Vũ Bằng sau giải phóng.
Tối hôm sau, tôi đến nhà anh. Nhà một
tầng, hai buồng rỗng như đít bụt, chẳng có tủ có đài gì cả. Chị hai đi họp tổ
dân phố. Trẻ con thì chơi đâu ngoài bờ sông.
Vũ Bằng lại xuýt xoa khen tôi béo
khỏe. Tôi nói:
– Khó khăn thì nhiều đến độ không đếm
được, nhưng lòng người yên tĩnh. Có lẽ khỏe nhờ thế, anh ạ.
– Chí phải, chí phải. Ở cái đất loạn
này, cứ nát óc ra hại người thật.
Tôi cười:
– Vả lại, những “Mười hai thương nhớ”
nữa, còn gì là người!
Vũ Bằng nhếch miệng, mủm mỉm, bâng
khuâng:
– Ừ còn gì.
Rồi anh trầm ngâm nhìn ra sông Khánh
Hội trong bóng trăng.
Mấy năm nay tao yếu hẳn. Đã thiếu đói
lại mới bị một chuyến kiết lỵ tưởng chết, nhưng rồi chỉ ốm rộc người thôi.
Chẳng phải chỉ có mười hai thương nhớ, đã hơn hai mươi năm ở cái hẻm này, còn
gì là người. Mày có thương tao không?
Vũ Bằng sở dĩ chưa ra Bắc chứ phải
không ra vì một lý do cực kỳ đơn giản, Vũ Bằng nghèo quá, túng quá! Tội vạ bất
như bần! Không có cái tội chi khổ bằng cái nghèo! Vĩnh viễn nhà văn Vũ Bằng
không có bao giờ có dịp một lần tìm về nơi mười hai thương nhớ ấy... Hình hài
cùng cái dáng dấp nhà văn Vũ Bằng tài hoa ấy nay chỉ còn im lìm lặng lẽ trong
bình tro xương đang lưu giữ tại chùa Vĩnh Nghiêm!
Có chút chi đó hơi khiếm nhã khi tôi
cứ tha thẩn từng xó của căn gác bởi bất chợt lóe lên ý nghĩ ngồ ngộ: mai kia
biết đâu một ông nào đó ở Bảo tàng Hội Nhà văn sẽ treo tấm biển ở căn gác này
đại loại Từ năm... đến năm nhà văn Vũ Bằng đã từng sống từng viết ở đây!
Lại giật thột thêm cái điều, đã quang
lâng sạch bách không còn chút giấy má bản thảo sách vở của nhà văn Vũ Bằng?
Không biết người con trai cả và là con ruột của nhà văn, ông Vũ Hoàng Tuấn có
lưu lại được ít nhiều?
Mời
nhấp chuột đọc thêm:
Mời nghe Khề Khà
Truyện đọc truyện ngắn
“CÔ” SƯỚNG CƯỚI
VỢ của Đặng Xuân Xuyến:
Trần Chí Cường giới thiệu - Nguồn: tienphong.vn
Ảnh minh họa sưu tầm từ nguồn: internet
Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.
0 comments:
Đăng nhận xét