THIỀN SƯ LÊ MẠNH THÁT VÀ
NHỮNG PHÁT HIỆN LỊCH SỬ CHẤN ĐỘNG
Là một nhà tu hành xuất gia từ bé, nhưng Thượng
tọa Thích Trí Siêu (tức giáo sư tiến sĩ Lê Mạnh Thát) vẫn để tóc. Thú thật là
quá tò mò về chuyện đó, tôi mạnh dạn hỏi ông vì sao như vậy. Ông cười phá lên,
chỉ vào bức ảnh Đức Bồ đề Đạt Ma: "Ông ấy có cạo đầu đâu! Tôi còn
thua ông ấy một bộ râu". Tôi ngộ ra rất nhiều điều trong tiếng cười
của ông.
Tôi đã gặp ông nhiều lần, trước hết là để viết
bài về Đại lễ Phật đản Liên Hiệp Quốc (VESAK) được tổ chức tại Việt Nam sắp tới
mà ông là Chủ tịch Ủy ban quốc tế (IOC) đồng thời là Tổng thư ký Ủy ban điều
phối quốc gia Đại lễ này. Tôi cũng đã đọc nhiều sách ông viết. Nhưng với trình
độ nông cạn của tôi, hiểu về con người cùng sở học mênh mông vi diệu của vị cao
tăng này thật không dễ chút nào.
Ông không chỉ là một thiền sư, là nhà khoa học có
nhiều bằng tiến sĩ, thông thạo hơn 15 ngôn ngữ (Anh, Pháp, Nga, Đức, Nhật,
Trung Quốc, Ấn Độ, Do Thái, Hy Lạp, Ả Rập, Tây Tạng, chữ Phạn, chữ Hán cổ...),
ông còn là một người Việt Nam "nguyên chất" với tất cả lòng tự trọng
tự hào về dân tộc mình, thể hiện một cách lạ lùng ngoạn mục ở tất cả các công
trình khoa học của ông.
Trước khi nói về VESAK, tôi xin ghi lại một vài
điều tâm đắc sau khi đọc, sau khi nghe ông nói và hỏi lại thật rõ những khám
phá của ông về cội nguồn dân tộc, về nhiều sự thật của lịch sử nước nhà hàng
ngàn năm bị che lấp hoặc bị hiểu sai lệch.
"ÔNG LÊ QUÝ ĐÔN MÀ CŨNG LÔI THÔI QUÁ!"
Xin chép ở đây hai bài thơ chữ Hán, theo tôi bài
nào cũng hay đến "lạnh cả người":
Nhị bát giai nhân thích tú trì
Tử kinh hoa hạ chuyển hoàng ly
Khả liên vô hạn thương xuân ý
Tận tại đình châm bất ngữ thì.
Tạm dịch nghĩa:
Người đẹp mười sáu tuổi nhẹ tay thêu trên gấm
Dưới khóm hoa tử kinh con chim hoàng ly đang
chuyền
Thật đáng thương nỗi lòng vô hạn đối với mùa xuân
Ngưng đọng nơi mũi kim, lặng lẽ không nói
Đó là bài Xuân nhật tức sự,
được Lê Quý Đôn chép trong Kiến văn tiểu lục và ghi là của thiền sư Huyền Quang
thời nhà Trần (1254-1334). Từ đó nhiều thế hệ học giả đã dẫn giải, bình luận,
coi là một kiệt tác thi ca chữ Hán của Việt Nam. Trên tạp chí Văn học số
1-1984, lần đầu tiên giáo sư Lê Mạnh Thát đã đưa ra tài liệu chứng minh bài thơ
trên không phải của thiền sư Huyền Quang mà của thiền sư Ảo Đường Trung Nhân
(?-1203) thời nhà Tống bên Trung Quốc.
Một bài khác:
Nhạn quá trường không
Ảnh trầm hàn thủy
Nhạn vô di tích chi ý
Thủy vô lưu ảnh chi tâm
Tạm dịch nghĩa:
Chim nhạn bay dài qua không trung
Ảnh chìm dưới dòng sông lạnh
Nhạn không có ý để lại dấu tích
Sông không có lòng lưu lại bóng hình
Bài thơ này cũng được Lê Quý Đôn chép trong Kiến
văn tiểu lục, ghi là của Hương Hải thiền sư thời nhà Lê. Nhưng trong công trình
nghiên cứu rất công phu về thiền sư Hương Hải (Toàn tập Minh Châu Hương Hải),
giáo sư Lê Mạnh Thát cũng đã “trả" bài thơ này lại cho tác giả thật của nó
là thiền sư Thiên Y Nghĩa Hoài bên Trung Quốc thời Tống. Nhưng không chỉ có
vậy. Giáo sư Thát còn liệt kê trong số 59 bài thơ được coi là của thiền sư
Hương Hải do học trò của thiền sư chép trong Hương Hải thiền sư ngữ lục, có đến
47 bài không phải của thiền sư. Từ đó, Lê Quý Đôn đã chép lại 43 bài trong Kiến
văn tiểu lục, cả 43 bài đều của các thiền sư Trung Quốc. Ông đã chỉ rõ từng
bài, là của ai, ở trong tài liệu nào, tờ số mấy. "Ông Lê Quý Đôn mà
cũng lôi thôi quá!", ông cười cười nói với tôi. Là ông nói đùa thôi,
chứ ông biết rõ Lê Quý Đôn là người rất cẩn trọng. Ông bảo sở dĩ có sai sót này
là do Lê Quý Đôn chắc chắn không biết, tức không có dịp đọc các bộ chính sử
thiền tông Trung Quốc. "Hơn nữa, Lê Quý Đôn, với tư cách là một Phật
tử, có thể đã quá tin tưởng vào bản in Hương Hải thiền sư ngữ lục, nghĩ rằng
các thơ kệ và ngữ lục trong đó là đúng của Minh Châu Hương Hải, vì chúng đã
được môn đồ của vị thiền sư này cho khắc in, nên đã không tiến hành kiểm tra,
tìm hiểu và so sánh", ông viết.
Toàn tập Minh Châu Hương Hải là một trong
rất nhiều công trình sử học của giáo sư Lê Mạnh Thát. Trong khi sưu tầm, đối
chiếu, xác minh và giới thiệu những cống hiến quan trọng về lịch sử tư tưởng,
văn học và Phật giáo Việt Nam của vị thiền sư lỗi lạc này, ông đồng thời đã cẩn
trọng "trả lại cho người khác" những gì không phải của thiền sư, dù
đó là những viên ngọc quý (như bài thơ nói trên). Đối với những nhân vật khác,
ông cũng làm tương tự. Ông bảo những nhầm lẫn trong các công trình sử học kiểu
đó không những không làm vinh dự thêm cho dân tộc mà còn rất tai hại, nó khiến
cho người ta nghi ngờ chính những cống hiến quan trọng của các nhân vật lịch sử
nước ta, đặc biệt khi các bậc thức giả nước ngoài tiếp cận những tài liệu này.
Dẫn ra chi tiết nhỏ trên đây để thấy sự nghiêm
cẩn trong nghiên cứu của giáo sư Lê Mạnh Thát. Nhưng ngoài sự nghiêm cẩn, ông
còn có một lợi thế tự nhiên khó có học giả nào có được. Là một thiền sư, ông đã
đọc hết những bộ kinh sách đồ sộ như Đại tạng kinh và Tục tạng kinh chữ Hán,
ông đọc trước hết là "để thưởng thức". Chính vì vậy mà chẳng hạn như
đối với trường hợp hai bài thơ nói trên, ông đã biết đến khi đọc bộ sử thiền
tông Trung Quốc (trong Tục tạng kinh), nên khi nghiên cứu về Huyền Quang và
Hương Hải ông đã phát hiện ngay sự nhầm lẫn.
LỊCH SỬ DÂN TỘC BẢO TỒN TRONG KINH PHẬT
Lục độ tập kinh là một tập kinh quan trọng trong
Đại tạng kinh của Phật giáo thế giới. Tập kinh này được dịch ra chữ Hán vào thế
kỷ thứ 2, truyền bản của nó đến ngày nay gồm 8 quyển, 91 truyện, trình bày sáu
hạnh vượt bờ của Bồ tát gồm bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định
và trí tuệ. Các vị cao tăng đông tây kim cổ đều biết đến tập kinh này và từ lâu
nó đã được dịch ra tiếng Pháp và tiếng Nhật.
Lần đầu tiên sau gần hai ngàn năm lưu truyền của
Lục Độ tập kinh, giáo sư Lê Mạnh Thát có những phát hiện cực kỳ quan trọng từ
tập kinh này. Ông khẳng định tập kinh đó là của Việt Nam, nó được dịch ra chữ
Hán từ một bản tiếng Việt chứ không phải từ bản tiếng Phạn; Tăng Khương Hội,
người dịch bản kinh đó, người mà sử sách cổ Trung Quốc coi là "bậc thánh
hiền", là một người Việt Nam (ít nhất là sinh ra, lớn lên, học hành, theo
đạo Phật, hành đạo và trước tác đều tại Việt Nam). Bằng kiến thức uyên bác về
lịch sử, văn hóa và ngôn ngữ, ông đã truy tận gốc tất cả những tài liệu cổ xưa
nhất có liên quan, tiến hành khảo sát, đối chiếu, giám định và đưa ra một loạt
những kết luận với các chứng cứ không thể phản bác. Ông bảo tập kinh đó chứa
đựng "một lượng bất bình thường" các tư tưởng, quan điểm và đạo lý
mang sắc thái chính trị và lịch sử Việt Nam.
Phát hiện đầu tiên là Lục độ tập kinh chứa đựng
truyền thuyết khởi nguồn của dân tộc, đó là chuyện một trăm trứng. Điều này hết
sức có ý nghĩa, là vì truyền thuyết đó được ghi vào sử sách bắt đầu từ bộ Đại
Việt sử ký toàn thư của Ngô Sỹ Liên. Truy lùi lại thì thấy chuyện này được chép
trong Lĩnh Nam chích quái. Truy nữa thì "bó tay", không biết nó xuất
phát từ đâu, chỉ thấy nó liên quan tới truyện Liễu Nghi đời... Đường bên Trung
Quốc. Từ trước tới nay mọi bàn cãi đều tập trung vào việc chấp nhận hay không truyền
thuyết đó, mà chấp nhận hay phủ nhận nó không phải là vấn đề của lịch sử. Dân
tộc nào cũng có truyền thuyết khởi nguyên, mà đã là truyền thuyết thì ít nhiều
đều mang yếu tố hoang đường, nhưng đó là hồn thiêng dân tộc. Với Lục độ tập
kinh, chúng ta đã truy ra thời điểm khởi nguồn của hồn thiêng dân tộc của mình.
Trong khi phát hiện truyền thuyết trăm trứng nằm
trong Lục Độ tập kinh, giáo sư Lê Mạnh Thát còn khám phá một sự thật lịch sử
thú vị liên quan đến An Dương Vương và Triệu Đà. Từ truyền thuyết trăm trứng
nằm trong truyện 23 của Lục Độ tập kinh, ông đối chiếu với một dị bản bằng
tiếng Phạn và lại phát hiện truyền thuyết An Dương Vương giống như câu chuyện
về trận đánh quyết định trong anh hùng ca Mahàbhàrata giữa hai anh em Pandu và
Duryodhana. Đối chiếu với tất cả những gì được ghi trong Sử Ký của Tư Mã Thiên
và các tài liệu cổ sử khác của Trung Quốc, ông khẳng định truyền thuyết An
Dương Vương đánh bại vua Hùng Vương thứ 18 rồi lập nên một triều đại (dưới ngòi
bút của Ngô Sỹ Liên trong Đại Việt sử ký toàn thư) là không có thật, nó chẳng
qua chỉ là một phiên bản của câu chuyện Mahàbhàrata từ Ấn Độ truyền vào Việt
Nam thời Hùng Vương mà thôi. Ông cũng tiếp tục đối chiếu sử sách và khẳng định
không những không có chuyện Triệu Đà đánh An Dương Vương (vì làm gì có An Dương
Vương mà đánh!) mà nước ta cũng không bao giờ bị Triệu Đà chiếm. Nước Nam Việt
của Triệu Đà chưa bao giờ bao hàm nước ta trong đó cả. Có nghĩa là, cho đến năm
43 (sau dương lịch), trước khi cuộc chiến tranh vệ quốc của Hai Bà Trưng thất
bại, nước ta vẫn là một nước độc lập. Đó là triều đại Hùng Vương, là nhà nước
Hùng Vương. Nhà nước đó đã được xây dựng trên một nền văn hiến với điển chương
riêng của nó, có luật pháp, có chữ viết, có lịch số, có âm nhạc, có văn học...
Nhà nước đó, nền văn hiến đó hoàn toàn không do người Trung Quốc đến "khai
hóa" mà có. Nó có đủ bản lĩnh, đủ sức mạnh để tiếp thu những gì là tinh
hoa và để tự vệ trước âm mưu nô dịch của ngoại bang. Nó có đủ sự nổi trội để
đóng góp vào nền văn minh chung của nhân loại mà Lục Độ tập kinh là một trong
những dẫn chứng sống động. Với những khám phá của ông, chúng ta có đủ tài liệu
để dựng lại lịch sử vẻ vang của dân tộc ta từ hai ngàn năm trước...
Nếu nói các truyền thuyết An Dương Vương là không
có thật thì phải giải đáp như thế nào về Loa thành? Nếu nói nước ta đến năm 43
vẫn là nước độc lập thì các "thái thú" Tích Quang, Nhâm Diên sang
"cai trị" ở đâu?
Tất cả những kết luận của giáo sư Lê Mạnh Thát
đều được đưa ra kèm theo sự so sánh đối chiếu hết sức cẩn thận, kèm theo là các
tài liệu dẫn chứng cụ thể có thể tra cứu đến tận gốc. Rất tiếc giới hạn của một
bài báo không cho phép chúng tôi dẫn ra đây, vì nó quá nhiều. Về vấn đề chúng
tôi đang đề cập, có thể xem: Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguyên của
dân tộc ta - Lê Mạnh Thát, Nhà xuất bản Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2006.
LÀM TRONG SẠCH NHỮNG TRANG SỬ CỦA TỔ TIÊN, BỜ CÕI
Như chúng tôi đã đề cập, giáo sư Lê Mạnh Thát đề
nghị dứt khoát loại bỏ truyền thuyết An Dương Vương và nước Nam Việt của Triệu
Đà ra khỏi lịch sử nước ta. Cần biết, toàn bộ cơ sở để dựng lên thời kỳ An
Dương Vương và Triệu Đà trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu từ Đại Việt sử lược,
rồi Đại Việt sử ký toàn thư và Khâm định Việt sử thông giám cương mục... cho
đến sử sách ngày nay mà chúng ta biết, là lấy từ 4 tài liệu cổ sử Trung Quốc,
đó là Giao châu ngoại vực ký, Quảng Châu ký, Nam Việt chí và Nhật Nam truyện.
Theo giáo sư Lê Mạnh Thát, trong 4 tài liệu đó, 3 tài liệu không rõ nguồn gốc
và niên đại (chỉ phỏng đoán được đại khái là vào thế kỷ thứ VI, thứ VII), riêng
Nam Việt chí thì có nguồn gốc niên đại rõ ràng (thế kỷ thứ V), nhưng tất cả đều
mơ hồ, mâu thuẫn và không đáng tin cậy. Trong khi đó, căn cứ vào những tài liệu
lịch sử chính thống xưa nhất của Trung Quốc, cụ thể là Sử ký của Tư Mã Thiên và
Tiền Hán thơ, chúng ta hoàn toàn không thấy có chuyện Triệu Đà đánh An Dương
Vương hay tương tự, mà các tài liệu đó còn có những thông báo xác định rõ ràng
là cho đến hết thời Triệu Đà cùng cháu chắt ông ta làm vua Nam Việt bên đất
Trung Quốc, nước ta vẫn đang có vua và đang là một nước độc lập. Nước ta chưa
bao giờ thuộc Nam Việt của Triệu Đà bên Trung Quốc là điều đã rõ. Vấn đề là xác
định đất đai Nam Việt của Triệu Đà đến đâu? Kết luận là: Nước Nam Việt không
bao giờ lan ra khỏi địa phận tỉnh Quảng Đông, một phần tỉnh Hồ Nam và Quí Châu
cũng như Quảng Tây ngày nay. Ông bảo kết luận này cũng không phải mới. "Tư
không Trương Hoa đời Tấn viết Bác vật chí 2 tờ 4b11-12 cũng nói: "Nước Nam
Việt cùng tiếp với Sở, Ngũ lĩnh về trước đến tới Nam hải, là nước tiếp giáp
biển. Đất Giao chỉ gọi là Nam duệ". Viết như thế, Giao chỉ rõ ràng không
thuộc đất Nam Việt. Một khi đã kết luận như vậy, Triệu Đà dĩ nhiên không quan
hệ gì đến nước ta. Phần gọi là "Triệu kỷ" trong các cuốn sử ta từ Đại
Việt sử lược trở đi do thế đáng nên loại bỏ" (sách đã dẫn).
Việc dùng những tài liệu không đáng tin cậy để
ghi vào sử sách nước nhà, rồi cứ đinh ninh như vậy cho đến ngày nay, từ Đại
Việt sử lược trở đi, theo giáo sư Lê Mạnh Thát, là do "những người
viết sử đã không bao giờ chịu nghiên cứu và cân nhắc một cách kỹ càng những sử
liệu mà họ dùng". Ông cho rằng, để viết lịch sử nước ta vào những thế kỷ
trước và sau công nguyên, phải dùng "những báo cáo của Sử ký và Tiền
Hán thư như những tài liệu cơ bản cho việc kiểm soát..., dù biết rằng sự kiện
của mọi cuốn sử chính thống Trung Quốc từ Sử ký trở đi không nên được chúng ta
tin cậy hoàn toàn" (như trường hợp về Nhâm Diên, Tích Quang nói dưới
đây và nhiều trường hợp tương tự khác). Tuy nhiên, theo ông, "nó vẫn
có giá trị và đáng tin gấp bội lần" so với những thứ như 4 tài liệu
đã dẫn, bởi vì ngay cả tài liệu có nguồn gốc rõ ràng như Nam Việt chí, nó cũng
xuất hiện sau Sử ký đến những sáu trăm năm (sách đã dẫn).
Với những sử liệu đã dẫn, vấn đề An Dương Vương
đã rõ là một phiên bản Việt Nam trong bản anh hùng ca Mahãbhãrata, thế thì xử
lý như thế nào về quan hệ giữa An Dương Vương với thành Cổ loa? Giáo sư Lê Mạnh
Thát viết: "Để trả lời câu hỏi đó, trước hết cần có một ý niệm tổng
quát về quá trình hình thành quan hệ giữa các kỳ quan tự nhiên hay nhân tạo với
các nhân vật kỳ vĩ, cụ thể là chuyện con trâu vàng của Không Lộ với Hồ tây.
Không Lộ là vị thiền sư mất năm 1119, thế mà lại có một kết nối việc hình thành
Hồ tây trong truyền thuyết dân gian như Lĩnh Nam chích quái và Việt điện u linh
đã ghi lại. Vậy, việc kết nối An Dương Vương với thành Cổ loa trong truyền
thuyết không nhất thiết là một sự thật lịch sử, dù sau Lĩnh Nam chích quái, một
kết nối như thế đã được Ngô Sỹ Liên đưa vào Đại Việt sử ký toàn thư và khoác
cho nó một bộ áo lịch sử chính thức". Dĩ nhiên triều đại Hùng Vương
của chúng ta không thể nào không có thành quách, nên chắc chắn chúng ta có một
cái thành như vậy, nhưng 4 tài liệu đã dẫn nói về An Dương Vương cũng không nói
gì về tên thành Cổ loa, do đó Cổ loa chẳng qua là một tên gọi được Ngô Sỹ Liên
lấy từ truyền thuyết của Lĩnh Nam chích quái để đưa vào Đại Việt sử ký toàn thư
gắn vào An Dương Vương mà thôi.
Như vậy, các triều đại An Dương Vương và Triệu Đà
đã được các sử gia Việt Nam từ Lê Văn Hưu đến Ngô Sỹ Liên dựng lên từ những tài
liệu không đáng tin cậy, kiểm chứng tới đâu thấy sai tới đó. Nay với những sử
liệu tin cậy có thể kiểm chứng được đến tận gốc mà giáo sư Lê Mạnh Thát đã chỉ
ra, chúng ta có đủ cơ sở loại chúng ra khỏi lịch sử, để làm trong sạch tổ tiên
bờ cõi chúng ta. Một người thì tiêu diệt vua Hùng (An Dương Vương), một người
thì chiếm nước ta (Triệu Đà), khi đã có đủ chứng cứ là không đúng sự thật, thì
vinh dự gì mà vẫn để tồn tại trong những trang sử của dân tộc?
Nhưng khi khẳng định nước ta là nước độc lập cho
đến năm Mã Viện đánh bại cuộc kháng chiến của Hai Bà Trưng, thì giải quyết như
thế nào đối với các nhân vật như Tích Quang, Nhâm Diên được coi là các
"thái thú" Trung Quốc cai trị nước ta trước đó? Hai nhân vật này được
sử sách Trung Quốc cho là những người đến "khai hóa" dân tộc ta, bằng
những lời lẽ vô cùng xấc xược, coi dân tộc ta là "mọi", là "cầm
thú", là "sâu bọ chồn cáo" (lời trong Hậu Hán thư). Bằng những
sử liệu khó chối cãi, giáo sư Lê Mạnh Thát chứng minh Tích Quang, Nhâm Diên
chưa bao giờ làm thái thú ở nước ta cả, đó chỉ là sự "hư cấu lố bịch khôi
hài". Lấy thí dụ như Nhâm Diên, Hậu Hán thư viết ông này được cử làm thái
thú Cửu Chân (nước ta) vào năm Kiến vũ thứ nhất (năm 25 sau dương lịch), nhưng
thời điểm đó cũng theo Hậu Hán thư, tình hình chính trị Trung Quốc từ sông
Dương Tử về phía nam cực kỳ phức tạp, các tướng mỗi nơi chiếm một phương, thiên
hạ loạn lạc đến nỗi "vua tự đem quân thân chinh mà còn bị cản đường,
xe ngựa không tiến lên được", thì làm sao Nhâm Diên đến được Cửu Chân
để làm thái thú ? Vả lại, chứng cứ đanh thép nhất mà sử gia Lê Mạnh Thát tiếp
tục dẫn ra là, sau khi Mã Viện "chém Trưng Trắc, Trưng Nhị, đưa đầu
về Lạc Dương", Hậu Hán thư viết: "Viện (Mã Viện) điều tấu Việt
luật cùng Hán luật, sai hơn 10 việc, bèn cùng người Việt nói rõ để ước
thúc". Như vậy rõ ràng nước ta đã có luật pháp. Bộ luật đó một chính quyền
ngắn ngủi không làm nổi, nó phải là sản phẩm của một nhà nước độc lập tồn tại
từ lâu đời. Nếu nói nước ta lúc đó chỉ là quận, huyện của Trung Quốc, do các
thái thú của Trung Quốc sang cai trị, thì chỗ đâu để có bộ Việt luật cho Mã
Viện điều tấu? Mà nếu có Việt luật, nghĩa là có một nhà nước độc lập, thì Tích
Quang, Nhâm Diên "cai trị" ở đâu?
TIẾP TỤC HÀNH TRÌNH HÙNG VƯƠNG
Cho đến nay, với nhiều nỗ lực nghiên cứu, các nhà
sử học nước ta đã phát hiện rất nhiều tài liệu quan trọng về nền văn minh của
nước ta thời đại Hùng Vương, đặc biệt là đã thu thập, giám định, phân tích một
khối lượng đồ sộ các di chỉ khảo cổ học từ văn hóa Phùng Nguyên, văn hóa Đồng
Đậu, văn hóa Gò Mun đến văn hóa Đông Sơn. Những nỗ lực đó cho phép phác thảo
bước đầu diện mạo của thời đại khởi nguồn của dân tộc, đủ để bác bỏ những mưu
đồ phủ nhận hoặc hạ thấp công lao dựng nước của tổ tiên. Ghi nhớ lời dặn của
Chủ tịch Hồ Chí Minh "Các vua Hùng có công dựng nước...", Nhà
nước ta đã chính thức quyết định lấy ngày Giỗ tổ Hùng Vương làm Quốc Giỗ.
"Sau
ngày độc lập, cụ Hồ Chí Minh rất chính xác khi lấy tên Hùng Vương đặt cho con
đường chính giữa thủ đô, ngang qua Hội trường Ba Đình, đó là điều hết sức có ý
nghĩa", giáo sư Lê Mạnh Thát nói với chúng tôi. Ông lưu ý rằng, không phải
ngẫu nhiên mà trong khi Ngọc phả nhà Lý mất, Ngọc phả nhà Trần mất, Ngọc phả
nhà Lê cũng mất thì Ngọc phả Hùng Vương lại được lưu giữ, hiện còn 3 truyền
bản, 2 truyền bản có từ thời Tiền Lê (Lê Đại Hành) và 1 có từ thời Lê Thánh Tôn. "Lê
Đại Hành dựng lại Ngọc phả Hùng Vương giữa lúc chuẩn bị đánh Tống. Đánh Tống là
cuộc kháng chiến chống một cường quốc chứ không phải chống đội quân lèo tèo như
Nam Hán. Lê Thánh Tôn nói: Một tấc đất của tổ tiên cũng không để mất! Kèm theo câu
nói đó là việc dựng lại Ngọc phả Hùng Vương". Ông nói tiếp: "Giữa
lúc người Mỹ tuyên bố đưa Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá thì Việt Nam lại có một
cuộc khảo sát lớn nhất về thời đại Hùng Vương do chính Thủ tướng Phạm Văn Đồng
chỉ đạo. Giữa cuộc kháng chiến chống Mỹ, chúng ta đã thực hiện 4 tập sách về
thời đại Hùng Vương. Đó là một cuộc nghiên cứu nghiêm túc nhất từ trước tới
nay. Lần đầu tiên chúng ta có một cuộc nghiên cứu khoa học về thời đại Hùng
Vương với quy mô lớn, do Nhà nước chủ trương, chứ không phải là nghiên cứu lẻ
tẻ. Chúng ta thu được những thành quả quan trọng về khảo cổ học và tập hợp được
một số tài liệu chữ Hán giai đoạn đầu. Điều đó rất có ý nghĩa và cần được tiến
hành tiếp tục".
Tuy nhiên,
rất nhiều vấn đề quan trọng về lịch sử của thời đại này vẫn đang bị bỏ ngỏ hoặc
bế tắc, trong đó có vấn đề chữ viết, luật pháp cùng những vấn đề căn bản khác
của một nhà nước mà chắc chắn là nó phải có trong thời đại Hùng Vương. Bởi vậy,
những khám phá của giáo sư Lê Mạnh Thát có ý nghĩa vô cùng.
Sau khi đưa
ra các minh chứng để đề nghị loại bỏ hai triều đại An Dương Vương và Triệu Đà
ra khỏi lịch sử và xác định thời đại Hùng Vương tồn tại cho đến năm 43, giáo sư
Lê Mạnh Thát tiếp tục phát hiện thêm những tài liệu quan trọng có thể khai
thông những bế tắc từ bấy lâu nay.
Việc tồn tại
của Việt luật (mà Mã Viện "điều tấu"), theo giáo sư Lê Mạnh Thát, cho
phép chúng ta giả thiết rằng tiếng nước ta vào thời điểm đó (thời Hai Bà Trưng)
đã phát triển đến một mức độ chính xác nhất định và có một hệ thống chữ viết đủ
rõ ràng để ghi chép các quy định của luật pháp.
Vấn đề là
Việt luật hiện nay không còn, điều đó không có gì là lạ, vì chính Hán luật cũng
không còn. Chúng ta cũng chưa tìm được chữ viết trong các di chỉ khảo cổ học.
Điều đó cũng không có gì lạ và chưa tìm được không có nghĩa là nó không có, bởi
ngay đến chữ viết thời Lý - Trần mà vẫn không tìm được trên các di chỉ khảo cổ
học khai quật tại Hà Nội, trừ bia Lý Thường Kiệt và vài tấm bia ít ỏi khác tìm
được ở rất xa ngoài Thăng Long. "Lịch sử Lý - Trần rực rỡ như vậy mà
không còn một tấm bia nào ở thủ đô hết, chúng (nhà Minh) nhất định không để lại
một vết tích nào của lịch sử. Đến nỗi, ông Hoàng Xuân Hãn phải đề nghị một
hướng mới là tìm nó dưới nước, tức là khảo sát dưới hồ Tây", thiền sư Lê
Mạnh Thát bức xúc. Nói thế để thấy kẻ thù thâm độc như thế nào trong mưu đồ
triệt hạ văn hóa của dân tộc ta, triệt hạ tận gốc để dân ta không biết gốc tích
của mình.
Truy lại chữ
viết của tổ tiên vì vậy mà trở nên thiên nan vạn nan. Nhưng không phải không có
cách. Giáo sư Lê Mạnh Thát nói đầu thế kỷ trước, người Pháp đã khai quật một
ngôi mộ cổ ở Bắc Ninh, phát hiện một thứ chữ viết trên gốm, "giống
chữ Hán nhưng người Hán không đọc được", nghĩa là một thứ chữ viết
theo kiểu Hán nhưng không phải chữ Hán, đó rất có thể là chữ Việt.
Theo ông,
chúng ta hiện có hai nguồn tư liệu cơ bản: Nguồn thứ nhất là Lục độ tập kinh
cùng các dịch phẩm khác của Khương Tăng Hội là Cựu tập thí dụ kinh, An ban thủ
ý kinh chú giải và Tạp thí dụ kinh do một tác giả vô danh thực hiện. Ông đã
khảo cứu một cách công phu tường tận ngữ âm tiếng Việt còn lưu giữ trong những
tập kinh này. Chẳng hạn, để diễn tả ý niệm "trong lòng", Lục độ tập
kinh có hai dạng cấu trúc. Dạng thứ nhất tập trung ở quyển 7 có 7 trường hợp
dùng "tâm trung" (cấu trúc ngữ âm tiếng Trung Quốc), dạng thứ hai có
8 trường hợp rải đều trên 6 quyển dùng từ "trung tâm" (cấu trúc ngữ
âm tiếng Việt). Khảo sát tiếp Kinh Thi do Khổng Tử san định, trong 305 bài thì
có 15 bài dùng "trung tâm". Sau Kinh Thi là Lễ ký do ảnh hưởng của
Kinh Thi có 4 lần sử dụng "trung tâm". Và trong 300 năm đầu sau dương
lịch, dạng "trung tâm" hầu như không được các học giả Trung Quốc dùng
tới, nếu có vài trường hợp thì đều là ở dạng trích từ Kinh Thi hoặc nhái theo
Kinh Thi mà thôi. Thế mà Lục độ tập kinh, với 91 truyện, có 8 lần sử dụng cấu
trúc đó, tỷ lệ gần 1/10, cao hơn nhiều so với Kinh Thi (15/305). Trong 7 lần sử
dụng dạng "tâm trung", có khả năng ban đầu cũng dùng dạng "trung
tâm", sau bị điều chỉnh lại, là do nó chỉ tập trung trong quyển 7, là
quyển chủ yếu trình bày về thiền, chắc chắn do nhu cầu tìm hiểu về thiền nên nó
được lưu hành rộng rãi qua nhiều tay người đọc Trung Quốc và quá trình đó đã
được nhuận sắc cho đến khi được khắc bản vào năm 927, trong khi cấu trúc dạng
"trung tâm" tiếp tục tồn tại trong các quyển kia của Lục độ kinh.
Trong Lục độ kinh còn có một số cấu trúc ngữ âm tương tự, ví dụ như cấu trúc
"thần thọ" có nghĩa là "thần cây" chứ không phải "cây
thần" như tiếng Trung Quốc...
Thiền
sư nổi giận
Ngoài việc
phát hiện việc Lục độ tập kinh chữ Hán "không chấp hành" nguyên tắc
ngữ âm tiếng Trung Quốc như trường hợp cấu trúc "trung tâm", trong
khi dịch tập kinh này ra tiếng Việt hiện nay, giáo sư Lê Mạnh Thát còn phát
hiện các trường hợp Khương Tăng Hội dùng "tá âm" hoặc dùng thuần túy
tiếng Việt, chỉ phiên âm ra nó lập tức biến thành những câu tiếng Việt dễ hiểu.
Ông lưu ý do Khương Tăng Hội "sinh ra, lớn lên và đào tạo thành tài ở nước
ta" cho nên khi phiên dịch và trước tác dứt khoát không thể nào không chịu
ảnh hưởng của tiếng Việt trên cả ba mặt ngữ vựng, ngữ pháp và cú pháp, song
Khương Tăng Hội lại là người sử dụng tiếng Trung Quốc tới mức "nhuần
nhuyễn của một diệu thủ" thì lẽ ra những ảnh hưởng đó phải bị hạn chế
tối đa, thế thì tại sao Lục độ tập kinh tồn tại nặng nề và sâu đậm đến vậy
những "tàn dư" của ngữ vựng, ngữ pháp và cú pháp tiếng Việt ? Chỉ có
thể giải thích là tập kinh đó đã được dịch ra chữ Hán bằng một nguyên bản tiếng
Việt.
Tôi hỏi giáo
sư Lê Mạnh Thát: "Khi đối chiếu cấu trúc "trung tâm" trong
Lục độ tập kinh chữ Hán với ngôn ngữ của Trung Quốc, thầy viết rằng, "kiểm
soát toàn bộ văn liệu" tiếng Trung Quốc (do người Trung Quốc viết) từ đầu
thế kỷ thứ I sau dương lịch trở về sau cho đến thế kỷ thứ III, trong khoảng
thời gian 300 năm, cấu trúc "trung tâm" chỉ được dùng đúng 3 lần,
trong khi cấu trúc này được dùng phổ biến trong Lục độ tập kinh. Nói như vậy có
nghĩa là để đối chiếu chỉ hai chữ "trung tâm", thầy đã phải đọc hết
tất cả của Trung Quốc trong 3 thế kỷ?". Ông bảo: "Đúng vậy.
Không đọc hết thì làm sao mà khảo sát, đối chiếu được!". Liên quan đến
tiếng Việt trong Lục độ tập kinh, ông còn chỉ ra một nguồn tài liệu quan trọng
thứ hai. Đó là sách Thuyết Uyển của Lưu Hướng, tồn tại từ năm 16 trước dương
lịch mà "không có nhà nho nào là không biết". Đây là bộ sách duy
nhất chép lại nguyên văn một tác phẩm văn học khác với tiếng Trung Quốc, đó là
bài Việt ca [1]. Thuyết Uyển không phải là một cuốn sách
thường, nó là cuốn sách được viết để "dâng vua", cho nên tài liệu
được nó sử dụng phải là những tài liệu được kiểm chứng, trong đó có tài liệu
lấy từ "Trung thư", tức là một loại thư viện của hoàng gia. Điểm hết
sức thú vị của bài Việt nhân ca chép trong Thuyết Uyển là nó "ghi
bằng chữ Hán mà người Hán không đọc được", phải "dịch ra tiếng
Sở", tức là kèm theo một bản dịch tiếng Trung Quốc. Dù Lưu Hướng nói
rõ đó là bài ca "do người Việt ôm mái chèo mà ca", nhưng hơn hai
ngàn năm nay chưa một ai nghiên cứu giải mã bài ca này, ngoài sự cố gắng tìm
hiểu của Quách Mạt Nhược (từng là Chủ tịch Viện Hàn lâm khoa học Trung Quốc)
cho rằng bài ca này là của người Choang vùng Quảng Tây Trung Quốc ngày nay, và
một học giả người Nhật cho bài ca đó là của... Chiêm Thành. Giáo sư Lê Mạnh
Thát đã dành nhiều thời gian, thông qua nhiều tài liệu để giải mã và bước đầu
phục chế diện mạo tiếng Việt của bài Việt nhân ca này (xem Lục độ tập kinh
và lịch sử khởi nguồn của dân tộc ta, chương IV, sđd, và Lịch sử Phật giáo Việt
Nam của Lê Mạnh Thát, Nhà xuất bản Tổng hợp thành phố Hồ
Chí Minh, trang 41-47).
Như đã nói,
mỗi lần tràn sang là mỗi lần kẻ xâm lược hủy diệt một cách tàn độc tất cả những
gì có thể để cho văn hóa được lưu truyền, đặc biệt là việc tận diệt bia đá một
cách có hệ thống sau khi "thu gom" hết sách vở, nhưng với những gì
còn lưu lại của bốn ngàn năm văn hiến và những nỗ lực mới nhất của những nhà
khoa học đầy tâm huyết và trách nhiệm với tổ tiên như Lê Mạnh Thát, chúng ta có
cơ sở để khẳng định chắc chắn là chúng ta đã có chữ viết từ thuở các vua Hùng.
Kẻ xâm lược quyết không cho người Việt biết đến "mặt chữ" của tổ
tiên, nhưng dấu tích nó vẫn còn đó: trong kinh Phật, trong chính sách vở của
Trung Quốc và còn lẩn khuất ở đâu đó nữa. Cùng với việc khảo sát trong lòng đất
và "dưới nước" như hướng mà giáo sư Hoàng Xuân Hãn đề nghị, hướng
nghiên cứu của giáo sư Lê Mạnh Thát rất cần được sự đồng hành, phối hợp của
nhiều nhà sử học khác.
Tôi hỏi ông: "Thầy
nghĩ gì về ý kiến cho rằng có thể tìm vết tích chữ viết thời Hùng Vương trên
mặt trống đồng?". Ông nói: "Có giả thiết như vậy, nhưng khảo sát
những hoa văn trên trống đồng chúng ta không thấy chúng có liên quan đến chữ
viết, vì chữ viết phải có quy luật về cấu trúc của nó. Suy đoán từ những giả
định không có cơ sở sẽ khó có sức thuyết phục". Việc nghiên cứu ngôn
ngữ cổ, nhất là ngữ âm cổ rất phức tạp. Chẳng hạn người Trung Quốc cũng như
người Việt 2000 năm trước phát âm như thế nào ngày nay chúng ta không biết
được, để nghiên cứu nó giáo sư Lê Mạnh Thát đã phải dùng hệ phát âm tiếng Trung
Quốc thời Hán của Karlgren, là công cụ mà các nhà Hán học đều thống nhất, rồi
đối chiếu với những tài liệu đánh dấu sự biến đổi ngôn ngữ để truy lùi về thời
điểm nghiên cứu, và cũng bằng phương pháp tương tự, ông đối chiếu những mối
liên hệ giữa tiếng Trung Quốc, tiếng Việt và các loại ngôn ngữ khác trong vùng
(chữ Phạn, Chăm, Khmer, tiếng nói các dân tộc Trung Quốc giáp giới với Việt
Nam...) để phác thảo diện mạo tiếng Việt của bài Việt ca, bác bỏ kết luận sai
trái của Quách Mạt Nhược và học giả người Nhật nói trên... (bạn đọc muốn tìm
hiểu sâu hơn, xin xem các sách đã dẫn).
Tiếp theo và
cùng với chữ viết là lịch pháp. Lâu nay chưa ai biết dân tộc ta thời đại Hùng
Vương sắp xếp ngày tháng như thế nào. Giáo sư Hoàng Xuân Hãn từng đoán: "Văn
hóa Trống đồng của nước Văn Lang chắc đã dùng năm 12 tháng, tháng lần lượt
29-30 ngày cũng không hẳn là vô lý" (Lịch và lịch Việt Nam, Tập san
Khoa học xã hội, Paris, 1982, trích từ Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt Nam
tập 1, Nhà xuất bản Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh 2006, trang 71). Nay những
phát hiện trong Lục độ tập kinh cho phép khẳng định được lời đoán của giáo sư
Hoàng Xuân Hãn. Những câu chuyện ghi trong tập kinh này cho thấy, nước ta thời
Hùng Vương đã dùng hệ thống lịch chia năm ra 360 ngày, phân bổ thành 4 mùa, mỗi
mùa có 3 tháng và đã dùng đơn vị tuần, mỗi tuần 7 ngày. Đối chiếu với những tài
liệu cổ Trung Quốc thì thấy hệ thống lịch nước ta khác với lịch Trung Quốc cùng
thời, vì lịch Trung Quốc thời đó mỗi năm 366 ngày và một đơn vị tuần của họ có
tới 10 ngày. Nó cũng không giống Ấn Độ, vì tuần của Ấn Độ thời đó có 15 ngày.
Phát hiện này cho phép kết luận nước ta thời Hùng Vương đã có lịch pháp riêng
của một nhà nước độc lập. Giáo sư Lê Mạnh Thát cho rằng, để bảo lưu được một hệ
thống lịch pháp như thế, các câu chuyện trong Lục độ tập kinh chắc chắn phải
được lưu truyền "vào thời hệ thống lịch đó còn hiệu lực", tức
là từ năm 43 trở về trước, bởi vì sau năm đó nhà Hán đã chiếm nước ta, một sự
bảo lưu như thế dứt khoát không thể nào xảy ra dưới bộ máy đàn áp của Mã
Viện...
Những kết
luận của giáo sư Lê Mạnh Thát có thể và cần được các nhà sử học tiếp tục bổ
sung, nhưng không có gì thái quá khi nói rằng với phát hiện đó trên nền tảng
những thành quả quan trọng trong cuộc nghiên cứu lớn về thời Hùng Vương trong
thời gian chống Mỹ, chúng ta có thể và phải dựng lại lịch sử thời đại Hùng
Vương với những sự thật của nó. Nó một lần nữa chứng minh việc Nhà nước ta lấy
ngày giỗ tổ Hùng Vương làm Quốc Giỗ là vô cùng đúng đắn.
Là nhà tu
hành nhưng thiền sư Lê Mạnh Thát đã không kìm nén tức giận khi thấy người ta "thóa
mạ làm nhục tổ tiên mình với kiểu ăn nói của Ngô Sỹ Liên: Nước ta hiểu thi,
thơ, tập Lễ Nhạc thành ra nước văn hiến, bắt đầu từ Sỹ Vương. Bộ Việt luật còn
đó. Bài Việt ca còn đó. Truyện trăm trứng còn đó... Thế mà cứ nhắm mắt nói càn
nước ta thành ra nước văn hiến từ Sỹ Vương. Thật khốn nạn hết chỗ nói!".
Sự nổi giận của vị thiền sư này rất cần được sự hưởng ứng của tất cả những ai
còn coi mình là con cháu Lạc Hồng...
Sỹ Nhiếp là ai?
Có thể có ai
đó trong giới sử học "ý kiến ra ý kiến vào" về những phát
hiện của giáo sư Lê Mạnh Thát mà chúng tôi đang giới thiệu một phần hết sức tóm
lược. Mong rằng những người quan tâm có thể tìm đọc các công trình của ông để
trao đổi học thuật. Chúng tôi xin lưu ý, những gì mà chúng tôi giới thiệu ở đây,
giáo sư Lê Mạnh Thát đã công bố từ cách đây trên dưới 40 năm, nay được in lại
trong hai bộ Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam (tập 1) và Lịch sử Phật giáo
Việt Nam (tập 1), đều do Nhà xuất bản Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh phát hành
năm 2006, ngoài sách Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta mà
chúng tôi đã dẫn. Trong những công trình này, mỗi một vấn đề đưa ra ông đều dẫn
kèm theo tất cả các tài liệu có liên quan bằng những ngôn ngữ gốc. Những tài
liệu đó được ông giới thiệu cụ thể, chỉ rõ số trang, số tờ, nơi ấn hành hoặc
lưu trữ, nếu ai nghi ngờ thì có thể tra tận gốc, bằng tiếng Việt, chữ Hán cổ và
chữ Trung Quốc hiện nay, cùng tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nhật, chữ Phạn cổ...
Ông dẫn việc
nhà Tống với Lê Hoàn như trên để nói rằng những sử liệu từ Trung Quốc là "không
hoàn toàn đáng tin cậy", ví dụ như chính sử Trung Quốc ghi nhiều thứ sử
Giao Châu (nước ta) nhưng thực tế những người đó chỉ được "phong
khống" chứ chưa bao giờ bước chân qua nước ta. Việc nghiên cứu lịch sử
nước nhà phải sử dụng tất cả những tài liệu của tổ tiên ta để lại, rồi đối
chiếu với chính sử Trung Quốc để thẩm định, xác minh tìm ra sự thật. Cho nên,
mỗi một cuộc truy tìm, mỗi một phát hiện được tài liệu của tổ tiên đều khiến
cho lịch sử nước nhà trở nên sáng rõ.
Ông bảo nói "một
ngàn năm đô hộ giặc Tàu" như lời bài hát của Trịnh Công Sơn là cách
nói đau buồn mà không chính xác. Cuộc đấu tranh của dân tộc ta từ sau khi cuộc
kháng chiến của Hai Bà Trưng thất bại chưa bao giờ ngưng nghỉ. Bởi chưa đầy 60
năm sau, cuộc khởi nghĩa Tượng Lâm lần thứ nhất đã nổ ra vào năm 100, dẫn tới
việc người anh hùng Khu Liên lập khu tự do vào năm 138, làm hậu phương cho các
cuộc khởi nghĩa về sau, cho đến thời Chu Phù, Sỹ Nhiếp. Thực chất trong hơn 150
năm bị các thái thú Trung Quốc đến đô hộ, chúng ta "mất nước chứ
không mất hạnh", nghĩa là dân tộc vẫn còn, nền văn hóa dân tộc được xây
dựng từ thời Hùng Vương vẫn được bảo tồn và phát triển. Sự quật cường của dân
tộc chính người Trung Quốc cũng phải thừa nhận: "Trưởng lại đặt ra,
tuy có cũng như không".
Có một nhân
vật lạ lùng trong lịch sử nước ta, đó là Sỹ Nhiếp. Cả sử Trung Quốc và sử ta đều nói ông là thái thú
Giao Chỉ (sau đổi thành Giao Châu). Tuy là một "thái thú" đến cai
trị, nhưng các sử gia Việt Nam đều dành những lời lẽ mến mộ khi nói về Sỹ
Nhiếp. Lê Văn Hưu viết: "Sỹ Vương biết lấy khoan hậu khiêm tốn để
kính trọng kẻ sĩ, được người thân yêu mà đạt đến thịnh một thời". Ngô
Sỹ Liên cũng vậy. Trần Trọng Kim thì viết: "Sỹ Nhiếp trị dân có phép
tắc, và lại chăm sự dạy bảo dân cho nên lòng người cảm mộ công đức, mới gọi tên
là Sỹ Vương". Khi nhân dân gọi Sỹ Nhiếp là "Sỹ Vương", tức
là vua của mình, còn có lý do nào nữa không?
Phần trước
chúng tôi có nêu sự "nổi giận" của giáo sư Lê Mạnh Thát khi trích lời
Ngô Sỹ Liên "Nước ta hiểu thi thơ, tập Lễ Nhạc thành ra nước văn
hiến, bắt đầu từ Sỹ Vương", cần nói rõ là ông bất bình với việc cho rằng
nước ta hiểu thi thơ, tập Lễ Nhạc mới thành ra nước văn hiến, chứ hoàn toàn
không xem thường Sỹ Nhiếp. Cũng như Trần Trọng Kim viết: "Nhà làm sử
thường cho nước ta có văn học là khởi đầu từ Sỹ Nhiếp. Cái ý kiến ấy có lẽ
không phải" (Việt Nam sử lược).
Đưa ra nhiều
tài liệu dẫn chứng, giáo sư Lê Mạnh Thát cho rằng, trong thực tế chính quyền Sỹ
Nhiếp (từ 187), cũng như trước đó là Chu Phù (khoảng 180), là "chính
quyền Việt Nam độc lập". Sử Trung Quốc chép rõ Chu Phù "vứt điển
huấn tiền thánh, bỏ pháp luật Hán gia". Còn đối với Sỹ Nhiếp, sử
Trung Quốc (Ngô chí) viết rằng: "(Sỹ Nhiếp) tổ tiên vốn người Mấn
Dương nước Lỗ, đến loạn Vương Mãng tỵ nạn Giao Châu, tới Nhiếp là sáu đời".
Ông cho rằng một người có tổ tiên 6 đời ở Việt Nam thì đã "Việt Nam
hóa", trở thành người Việt Nam rồi. Cũng theo Ngô chí: "Sỹ phủ
quân (Sỹ Nhiếp) của Giao Chỉ học vấn đã ưu bác, lại thành công về chính trị, ở
trong đại loạn, bảo toàn một quận hơn 20 năm, cương trường vô sự, dân không
thất nghiệp, những bọn lệ thuộc đều được nhờ ân"; "Anh em Nhiếp đều
là người hùng các quận, làm tướng một châu, riêng ở vạn lý, uy tôn vô thượng.
Ra vào đánh chuông khánh, đầy đủ uy nghi, kèn sáo cổ xuy, xe ngựa đầy đường.
Người Hồ theo sát đốt hương, thường có mấy mươi. Thê thiếp đi xe màn, tử đệ
theo lính kỵ. Đương thời quý trọng, chấn phục trăm mọi. Úy Đà cũng không đủ
hơn". Từ tài liệu trên, theo giáo sư Lê Mạnh Thát: "Sỹ Nhiếp dẫu
được đào tạo trong khuôn mẫu Trung Quốc, đã có những hành vi xa lạ với phong
tục tập quán Trung Quốc. Nói rõ ra, ông đã được Việt hóa. Việc Ngô chí so sánh
Sỹ Nhiếp với Triệu Đà cho thấy nền cai trị nước ta thời bấy giờ độc lập tới mức
nào. Thực tế có thể nói chính quyền độc lập đầu tiên sau chính quyền Hai Bà
Trưng là chính quyền Chu Phù - Sỹ Nhiếp". Theo ông, dưới thời Sỹ Nhiếp,
nước ta đã có một nền nông nghiệp rất phát triển. "Lúa Giao Chỉ mùa
hè chín, nông dân một năm trồng hai lần" (theo Kinh Dương dĩ nam dị
vật chí). "Một năm tám lứa kén tằm đến từ Nhật Nam" (Văn
tuyển 5 tờ 9b4). "Nhiếp mỗi khi sai sứ đến Quyền đều dâng tạp hương,
vải mỏng thường tới số ngàn. Món quý minh châu, sò lớn, lưu ly, lông thú, đồi
mồi, sừng tê, ngà voi, các thứ vật lạ quả kỳ như chuối, dừa, long nhãn, không
năm nào không đưa đến" (Ngô chí 4 tờ 8b1-3 nói về những cống vật mà
Sỹ Nhiếp gửi đến Tôn Quyền).
Giáo sư Lê
Mạnh Thát dẫn giải tiếp: Sau khi Sỹ Nhiếp chết (226), lúc ấy Tôn Quyền đã chiếm
cứ phía Nam Trung Quốc để tranh hùng với Tào Tháo và Lưu Bị, nên nhân cái chết
của Sỹ Nhiếp tiến hành thôn tính nước ta, lúc đó "là một nước độc lập
dựa trên điển huấn và pháp luật của người Việt". Con Sỹ Nhiếp là Sỹ Huy
nối nghiệp cha, chống lại Tôn Quyền, tuy nhiên do mất cảnh giác, nên đã thất
bại, Sỹ Huy bị bắt và bị giết, Tôn Quyền chiếm nước ta. Nhưng do bị chống đối
quyết liệt, nền cai trị của Tôn Quyền không bền vững và không lâu dài, vì chỉ
18 năm sau, Triệu Thị Trinh (Bà Triệu) cùng anh là Triệu Quốc Đạt nổi lên khởi
nghĩa giành lại chính quyền.
Về sự kiện Bà Triệu khởi nghĩa, giáo sư Lê Mạnh Thát cho rằng đây là
cuộc "khởi nghĩa thành công". Ông viết: "Tôn Quyền sai
Lục Dận làm An nam hiệu úy và thương thảo với quân khởi nghĩa bằng ấn tín và
tiền của. Đây là lối đánh dẹp khá lạ kỳ, hiếm thấy trong lịch sử Trung Quốc đối
với nước ta. Và cuối cùng Lục Dận cũng có thể báo cáo là đã "dẹp yên được
giặc Giao Chỉ" và được phong làm thứ sử Giao Châu. Nhưng châu trị của Giao
Châu lần này không phải ở nước ta, mà phải ở Quảng Châu, vì nó ngó ra biển (lâm
hải), như bài biểu của Hoa Thạch trong Ngô chí tờ 10b3 đã ghi nhận. Nói cách
khác, nước ta từ năm 248 tiếp tục là một nước độc lập và Bà Triệu tiếp tục đứng
đầu đất nước, cho đến khi Tôn Hựu sai Đặng Tuân (Ngụy chí 4 tờ 27a3 viết là
Đặng Cú) đến Giao Chỉ vào năm 257, ra lịnh cho thái thú Giao Chỉ bắt dân đưa
lên Kiến Nghiệp làm lính. Và như Thiên Nam ngữ lục đã ghi nhận là Bà Triệu đã
bị tử trận trong một cuộc chiến đấu với chính Đặng Tuân sau khi đã tiêu diệt
Lục Dận (...). Những mô tả này (trong Thiên Nam ngữ lục) hoàn toàn phù hợp với
tư liệu của Ngụy chí 4 tờ 27a2-27b5, đặc biệt là tờ chiếu năm Hàm Hi thứ nhất (264)
của Tào Hoán..." (Lịch sử Phật giáo Việt Nam tập 1, trang 385-386)...
Một
minh chứng văn hóa
Những phát
hiện nói trên của giáo sư Lê Mạnh Thát cho phép dựng lại lịch sử dân tộc trong
thời kỳ nước nhà không có sử liệu, sử sách được viết chủ yếu căn cứ theo các
tài liệu của Trung Quốc. Việc khẳng định chủ quyền của dân tộc thời trước Hai
Bà Trưng, thời Sỹ Nhiếp và sau đó nữa là có cơ sở. Những phát hiện về văn hóa,
bắt đầu từ Khương Tăng Hội với Lục độ tập kinh và Mâu Tử với Lý
hoặc Luận, đặc biệt là sự kiện 6 lá thư đề cập dưới đây càng minh chứng cho
điều đó.
Lý hoặc Luận của
Mâu Tử là một tác phẩm nổi tiếng, được viết vào cuối thế kỷ thứ II (198) và
được lưu hành tại Trung Quốc bắt đầu từ thế kỷ thứ V, có ảnh hưởng lớn ở Trung
Quốc. Nó còn là "sách gối đầu giường" của người Phật tử
Viễn Đông, cụ thể là Trung Quốc và Nhật Bản. Đến nửa đầu thế kỷ XX, một loạt
những nghiên cứu của các học giả Trung Quốc, Nhật Bản và Pháp được công bố về
tác phẩm này, gây nên một cuộc tranh biện sôi nổi và hào hứng, bắt đầu từ công
trình của Lương Khải Siêu, tiếp đó là của H.Maspéro, Tokiwa Daijo, P.Pelliot,
Chu Thúc Ca, Hồ Thích, Matsumoto Bunzaro, Dư Gia Tích và Fukui Kojun (dẫn theo
Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tập 1). Ở Việt Nam, nó cũng được coi là cuốn sách
lý luận được quan tâm từ hơn 1000 năm trước, đặc biệt từ năm 1932 khi Trần Văn
Giáp giới thiệu Mâu Tử là "người đầu tiên truyền bá đạo Phật ở Việt
Nam", cuốn sách đó được sự quan tâm rộng rãi của giới học giả và nhiều
người dân. Trong khi nghiên cứu Lục độ tập kinh, giáo sư Lê Mạnh Thát đã phát
hiện những mối liên hệ thú vị và trên cơ sở một cuộc khảo sát hết sức công phu,
ông đã tìm ra bằng chứng khẳng định Mâu Tử là người Việt Nam và Lý hoặc Luận
chính là tác phẩm của Việt Nam truyền sang Trung Quốc. Công trình nghiên cứu
này của ông đã được công bố một phần trước năm 1975 và công bố toàn bộ sau này
(xem Tổng tập Văn học Phật giáo Việt Nam, tập 1).
Theo giáo sư
Lê Mạnh Thát: "Trong bối cảnh văn hóa thời Mâu Tử, Lý hoặc Luận không
phải viết để xiển dương Phật giáo, mà là một cuộc tổng kết cuộc đấu tranh về
văn hóa, giữa văn hóa Việt Nam đối với văn hóa phương Bắc". Phải có một bề
dày văn hóa như thế nào mới có thể có được một bản lĩnh văn hóa như vậy. Một
bên thì áp đặt Thi Thư như chân lý, Trung Hoa là trung tâm, một bên Mâu Tử đáp
trả "Đất Hán chưa chắc là trung tâm của trời đất", "năm
kinh chưa hẳn là lời của thánh hiền". Tiếp cận tác phẩm của Mâu Tử,
chúng ta còn thấy dân tộc ta đã bảo tồn văn hóa của mình như thế nào, tiếp thu
có chọn lọc những tinh hoa của Phật giáo, Nho giáo và Lão giáo để phát triển
nền văn hóa của mình như thế nào và truyền bá văn hóa của mình ra nước ngoài ra
sao.
Sáu lá
thư và một vị vua
Một phát hiện
cực kỳ quan trọng khác của giáo sư Lê Mạnh Thát là 6 lá thư nằm trong Đại tạng
kinh chữ Hán. Đó là 6 lá thư trao đổi giữa hai pháp sư Đạo Cao và Pháp Minh với
một "sứ quân" của Giao Châu tên là Lý Miễu. Trước khi ông công bố 6
lá thư này, chưa có một tài liệu nào đề cập tới. Từ điểm gây tò mò đầu tiên
trong 6 lá thư là địa danh "Giao Châu", ông đã tiến hành một cuộc
truy tìm ngoạn mục. Trước hết là tìm nguồn gốc Việt Nam về mặt điển cố lịch sử,
tìm nguồn gốc Việt Nam về mặt điển cố thư tịch, kế đó là tìm niên đại và tung
tích tác giả 6 bức thư.
Khó khăn nhất
là tìm ra tác giả của chúng. Ông bảo tung tích của những người mang tên Đạo
Cao, Pháp Minh và Lý Miễu ngày nay chúng ta không biết một tí gì hết.
Ông "kiểm
soát toàn bộ" những tư liệu lịch sử Trung Quốc và Phật giáo Trung
Quốc, cũng như tư liệu lịch sử Việt Nam và Phật giáo Việt Nam, cũng không tìm
thấy những người có các cái tên ấy. Ông lục tìm trong Tấn thư, Tống thư, Nam Tề
thư, Lương thư, Ngụy thư, Bắc sử, Nam sử và Tư trị thông giám sử cũng như Đại
Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử tiêu án và Khâm định Việt sử
thông giám cương mục cũng không gặp một "sứ quân" (hoặc chức vụ tương
đương) nào với cái tên Lý Miễu; lục tìm trong Cao tăng truyện và Tục cao tăng
truyện cũng như Thiền Uyển tập anh, cũng không tìm thấy một pháp sư nào có tên
Đạo Cao hay Pháp Minh. Chỉ duy nhất trong Toàn Tấn văn 157 tờ 15a12-2 có liệt
ra tên một Thích Đạo Cao, nhưng kiểm tra bản mục lục của văn liệu này cũng như
xuất xứ của tên ấy dẫn từ Cao tăng truyện 5 tờ 255b15-17 thì thấy là Thích Đạo
Tung chứ không phải Đạo Cao, sự khác nhau đó là do Toàn Tấn văn khắc nhầm.
Ông mở rộng
việc truy tìm sang các tài liệu Nhật Bản và Triều Tiên. Trong khi khảo sát toàn
bộ tài liệu liên quan của Nhật, ông đọc kỹ lại Nhật Bản quốc kiến tại thư mục
lục (là sách được Vũ Điền thiên hoàng cho viết nhằm ghi lại tất cả những bộ
sách Trung Quốc còn sót lại trong Thư viện hoàng gia sau vụ cháy năm 887), tìm
thấy một dữ kiện lôi cuốn. Dưới mục thứ mười mang tên Tiểu học gia, liệt ra một
bộ sách nhan đề "Tá âm, một quyển, Thích Đạo Cao soạn" và
dưới mục Biệt tập lại ghi "Đạo Cao pháp sư tập, một quyển". Vấn
đề là Đạo Cao tác giả của hai cuốn sách Tá âm và Đạo Cao pháp sư tập này có
phải là Đạo Cao pháp sư trong 6 lá thư hay không? Đối chiếu thì thấy hai tác
phẩm này chắc chắn không phải do người Nhật biên soạn mà phải là từ Trung Quốc
mang về, vì khảo sát toàn thể tài liệu Phật giáo Nhật Bản ông không thấy tăng
sĩ Nhật Bản nào mang tên Đạo Cao cả. Vấn đề là họ mang về Nhật từ lúc nào. Một
cuộc kiểm soát tiếp vẫn không cho biết một tí gì cả, chỉ biết chắc chắn là nó
phải được mang về trước năm 887 để có thể ghi vào bản thư mục nói trên. Ông
cũng kiểm soát những bản thư tịch liệt kê những tư liệu liên quan tàng trữ ở
các nước Anh, Pháp, Liên Xô, cũng không tìm thấy gì hết.
Tuy nhiên, ở
đây xuất hiện một vấn đề mới. Trước hết về cuốn Tá âm. Nó được liệt vào loại
Tiểu học gia, mà căn cứ vào định nghĩa của Tùy thư kinh tịch chí, nó là loại
sách ngôn ngữ. Cần nói thêm, một chú giải trong tài liệu Nhật Bản còn ghi "Kinh
tịch chí của Tùy thư có ghi Tá âm tự một quyển, nhưng không ghi họ tên người
viết". Ghi chú này đã được xác nhận từ tài liệu Trung Quốc và từ dẫn giải
của các tài liệu Trung Quốc cũng như Nhật Bản, có thể coi Tá âm tự là một tác
phẩm khác nữa của Thích Đạo Cao. Như vậy là ít nhất Thích Đạo Cao cũng có 3 tác
phẩm được nhắc đến. Vấn đề đặt ra là tại sao những tác phẩm đó được Nhật Bản
đem về từ Trung Quốc mà Trung Quốc lại không ghi một cách đàng hoàng trong các
tài liệu chính thống của mình, mà chỉ ghi một cách sơ sài khuyết danh trong Tùy
thư? Tiếp tục nghiên cứu và đối chiếu, ông xác định rằng sở dĩ như vậy là vì
những sách đó chắc chắn không phải tiếng Trung Quốc mà là tiếng nước ngoài.
Những khảo
sát như vậy dẫn đến kết luận, Đạo Cao chắc chắn không phải là người Trung Quốc,
Nhật Bản hay Triều Tiên, trong khi người mang tên đó là một trong hai tác giả
các bức thư trao đổi với Lý Miễu, "sứ quân" Giao Châu. Bởi vậy Đạo
Cao chắc chắn là người Việt Nam. Và từ nhân vật này, ông phát hiện một chứng cứ
quan trọng khác về một cột mốc phát triển ngôn ngữ dân tộc: Tá âm là một quyển
sách ngữ học về quốc âm, còn Tá âm tự là một cuốn tự điển về thứ tiếng quốc âm
đó. Rất tiếc là chúng đã thất lạc, nhưng chắc chắn là có những cuốn sách đó.
Ông bảo trong sưu tập Stein tàng trữ tại Bảo tàng viện Anh Quốc có một thủ bản
mang ký hiệu S.5731, mô tả một tài liệu giống như vậy, nhưng vì ông "chưa
có trong tay" thủ bản đó nên chưa thể khẳng định.
Chúng tôi dẫn
chứng dài dòng đoạn trên, tuy rất sơ lược, để bạn đọc phần nào thấy được cách
làm việc cẩn trọng của giáo sư Lê Mạnh Thát. Những khảo sát như vậy đã được
tiến hành và dễ dàng tìm ra tông tích Việt Nam của người thứ hai là Pháp Minh.
Đối với nhân
vật Lý Miễu, nội dung 6 lá thư cho thấy Lý Miễu được gọi là "sứ quân"
và lời lẽ của nhị vị pháp sư trong 6 lá thư coi ông "ở địa vị của một
bậc thiên tử". Đối chiếu danh sách những chức danh tương đương với
"sứ quân" như "thái thú", "thứ sử" Trung Quốc cử
sang thì không thấy tên Lý Miễu. Toàn bộ sử sách Trung Quốc cũng như Việt Nam
đều không có tên Lý Miễu. Với một khảo sát văn liệu tương tự cùng những phân
tích chính trị, xã hội đến tận ngọn nguồn, ông kết luận Lý Miễu chính là
một vị vua của Việt Nam. Một nhân vật xưng vương xưng đế trên một đất nước độc
lập mà Trung Quốc không với tới thì sử sách Trung Quốc không chép là không có
gì lạ. Còn việc sử ta không chép cũng là đương nhiên, vì không có sử liệu. Ông
ước đoán 6 lá thư đó được viết vào những năm 435-440, nằm trong thời kỳ Nam Bắc
triều (420-588) của Trung Quốc. Niên đại của Lý Miễu nằm trong khoảng 390-470,
của Đạo Cao khoảng 365-455 và Pháp Minh khoảng 370-460. 6 lá thư chứa đựng
những sử liệu vô cùng quý giá cho việc nghiên cứu nghệ thuật, âm nhạc, văn học,
Phật giáo, chính trị và tư tưởng (bạn đọc quan tâm vấn đề này xin đọc Lịch
sử Phật giáo Việt Nam tập 1, trang 427-582).
Xin tạm dừng
loạt bài này ở đây. Thiền sư Lê Mạnh Thát đã thực hiện một loạt các công trình
nghiên cứu đồ sộ về lịch sử dân tộc và lịch sử Phật giáo, về văn học, triết
học... Riêng các công trình lịch sử văn học của ông được tập hợp thành Tổng tập
văn học Phật giáo khoảng 50 tập (đã in 3 tập). Chúng tôi giới thiệu sơ lược một
số trong rất nhiều phát hiện lịch sử của thiền sư với mong muốn những người
quan tâm đến lịch sử nước nhà biết đến. Đối với các cơ quan quản lý ngành lịch
sử và những nhà sử học - những người đang nghiên cứu lịch sử, chúng tôi thiết
nghĩ nó có lợi chứ hoàn toàn không gây thiệt hại gì cho việc nghiên cứu, vì
nghiên cứu thì cần có những tài liệu mới do chính mình hoặc do người khác phát
hiện ra. Các cơ quan nghiên cứu lịch sử hoặc các nhà sử học có thể xem xét,
đánh giá, tranh biện, cái gì có tài liệu chứng minh là không đúng thì nói là
không đúng, cái gì cần tiếp tục làm rõ thì cùng nhau tìm tòi làm rõ, nhưng cái
gì thấy có cơ sở là đúng rồi thì cần thừa nhận để đưa vào dòng chính thống. Tất
cả đều nhằm mục đích tìm ra sự thật để tôn vinh dân tộc chúng ta. Mỗi một di
sản của tổ tiên đều phải được truy tìm, cũng như mỗi một tấc đất của tổ tiên
đều phải được gìn giữ.
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- - Các bài viết về
khoa Tử Vi0
- Các bài viết về
khoa Phong Thủy0
- Các bài viết về
khoa Tướng thuật0
- Các bài viết về
Kiến thức cuộc sống0
- Các bài viết về
Chuyện làng văn0
- Bạn đọc cảm nhận
về một số tác phẩm của Đặng Xuân Xuyếnl
Mời thưởng thức ca khúc XUÂN NÀY BÊN MẸ
của Randy, qua tiếng hát của ca sĩ Randy:
Trần Chí Cường giới thiệu
Tác giả: Hoàng Hải Vân -
nguồn: dongtacgiaoluu
Ảnh minh họa sưu tầm từ nguồn: internet
Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.
0 comments:
Đăng nhận xét