PHẢN BÁC QUAN ĐIỂM
"VIỆT NAM BỎ CHỮ HÁN
LÀ KHÔNG KHÔN NGOAN"
Trong bài Facebook đăng hôm 12/3/2023 “Người Trung Quốc nghĩ gì về tiếng
nói và chữ viết của người Việt Nam”, tôi có viết ở dòng cuối cùng: “Vị hoạ sĩ Trung Quốc này không phải là người
thiếu thiện cảm với Việt Nam, nhưng quan điểm của ông ta về lịch sử và ngôn ngữ
Việt Nam đúng là có chỗ cần phản bác.”
Hôm nay (16/3/2023) xin phản bác quan điểm sai lầm thứ hai của vị
khách ấy: Việt Nam bỏ chữ Hán, dùng chữ Quốc ngữ là không khôn ngoan. Ai không
biết chữ Hán mà chỉ đọc chữ Hangul phiên âm của người Hàn Quốc hoặc chữ Quốc
ngữ phiên âm của người Việt Nam thì sẽ gặp khó khăn là không thể giải quyết vấn
đề có nhiều chữ/từ đồng âm; ngày nay người Việt phớt lờ việc học chữ Hán là
không khôn ngoan.
Trước hết cần nói là người Việt rất biết ơn chữ Hán du nhập nước
ta đã làm cho dân tộc ta có chữ viết để dùng, nhờ đó thoát ra khỏi thời đại
tiền sử mông muội, tiến sang thời đại văn minh có chữ viết để ghi chép, giao
lưu đối nội đối ngoại, học tập văn minh Trung Hoa, xây dựng nền văn minh Việt.
Chữ Hán có tính biểu ý đã tạo điều kiện để tổ tiên người Việt sáng
tạo “Cách đọc Hán-Việt”, tức đọc chữ Hán bằng tiếng mẹ đẻ, qua đó biến chữ viết
của người Trung Quốc thành chữ viết của người Việt Nam. Khi đó mỗi chữ Hán được
đặt một cái tên gọi là “từ Hán-Việt” – tức từ tiếng Việt có âm đọc gốc Hán, mô
phỏng âm tiếng Hán. Loại chữ Hán đọc tiếng Việt ấy được dân ta gọi là “chữ
Nho”. Người Việt dùng chữ Nho để ghi âm các từ Hán-Việt. Các từ này chủ yếu
biểu thị những khái niệm tinh thần, trừu tượng, không phải là các từ thuần
Việt, từ bình dân (như mày tao tí tớ, thằng, con…). Sự ra đời từ Hán-Việt tuy
làm tăng đáng kể lượng từ ngữ tiếng Việt nhưng không làm thay đổi ngữ âm tiếng
Việt.
Chữ Nho có một ưu điểm lớn là trong quá trình dạy, học và dùng chữ
đều chỉ nói/nghe bằng tiếng Việt, cho nên người Việt học chữ Nho dễ hơn so với
khi học chữ Hán đọc bằng tiếng Hán. Rốt cuộc người Việt học được chữ Hán mà
không ai nói tiếng Hán, nhờ thế giữ được nguyên vẹn tiếng mẹ đẻ của dân mình,
tiếng Việt không bị Hán hoá, dân tộc ta không bị văn hoá Trung Quốc đồng hoá,
cho dù Việt Nam từng bị Trung Quốc thôn tính và cai trị suốt nghìn năm.
Nhưng chữ Hán có tính biểu ý không thể ghi âm được tiếng Việt cũng
như mọi thứ tiếng khác. Do đó người Việt Nam phải làm ra chữ Nôm, người Nhật
làm chữ Kana, người Hàn làm chữ Hangul -- đều là loại chữ có tính biểu âm để
ghi được các từ dân dã.
Chữ Nôm được cấu tạo trên nền tảng chữ Nho, phải biết chữ Nho mới
học được chữ Nôm, vì thế khó hơn chữ Nho, chỉ tầng lớp trên dùng được mà thôi,
không thể phổ cập toàn dân. Chữ Nôm vừa có tính biểu ý vừa có tính biểu âm,
không tách rời tiếng nói như chữ Nho. Vì chữ Nôm có tính biểu âm nên đầu thế kỷ
XVII, các giáo sĩ đến Việt Nam truyền bá đạo Thiên Chúa đã phiên âm hoá, Latin
hoá, hiện đại hoá thành công chữ Nôm, sáng tạo ra loại chữ biểu âm ghi được
toàn bộ ngữ âm tiếng Việt, về sau được gọi là “Chữ Quốc ngữ”. Loại chữ này tuy chưa hoàn hảo nhưng ưu việt hơn hẳn
chữ Nho và chữ Nôm, chỉ dùng 29 chữ cái mà ghi âm được bất kỳ âm tiết tiếng
Việt nào, cơ bản đạt yêu cầu lý tưởng đối với chữ viết, là nói thế nào thì viết
thế ấy, viết thế nào thì đọc thế ấy. Nhớ vài chục chữ cái dĩ nhiên dễ hơn nhớ
vài nghìn chữ Hán, chữ Nôm. Rõ ràng, dùng chữ Nho hoặc chữ Nôm thì đều bế tắc.
Thời bấy giờ chưa nước Đông Á nào có được thứ chữ viết tiên tiến như chữ Quốc
ngữ Việt Nam.
Hai thế kỷ sau, thực dân Pháp đến chiếm nước ta cũng thấy chữ Quốc
ngữ hoàn toàn đáp ứng nhu cầu khai hoá Việt Nam, vì thế không buộc dân ta phải
dùng tiếng Pháp như chúng đã làm ở châu Phi. Nhờ thế dân tộc ta lại thoát khỏi
thảm hoạ bị đồng hoá bởi văn hoá Pháp.
Lẽ tự nhiên, chữ Quốc ngữ quá ưu việt được toàn dân ta nhiệt liệt
hoan nghênh, trước hết là các nhà Nho và nhà cách mạng. Chữ Quốc ngữ đã chắp
cánh cho nền văn minh Việt Nam bay lên theo kịp nền văn minh của thế giới. Chỉ
trong dăm chục năm văn minh Việt đã có bước tiến vượt xa mấy nghìn năm trước.
Vì thế, bỏ chữ Nho, chữ Nôm, dùng chữ Quốc ngữ là một tất yếu lịch
sử trước sau sẽ xảy ra, một quyết sách khôn ngoan của dân tộc Việt. Thực tế cho
thấy, chữ Quốc ngữ đã làm cho ngôn ngữ Việt thăng hoa, phát huy được hết các ưu
thế bẩm sinh của tiếng Việt – giàu ngữ âm, ngữ pháp đơn giản, linh hoạt…
Chính quyền Pháp, chính quyền Nam Triều rồi chính quyền cách mạng
sau 1945 đã có tác động đẩy nhanh việc phổ cập chữ Quốc ngữ.
Thế nhưng cho tới nay không ít người Trung Quốc, kể cả một số nhà
ngôn ngữ học, vẫn nghĩ rằng Việt Nam đã sai lầm khi quyết định bỏ chữ Hán. Họ
cho rằng dùng chữ Quốc ngữ thì cũng không giải quyết được vấn đề từ đồng âm,
như trường hợp dùng chữ Hangul.
Thực ra chữ Quốc ngữ không có vấn đề như vậy. Căn nguyên ở chỗ
tiếng Việt quá giàu ngữ âm. Xét về lượng âm tiết cơ bản, Hán ngữ chỉ có hơn
400, chưa bằng 10% của tiếng Việt (4312). Tiếng Hàn cũng rất nghèo âm tiết, vì
thế vấn đề từ đồng âm khá nghiêm trọng.
Một ví dụ: hai từ gốc Hán “quyền
lợi 權 利” và “quyền lực 權 力”,
trong tiếng Hàn đọc như nhau là [chuan li], khi viết bằng chữ Hán thì do hai chữ
[li] ấy viết khác nhau 利 khác力 nên phân biệt được ý nghĩa. Nhưng khi viết bằng
chữ biểu âm Hangul thì hoàn toàn như nhau, nên không phân biệt được, buộc phải
ghi chú bằng chữ Hán (hoặc tiếng Anh). Trong tiếng Việt, hai âm “lợi” và “lực” khác nhau nên dễ phân biệt, chẳng cần ghi chú bằng chữ ngoại.
Đã ai thấy văn bản tiếng Việt nào viết bằng chữ Quốc ngữ lại phải kèm ghi chú
bằng chữ Hán chưa ?
Đó là lý do Hàn Quốc hiện nay vẫn phải dùng chữ Hán để ghi chú các
từ đồng âm dễ xảy nhầm lẫn. Các văn bản đòi hỏi tính chính xác cao, như luật
pháp, đều phải có ghi chú bằng chữ Hán.
Tóm lại, Việt Nam bỏ chữ Hán, chữ Nôm, chỉ dùng chữ Quốc ngữ là
hoàn toàn hợp lý hợp tình, là khôn ngoan.
Dĩ nhiên, biết chữ Hán, chữ Nôm sẽ có lợi cho việc kế thừa di sản
văn hoá cổ của tổ tiên ta để lại. Nhưng xét về hiệu suất thì việc dịch các thư
tịch cổ từ chữ Hán, chữ Nôm ra chữ Quốc ngữ sẽ giúp chúng ta hiểu và kế thừa
các di sản ấy tốt hơn. Biết chữ Hán, Nôm tới mức đọc hiểu các thư tịch cổ là
việc không dễ chút nào. Việc học chữ Hán, chữ Nôm chỉ nên dành cho các sinh
viên ngành khoa học xã hội-nhân văn mà thôi. Cho học sinh phổ thông học chữ
Hán, chữ Nôm là lợi bất cập hại.
Một dân tộc 100 triệu người, sở hữu một ngôn ngữ mạnh như tiếng
Việt, nên hoàn toàn độc lập về ngôn ngữ. Cụ Phạm Quỳnh từng nói đại ý: Mượn
dùng chữ viết của người ta thì sẽ làm nô lệ tinh thần cho người ta. Chữ Quốc
ngữ đã giúp ngôn ngữ Việt "Thoát Hán"
một cách ngoạn mục, lặng lẽ mà triệt để, Nhiều người Việt hiểu được giá trị quý
báu của chữ Quốc ngữ và của tiếng Việt, đã và đang ra sức giữ gìn kho báu này.
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Các bài viết về
khoa Phong Thủy0
- Các bài viết về
khoa Tướng thuật0
- Các bài phê
bình, cảm nhận thơ0
- Các bài viết về
chăm sóc sức khỏe0
- Các bài viết về
Kiến thức cuộc sống0
- Các bài viết về
Chuyện làng văn0
Mời nghe VN THU QUAN đọc
truyện ngắn
"CÔ" SƯỚNG CƯỚI VỢ của Đặng Xuân
Xuyến:
*.
NGUYỄN HẢI HOÀNH
Địa chỉ: phố Lê Thánh Tông, phường Phan Chu Trinh
quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.
..........................................................................................................
- Cập nhật từ email:
quanboyman1992@yahoo.com.vn ngày 29.06.2024.
- Ảnh minh họa cho bài
viết được sưu tầm từ nguồn: internet.
- Bài viết không thể hiện
quan điểm của blog trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
0 comments:
Đăng nhận xét