(Tỳ Kheo Thích Chân Quang) |
TÌNH CẢM CỦA CON NGƯỜI VỚI NHAU
LÀ DO KẾT QUẢ CỦA NGHIỆP BÁO
(Trích trong NHÂN QUẢ XUẤT THẾ GIAN của
Thích Chân Quang)
*
“Con tim có những lý lẽ mà lý
trí không hiểu nổi” Một triết gia phương tây đã nói như vậy. Đúng! Ý thức dường
như không hiểu hết sự hoạt động của tình cảm thương ghét trong lòng mình. Tại
sao vừa gặp một người lạ, tâm ta chợt xuất hiện ác cảm. Chợt nhìn thấy một hình
bóng xa xa, lòng ta rộn lên niềm cảm xúc. Ý thức chưa kịp nói năng gì thì tình
cảm đã rộn ràng múa may quay cuồng kêu réo.
Các nhà khoa học đã tìm thấy hoạt chất ảnh hưởng lên tình cảm của con
người. Ví dụ bác sĩ Liebowitz tìm thấy khi não bộ sản xuất ra chất
Pheniletilamin thì tình yêu mến tự nhiên dâng trào trong lòng. Một số tình cảm
thù ghét, bực bội khó chịu cũng đều liên quan đến các hoạt chất trong cơ thể.
Có thể sự tương quan có tính cách hai chiều. Vì tình cảm khởi dậy nên hoạt chất
phát sinh, và ngược lại, khi hoạt chất phát sinh (hoặc do tiêm chích) thì tình
cảm khởi dậy. Người ta tiêm một hoạt chất thúc đẩy tình thương con vào chuột mẹ
thì thấy tình thương của con chuột này tăng lên rõ rệt đối với bầy con của nó.
Hoạt chất này xuất hiện rất nhiều khi người phụ nữ sinh nở. Đó là nguyên nhân
gần tác động lên tình cảm của sinh vật. Nguyên nhân sâu xa vẫn còn dấu trong
luật Nghiệp Báo.
Một nguyên nhân gần khác đáng được lưu ý là do tâm lý phát sinh tình cảm.
Ví dụ khi một chàng trai nhìn thấy một cô gái đẹp, một minh tinh màn bạc, một
cô tiểu thư nhà giàu, một cô gái thông minh tài giỏi... Lòng anh ta cũng phát
sinh một tình cảm ưu ái và muốn chiếm đoạt về mình. Tình cảm ưu ái đó phát xuất
từ tâm lý vị kỷ cố hữu của con người luôn luôn muốn quơ quào về cho mình thật
nhiều mọi cái gì tốt đẹp trên thế gian. Tình cảm ưu ái đó là hệ quả của tâm lý
tham lam mà thôi!
Trong trường hợp khác, một số cô gái bỗng cảm thấy khó chịu với thí sinh
vừa đạt danh hiệu hoa hậu quốc gia. Tình cảm ganh ghét này là hệ quả của tâm lý
đố kỵ thầm kín giữa phái nữ với nhau, đó là chuyện thường tình. Có khi một
thiếu phụ tìm cách chiếm đọat tình cảm của một người đàn ông nhưng không thành
công. Từ yêu mến, bỗng bà ta trở nên thù hận cực điểm và tìm cách trả thù cho hả
dạ. Như vậy tình cảm yêu mến hay hận thù của người đàn bà này hoàn toàn chỉ là
tâm lý ích kỷ tham lam, không phải là tình yêu thương chân thật. Khi khảo sát
về tình cảm thương ghét của con người, chúng ta nhận thấy rằng tất cả đều xuất
phát từ tâm lý vị kỷ. Cái gì thỏa mãn được lòng tham muốn, sự ưa thích sẽ phát
sinh. Cái gì ngăn cản lòng ham muốn, sự thù ghét sẽ xuất hiện.
Tình cảm con người chỉ là một trò lừa dối của chấp ngã bí ẩn phía sau.
Chính vì nhìn thấy bản chất thật sự của tình cảm này mà các bậc thánh nhân luôn
luôn kêu gọi một tình thương không điều kiện, một tình thương không đòi hỏi cho
tự kỷ, chỉ thuần có ban phát và hy sinh, một tình thương hoàn toàn vô ngã. Tuy
nhiên để vuợt qua được ngã chấp sâu kín từ trong bản năng vô thức (xem Năm ám là
gì), chúng ta phải khổ công thực hành thiền định đúng phương pháp. Quả thật
không dễ dàng chút nào khi một người muốn vuợt khỏi ngã chấp để đạt được một
tâm đại bi vô lượng trùm phủ thương yêu tất cả mọi người. Tâm đại bi đó mới là
tình thương yêu chân thật, hoàn toàn hy sinh cho tha nhân mà không mong mỏi
điều gì trở lại cho tự kỷ. Đối với hạng phàm phu như chúng ta, điều quan trọng
là cố gắng kiểm soát tâm lý tham lam ích kỷ của mình, phải tự xét nét kỹ lưỡng
xem sự thương yêu của mình đối với mọi người có ẩn chứa một mưu tính, một sự
trục lợi nào ẩn dấu sâu kín bên trong hay không. Bởi vì chúng ta hầu như chỉ
thương yêu cái gì đem lại lợi ích cho mình. Không có lợi ích cho mình, tình
thương sẽ vắng bóng (!) Ai mưu hại ta, ta sẽ ghét họ. Ai giúp đỡ ta, ta sẽ
thương họ. Đó là quy luật thường tình mà tất cả mọi người không thể vựợt qua
nổi. Chúng ta muốn đi tìm một chân lý cao cả, một con đường hướng thượng bao
la. Hãy cố gắng thứ tha và “thương yêu kẻ thù ghét mình” (Phúc Âm) và thương
yêu kẻ tích cực giúp đỡ mình sau khi đã gạn lọc xong tâm lý “vì họ đem lại lợi
ích cho mình”. Ngoài những nguyên nhân gần, tình cảm còn xuất phát từ nghiệp
duyên trong quá khứ.
Một hòa thượng được một gia đình thí chủ thỉnh về cung dưỡng trân trọng đầy
đủ để hòa thượng yên tâm tu hành. Sau một thời gian dài hai bên trở nên thù
ghét nhau dữ dội và hoà thượng phải ra đi. Nguyên nhân được tìm thấy là từ đời
trước gia đình kia chịu ơn với hòa thượng nên đời này phải cung phụng để đền
trả. Dĩ nhiên trước khi thỉnh hòa thượng về họ phải khởi lên tình cảm kính
thương sâu đậm với hòa thượng. Sau khi trả xong món nợ quá khứ, họ cảm thấy hòa
thượng là một gánh nặng đối với gia đình. Tình cảm ưu ái biến mất, sự ghét bỏ
thế chỗ, và rồi hòa thượng phải ra đi. Như vậy tình cảm đời này có khi xuất
phát từ một món nợ của quá khứ. Khi thấy ai tự dưng yêu mến giúp đỡ mình, chúng
ta đừng vội cho mình có nhiều ưu điểm. Có khi chỉ vì họ mắc một ân nghĩa gì đó
và đang trong thời gian đền trả. Trả xong, tình cảm sẽ biến mất. Hiểu được điều
này chúng ta sẽ giữ được bình thản khi thấy con người khi thì vồn vã với nhau,
khi thì hờ hững với nhau.
Tương tự những lời nói công kích sỉ nhục từ kiếp trước, sự giết hại chiếm
đoạt từ quá khứ cũng gây ra tâm lý thù ghét của nạn nhân trong đời này. Chúng
ta lỡ lời làm mất thể diện của một người. Rồi chuyện trôi vào quên lãng. Nhưng
qua kiếp sau, vừa trông thấy mặt nhau, tâm người kia bỗng khởi lên một sự ác
cảm kỳ lạ đối với ta mà chính họ cũng không biết tại sao. Cũng chưa hẳn là sự
ác cảm của họ sẽ gây ra phiền toái cho chúng ta, nhưng dù sao ác cảm vẫn còn
đó. Vì thế trên bước đường luân hồi vô tận này, chúng ta hãy cố gắng tránh né
làm phật lòng, xúc phạm đến người khác để tránh được oán thù về kiếp sau.
Hầu hết các nhân vật nổi tiếng giữa xã hội như các nhà chính trị thành công
được nhiều người ưa thích hâm mộ. Nguyên nhân của sự hâm mộ này có thể bắt
nguồn từ sự ban ân rộng rãi từ những kiếp trước. Quá nhiều người đã thọ ân của
họ nên đời sau buộc lòng phải ủng hộ cho họ đạt đến địa vị trên chính trường
thông qua lá phiếu hay một cách thức vận động nào khác. Chưa hết, nếu trong
thời gian làm chính trị, họ giữ được uy tín, tình cảm của quần chúng sẽ còn kéo
dài qua nhiều kiếp sau nữa.
Khi so sánh cuộc đời của vua nhạc Rock Elvis Presley, các nhà sử học rất
ngạc nhiên khi thấy gương mặt của Elvis Presley giống hệt như bức tượng của một
vị vua Ai Cập thời xưa. Vì vua Ai Cập này đã sống ở một địa danh tên là Memphis ở
Ai Cập. Trong khi Elvis sống tại Memphis ở
Mỹ. Vị vua Ai Cập này tôn thờ Thần Mặt Trời để thay thế các thần linh khác,
trong khi Elvis trở nên nổi tiếng với băng nhạc “Sun” (mặt trời) đầu tiên.
Elvis Presley được sự hâm mộ của công chúng, đến nỗi sau khi chết, anh được mọi
người yêu cầu tổng thống Carter phải tổ chức quốc tang trọng thể. Có thể nào
cái dư hưởng làm vua từ quá khứ xa xăm vẫn còn đọng lại trên tâm tình của quần
chúng, mặc dù bây giờ Elvis Presley đã trở thành một vị vua mới, Vua nhạc Rock
chăng? Trong luật Nghiệp Báo, một ông vua vẫn có thể trở thành nghệ sĩ nếu
trong thời gian trị vì ông đã từng ưu đãi giới nghệ sĩ quá mức. Sau này ông sẽ
trở thành nghệ sĩ để được ưu đãi trở lại.
Có hai nguyên nhân dẫn đến sự thu hút tình cảm của mọi người (dành cho
mình):
Một, đó là người có tâm từ ái rộng lớn, luôn luôn biết thương yêu, đối xử
tử tế, hòa nhã với mọi người. Kiếp sau họ có khuôn mặt hiền lành, phúc hậu khả
ái kỳ lạ, bất cứ ai vừa trông thấy đều cảm mến.
Hai, đó là người siêng năng làm việc từ thiện bằng lý trí. Tâm hồn họ không
có nhiều tình cảm nhưng lý trí họ rất sáng suốt, luôn luôn chịu khó tích lũy
phước thiện, luôn luôn chịu khó giúp đỡ mọi người. Đời sau họ cũng được nhiều
người (đã thọ ân) yêu mến mặc dù gương mặt họ có vẻ cứng cỏi khôn ngoan chứ
không có vẻ hiền lành tự nhiên như trường hợp thứ nhất.
Có một loại tình cảm được đề cập đến nhiều nhất trong tất cả tác phẩm văn
hóa của nhân loại đó là tình yêu nam nữ. Có lẽ đây là loại tình cảm mãnh liệt
hơn các loại tình cảm khác bởi vì nó liên quan đến bản năng sâu kín của con
người. Thứ nhất con người luôn luôn muốn chiếm đoạt về mình mẫu người có thể
đem lại hạnh phúc cho mình (tâm lý vị kỷ). Đó là mẫu người đẹp đẽ, có tài năng,
có tiền bạc, đối xử tế nhị. Thứ hai, tình cảm nam nữ có sự thôi thúc âm thầm
của hoạt động tính dục, một loại hoạt động gây khoái cảm xác thịt rõ rệt nhất.
Ngoài những nhu cầu về ăn uống, tổ chức sinh lý của con người đã sắp sẵn một sự
đòi hỏi để được thỏa mãn về khoái cảm tính dục. Vì thế người nam và nữ luôn
luôn tìm kiếm đối tượng thích hợp để trao đổi khoái cảm này. Có khi tình yêu và
hôn nhân dẫn đến hoạt động tính dục. Có khi họ đến với nhau vì khoái cảm và mua
bán mà thôi. Dù sao thì duyên nghiệp từ quá khứ cũng đã chi phối cho loại tình
cảm này.
Nếu quả thật có duyên nợ, hai người sẽ yêu nhau chân thành và đi đến hôn
nhân để trả xong nợ quá khứ (và tiếp tục gây nợ mai sau) Nếu không có nợ, chỉ
có duyên, họ sẽ yêu nhau qua một giai đọan, rồi trắc trở, tình cảm phai nhạt
dần theo năm tháng. Đôi khi chỉ có tình yêu đơn phương. Người này mơ tưởng đến
người kia nhưng không được đáp lại. Họ tìm thấy người kia những tiêu chuẩn về
sắc đẹp, tư cách thích hợp, muốn người kia trở thành của mình, nhưng từ kiếp
trước đã không có duyên nên họ không nhận lại một sự đáp ứng nào cả. Nhưng rồi
tình yêu cũng chỉ là bề mặt của bản chất ích kỷ, hưởng thụ của con người. Chính
bản năng hưởng thụ đã thúc đẩy nam nữ tìm đến nhau, thì nó cũng thúc đẩy họ làm
khổ lẫn nhau. Biết bao chuyện vợ chồng gây gổ, đánh đập, bao nhiêu chuyện ngoại
tình, giết hại lẫn nhau bỏ mặc con cái bơ vơ đau khổ. Nếu bên cạnh tình yêu, họ
có thêm chút tình thương chân chính của sự hy sinh, độ lượng, vị tha, tình yêu
đó khả dĩ bớt đi màu sắc ảm đạm của bản năng ích kỷ. Họ biết tha thứ, thông cảm
lẫn nhau để cùng xây dựng hạnh phúc. Nếu thiếu tình thương chân chính, một mình
tình yêu chỉ là hiện thân của cảm xúc, tính dục và vị kỷ. Thời đại hôm nay vợ
chồng dễ ly dị, dễ ngoại tình, dễ hành hạ nhau bởi vì tình yêu của họ thiếu
tình thương vị tha chân chính. Rồi sự ngoại tình, ly dị làm khổ con cái, hành
hạ làm khổ nhau sẽ gây thành nghiệp nhân không tốt cho đời sau. Chiếm vợ người
dễ bị người chiếm vợ lại. Hành hạ vợ mình sẽ bị đọa làm người nữ để bị hành hạ
trở lại. Ly dị, bỏ rơi con cái sẽ trở thành mồ côi ở đời sau.
Có lẽ Schopenhower đã có lý khi nói rằng: “Chỉ có những triết gia chân
chính mới sống hạnh phúc trong cuộc sống hôn nhân, nhưng tiếc thay, nếu là
triết gia chân chính, họ sẽ không bao giờ lập gia đình.”
Ngay trong gia đình chúng ta cũng thấy tình thương của cha mẹ với con cái
cũng không được đồng đều. Có người con được cha mẹ ưu tiên thương yêu nhiều. Bên
cạnh đó là người con bị lơ là ít chú ý. Tất cả đều do ân nghĩa trong quá khứ
nhiều hay ít mà thôi. Cha mẹ mang nặng ân nghĩa với người con nào sẽ thương mến
người con đó nhiều hơn.
Cũng có trường hợp trong gia đình một đứa con bị ghét thậm tệ, bị đánh đập
mắng nhiếc thường xuyên, mặc dù nó là đứa con ruột. Đây chỉ là sự trả thù trở
lại. Kiếp trước, khi từng là cha mẹ, nó đã đối xử tàn tệ với con cái của mình.
Kiếp này duyên nghiệp đưa đẩy nó rơi vào gia đình có bậc cha mẹ thô lỗ, cộc
cằn, hung bạo để nó phải chịu đựng trở lại nỗi khổ mà nó đã gây ra cho người
khác. Đi tìm sự bình đẳng đồng đều trong cuộc đời này là việc làm không tưởng
bởi vì nghiệp duyên của mọi người không đồng nhau. Kẻ phước nhiều, người phước
ít, tất cả đều sai biệt. Người có phước luôn luôn thu hút sự chú ý thương mến
của mọi người, trong khi kẻ thiếu phước ít khi nhận được cái nhìn nồng nàn của
mọi người, huống nữa là nhận được sự đối xử ưu ái. Ngay cả một số tu sĩ cũng bị
phê phán là đã vồn vã với kẻ giàu và thờ ơ với kẻ nghèo. Họ vẫn khó giữ được sự
đối xử bình đẳng với tất cả mọi người tìm đến nguồn an ủi nơi tín ngưỡng chỉ
bởi vì phước của tín đồ đã sai biệt nhau quá nhiều. Chỉ có những tu sĩ đạt được
một đạo lực thâm sâu, đủ sức vượt lên trên nghiệp sai biệt của mọi người mới có
thể đối xử bình đẳng với tất cả mọi người. Họ sẽ không thờ ơ với kẻ này và ân
cần với kẻ kia. Tất cả đều được thương mến như nhau. Như vậy, bình đẳng là một
“thái độ đạo đức” tự giác của mỗi người chứ không phải là một cơ chế san bằng
quyền lợi. Sự san bằng quyền lợi không phải là bình đẳng. Chúng ta cần phân
biệt kỹ về ý nghĩa của hai phạm trù này.
Chúng ta kêu gọi một xã hội bình đẳng có nghĩa là chúng ta kêu gọi con
người phát huy được đạo đức cao độ để có thể đối xử ưu ái với kẻ có phước cũng
như người thiếu phước, chứ không phải bình đẳng là san bằng quyền lợi của mọi
người như nhau. Vì sao, vì kẻ đóng góp được nhiều công sức hiệu quả cho xã hội
bắt buộc phải được hưởng quyền lợi nhiều hơn. Sự san bằng quyền lợi là sự bất
công, làm giảm mất sự hứng thú lao động của mọi người và kéo xã hội về sự thoái
bộ. Không ai chấp nhận kẻ lười biếng, kém tài năng được hưởng quyền lợi ngang
với kẻ siêng năng giỏi giắn. Còn bình đẳng là “đạo đức trong giao tiếp” nó giúp
cho chúng ta lịch sự, lễ độ, tôn trọng với tất cả mọi người.
Tuy nhiên, để thực hiện được điều này, đòi hỏi chúng ta phải đạt được chiều
sâu thiền định, tâm được thanh tịnh để thoát khỏi sự cuốn hút bởi phước nghiệp
sai biệt của mọi người. Người có phước sẽ cuốn hút chúng ta nhiều hơn kẻ thiếu
phước. Chúng ta phải đủ đạo lực để thoát khỏi sự thu hút bí ẩn này, để giữ được
tình thương bình đẳng với tất cả mọi người.
Tình cảm cũng có khuynh hướng lập lại. Với những người đã từng thương mến
nhau từ kiếp trước, kiếp này gặp lại, tình thương mến dễ dàng phát sinh. Đôi
khi hai người đã từng là vợ chồng. Kiếp này duyên nợ làm vợ chồng đã hết, nhưng
khi gặp nhau, họ vẫn khởi lên một tình cảm nồng nàn khó diễn tả mặc dù vẫn phải
xa nhau.
Tương tự như vậy đối với tình anh em, bạn bè, cha con và thầy trò. Có tu sĩ
cảm thấy quí mến một vài tín đồ và muốn họ trở thành đệ tử xuất gia với mình.
Nhưng duyên thầy trò là duyên nhiều đời không thể gượng ép. Không có duyên sâu
dày với nhau, người đệ tử này cũng sẽ bỏ tìm thầy khác. Hiểu được điều này, một
vị thầy luôn luôn bình thản trước các kẻ đến xin học đạo, vì trong số đó, không
phải ai cũng là kẻ có duyên làm đệ tử gắn bó suốt đời.
Tóm lại tình cảm là kết quả của nghiệp duyên quá khứ, là hệ quả của những
tâm lý ích kỷ thầm kín bên trong. Điều chúng ta cần phải nhắm đến là loại tình
thương đại bi trùm phủ tất cả mọi người. Tình thương đó không xuất phát từ bản
năng vị kỷ và vượt khỏi duyên hệ lụy của nhiều đời. Nếu nhiều người trên cuộc
đời này có thể trừ diệt bớt bản năng vị kỷ của mình, họ sẽ là những người góp
phần tạo nên một khuôn mẫu tốt đẹp cho cộng đồng thế giới, đó là sự đoàn kết.
Do bản năng vị kỷ, con người có tính tỵ hiềm, chia rẽ, hơn thua, luôn luôn
đi tìm sự độc tôn cho mình và đè bẹp kẻ khác. Người ta hơn thua với nhau trong
từng lời nói. Các giáo phái không tiếc lời chỉ trích lẫn nhau. Các thế lực
chính trị dùng mọi thủ đoạn để tiêu diệt lẫn nhau. Ngay trong cùng một mái nhà,
anh em cũng tranh giành, trong một hội đoàn, hội viên cũng ganh tị. Ai cũng
muốn mình hơn hẳn mọi người về tài sản, địa vị và danh tiếng.
Thế giới này là bức tranh đậm nét của sự chia rẽ. Các tập đoàn kinh tế
triệt hạ lẫn nhau. Các bang chủng ly khai với nhau. Có khi vì vấn đề ngôn ngữ
bất đồng, một vài tỉnh cũng đòi ly khai khỏi cộng đồng quốc gia. Nước nào cũng
muốn cho ngôn ngữ của nước mình trở thành ngôn ngữ thế giới.
(…) Có một vài người mắc loại bệnh tâm lý kỳ lạ là thích ly gián. Thấy
những kẻ khác thân ái với nhau, họ bèn tìm cách châm ra chọc vào để gây sự nghi
kỵ, chia rẽ. Dường như bệnh tâm lý này phát sinh từ một uẩn khúc sâu kín trong
vô thức là mặc cảm cô độc. Họ bị cô độc, bị bỏ quên và không muốn ai hợp đoàn
vui vẻ. Nhưng càng gây nhân như thế, họ sẽ càng bị đơn độc, lẻ loi, đau khổ
nhiều hơn nữa.
Thế giới đã trở nên nhỏ bé. Sự tương quan giữa cộng đồng nhân loại càng lúc
càng chặt chẽ. Con người cần đoàn kết, cần chấm dứt sự chia rẽ. Quả báo lành
lớn lao sẽ chờ đợi những ai đóng góp được cho tình đoàn kết.
*.
Thượng tọa THÍCH CHÂN QUANG
Địa chỉ: Chùa Phật Quang, Núi Dinh, ấp Chu Hải,
xã Tân Hải, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Lời dẫn: Video này do một đọc giả gửi
đến trang nhà với lời đề nghị đăng lên để bạn đọc hiểu rõ “bộ mặt thật của tên thầy chùa phản quốc.”
Chúng tôi post lên để bạn đọc
cùng tham khảo.
Mời nghe nhạc phẩm TIẾNG SÚNG ĐÃ VANG TRÊN BẦU TRỜI BIÊN GIỚI
của Phạm
Tuyên, do tốp ca Đài Tiếng Nói Việt Nam thể hiện:
...................................................................................................................
- Cập
nhật từ email: anhdungdao131@yahoo.com.vn gửi ngày 21.08.2015
- Bài
viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui
lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
Anh Đặng Xuân Xuyến cho đăng kèm video thích chân quang tuyên truyền phản Quốc là rất cần thiết. Những kẻ phản Quốc như tên thầy chùa thích chân quang cần được vạch trần bộ mặt thật của chúng với các Phật tử chân chính!
Trả lờiXóa