(Cổng Ngọ Môn, Huế, năm 1920 - Nguồn ảnh: internet)
|
BUỒN VUI LẪN LỘN
GIỮA ĐỜI VONG QUỐC
Bài viết dựa vào truyền thuyết dân gian
Hoa, Việt và hư cấu thêm
Xin xem chỉ để giải trí, không làm tài
liệu tham khảo.
(Tác giả Thái Quốc Mưu) |
Thời Chiến Quốc kết thúc, Tây Hán ra đời. Khi ấy
nước Mân Việt nằm bên ngoài lãnh thổ phía trên vùng Đông Bắc của nước Nam Việt
(hiện nay là tỉnh Phúc Kiến, ở Nam Trung Quốc). Dân tộc Vương Quốc Mân Việt vốn
giống Bách Việt còn tồn tại đến trước Công Nguyên (CN) 110 năm. Theo các bộ
chánh sử Trung Hoa, người sáng lập ra Vương quốc Mân Việt vốn là hoàng thân của
một hoàng tộc dòng Bách Việt, sau khi Bách Việt bị hai nước Tề, Sở xâm chiếm,
bèn chạy trốn sang vùng đất Mân của Nhà Hán trước CN 334 năm.
Trước CN 112 năm, các vua Hán, nổ lực lấy đất Mân
Việt, nhưng vì địa thế hiểm trở, núi cao, ngõ hẹp, quân Hán không thể chiếm cứ
hết cả nước.
Trong Sử Ký Tư Mã Thiên chép, (trích): “Cháu 7 đời của Vô Cường (vua cuối cùng nước Việt thời Xuân Thu Chiến
Quốc) là Vô Chư có công chống Tần, được Hán Cao Tổ Lưu Bang cho phép phục
quốc và phong Vô Chư làm Mân Việt Vương” (ngưng trích).
Trước CN từ 183 đến 135 năm, Vũ Đế Triệu Đà, vua
nước Nam Việt, đánh chiếm nước Mân Việt, rồi sát nhập vào nước Nam Việt.
Trước CN 110 năm, quân Hán tiến chiếm và cai trị
nước Nam Việt. Nước Nam Việt cáo chung.
Do chiến tranh xảy ra triền miên, các sắc tộc vốn
chung nguồn, gồm, Bách Việt, Mân Việt và Nam Việt từ nước nầy chạy sang nước
kia, cuối cùng định cư, trà trộn, chung sống với nhau bên dòng Chiết Giang của
đất Hán
Qua nhiều thế hệ, họ kết hợp thành một ngôn ngữ
chung, trong đó, Bách Việt dân số đông nhất, vì vậy, ngôn ngữ Bách Việt tự động
được chọn làm ngôn ngữ chính thức. Bởi, trên thực tế, 3 ngôn ngữ của các sắc
tộc Việt - ngoại trừ một ít phương ngữ dị biệt - đa số tiếng nói đều đơn âm, na
ná như nhau, nên việc hoà nhập không mấy khó khăn.
Tuy nhiên, cho đến bây giờ - 2016. Các sắc tộc
cấu tạo thành giống nòi Việt Nam ngày nay, vẫn còn nhiều phương ngữ cá biệt, mà
người ở nơi nầy nói, người ở nơi kia không thể hiểu được.
Người miền Tây Nam Việt, vốn hiền lành, chất
phát,… khi nghe những binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa, ở miệt ngoài nói chuyện, họ
thường hỏi nhỏ nhau, “Người nước nào vậy?”
Về phương ngữ, người viết (TQMưu), tự tìm hiểu,
biết có rất nhiều phương ngữ khác nhau, nhưng không rõ, những phương ngữ đang
tồn tại đó, có bao nhiêu thứ tiếng (hay câu) và ở những địa phương nào? Chỉ có
thể chứng minh một ít. Xin đưa ra làm thí dụ:
- Một cặp nam, nữ chánh thức sống chung, ăn ở với
nhau dài lâu, được hoặc không được pháp luận thừa nhận… Trong Nam , người phụ
nữ đó gọi người đàn ông kia, bằng “CHỒNG”; người Quảng Trị - không biết tất cả
hay tùy theo địa phương - gọi bằng “GIÔN”. (“Giôn O mô rồi?” = Chồng cô đâu
rồi?)
- Hai đấng sanh thành, trong Nam gọi, “CHA MÁ”,
“BA MÁ”, “CHA MẸ”, hoặc còn gọi người Cha của mình bằng “TÍA”. Miền Bắc gọi “BỐ
MẸ”, “THẦY MẸ”,… Chữ, tiếng “TÍA” trong Nam rất xa lạ với hai miền Trung,
Bắc nước ta.
- Những vật dụng hình ống, ngắn, có đáy, trong Nam gọi là
“HỘP”, nếu tôi không lầm một vài nơi ở Trung Việt gọi bằng “CỐNG”.
- Cây roi để, dạy răn trẻ, miền Nam gọi là
“ROI”. Có lần với Tư cách Trưởng Đoàn, tôi dẫn đoàn Thanh Tra Tỉnh Long Khánh,
đến thanh tra dự án xây cất Bệnh Xá, ở Ấp Lê Lợi (Xứ đạo Hưng Bình), thuộc Gia
Kiệm, nghe một bà cụ người Quảng Trị, la rầy đứa cháu: “Mi coi chừng ta lấy
“cây CỘT” đập mi chết bây chừ!”
Đại khái như vậy, nhưng nguyên văn toàn câu có
thể tôi lập lại không chính xác. Chỉ có danh từ “cây CỘT” là “sao y bản chánh”
lời của bà cụ ấy.
- Người miền Trung - tôi không biết tất cả, hay
tùy địa phương - gọi các cụ bà bằng “MỤ”, “MỆ”, trong trường nào đó đôi khi
cũng có gọi các ông bằng “MỆ”. Trong Nam gọi các cụ giới nữ, bằng “BÀ”, giới
nam bằng “ÔNG”.
- Người miền Bắc nói, ‘ÔNG ẤY”, “BÀ ẤY”, “CÔ ẤY”
để chỉ đại từ ngôi ba. Trong Nam, “chơi gọn ơ” bằng “ỔNG”, “BẢ”, “CỔ”.
- Người miền Trung có tiếng “NẪU”, tới bây giờ,
tôi mới biết (không chắc chắn) nghĩa là “Họ” để chỉ đám đông người.
- Trẻ nhỏ, “dân rau muống” gọi, “THẰNG CU”, “CÁI
ĐĨ”. Dân “giá sống” gọi, “CON TRAI”, “CON GÁI”.
***
Về huyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên, trích trong
Bách Khoa Toàn Thư, thì:
“Con Rồng
cháu Tiên là một huyền thoại về nguồn gốc dân tộc Việt Nam . Con Rồng cháu
Tiên là tên xưng hô đầy tính tự hào của tất cả dân tộc Việt Nam xuất phát
từ quan niệm của họ về xuất thân liên quan đến truyền thuyết Con Rồng cháu
Tiên.
Trong cách gọi này, Rồng chỉ Lạc Long Quân và
Tiên chỉ Âu Cơ. Người Việt Nam tự gọi mình là Con Rồng cháu Tiên, tức là nhận
mình là dòng dõi của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Đây là tên gọi thường dùng trong
văn thơ Việt Nam với hàm ý kêu gọi sự đoàn kết giữa các dân tộc trên đất nước
Việt Nam. Ngoài ra, dân tộc Việt Nam cũng gọi nhau là đồng bào với
nghĩa tương tự.
Huyền thoại Con Rồng cháu Tiên nói rằng: “Vua Lạc Long Quân thuộc dòng dõi Rồng lấy Âu
Cơ sinh ra một bọc có trăm trứng nở ra 100 con trai, gái. Sau này, 50 người
theo mẹ lên núi, 50 người theo cha xuống biển, vì mẹ là giống Tiên, và cha là
giống Rồng. Tiên được hiểu là người sống trên núi, hiền từ thanh thoát, sống
mãi không chết. Còn rồng, được coi là chủ tể của biển cả, làm mưa làm gió,
thiên biến vạn hóa, tài phép khôn lường…” (ngưng trích).
Từ 100 anh em cùng máu mủ, ruột thịt, tổ tiên ta
thi nhau “làm ăn”, qua “bốn ngàn năm văn hiến” đến nay có cả 100 triệu người.
Khiếp thật! Đây là nguồn gốc một dân tộc, mà tôi, Thái Quốc Mưu, nghĩ kỹ rất lạ
lùng và xót xa buồn… Vì:
Nguyên nhân thứ nhất:
Cha tộc Việt là Lạc Long Quân, lấy Mẹ tộc Việt là
Âu Cơ, sinh ra một bọc có 100 trứng, nở ra trăm con. Khi lớn lên, muốn sinh
tồn, đám trẻ kia là anh em ruột, khi “làm người lớn” chúng lấy nhau, để sản
sinh thêm, hầu duy trì dòng giống. Thật đúng là một huyền thuyết quái thai,
quái đản!
Ngay từ đầu, 100 người nam nữ đó trở thành giống
người loạn luân nhất thế giới. Bởi, tất cả mọi người trong tộc Việt đều lấy
nhau, bất chấp tình anh em cùng máu mủ, bất chấp cùng huyết thống. Vô tình, ai
đó, trong chúng ta, nghênh nghênh cái mặt, đem cái nguồn gốc quái đản đó ra
tung hô, khoe khoang với bạn bè năm châu bốn biển trên thế giới, họ sẽ chào
thua, và mới biết ở vùng Đông Nam Á có một quốc gia xây dựng lịch sử dân tộc
của họ, là một dân tộc “làm chuyện sinh đẻ nối giòng” chẳng giống ai hết.
Nguyên nhân thứ 2:
Khi sinh ra trăm con không để cùng chung sống bên
nhau, phòng khi khó nghèo, bệnh hoạn có nhau, đùm bọc nhau mà lại chia rẻ nhau
thành hai phe, phái. Trách gì, đám cháu con của tổ tiên ngày trước, noi theo
“tinh thần chia rẽ”, biến mỗi người là một ông “vua”, khiến cho những kẻ ngu
dốt, đần độn luôn lộng ngôn.
Những kẻ ấy thà ôm trong đầu cái “quả núi ngu”
đến chết, chứ chẳng chịu bỏ ra sửa sai, học hỏi. Nuôi hận thù, vu khống với
những ai dám nói thẳng, nói thật. Để chúng “độc chiếm cái ngu” và chúng bảo vệ,
giữ nó suốt đời, để làm “tài sản ngu” hầu “truyền cái NGU” cho cháu con của
chúng ở đời sau.
Dân tộc Việt Nam là một dân tộc chống ngoại xâm
đến giọt máu cuối cùng, nhưng, do bản chất thấp hèn, kiến thức yếu kém, vị kỷ,
không cầu tiến, chỉ biết nhắm vào cái bã danh, hoặc lợi lộc cá nhân, phe phái…
nên không ít lũ ngu si đần độn, dốt nát, tham quyền, cố vị, bán non sông đất
nước… Cụ thể như Hoàng Cao Khải, Lê Chiêu Thống,...
Ngoài ra còn hạng người khi có chút danh vị - dù
lớn hay nhỏ. Có tầm vóc Quốc Gia, hay nhỏ nhoi như thôn ấp, thì, tự coi “Ta
đây” là chúa tể một cõi, muốn làm gì thì làm, muốn thay đổi thứ gì thì cứ đổi
thay,… Bất chấp đúng, sai, thường dựa vào danh xưng, tổ chức hay quyền thế… làm
điều phi nguyên tắc. Coi quần chúng, chỉ là con số KHÔNG to lớn!
Do luôn chia bè, kết đảng, đời đời dân Việt không
bao giờ đoàn kết. Giả thử, có đoàn kết cũng chỉ “đoàn kết bằng miệng mồm”, hoặc
trong sự kềm kẹp bởi gông cùm, súng đạn, do bè lũ, thế lực, bạo quyền, bạo lực
cưỡng ép, bắt buộc…
Cho nên, khi các bộ tộc Việt kết hợp lại, sống
bên dòng Chiết Giang luôn xảy ra những việc dở khóc dở cười, nếu không ở đầu
trên thì xảy ra ở xóm dưới.
Chiết Giang nằm bên ven biển phía đông Trung Hoa,
là tên cũ của sông Tiền Đường, nơi mà Thúy Kiều của Thi hào Nguyễn Du có lần
trầm mình tự tử.
Chiết Giang, hướng Bắc giáp với thành phố Giang
Tô và Thượng Hải; phía Tây giáp với An Huy và Giang Tây; phía Nam giáp tỉnh
Phúc Kiến và biển Đông Nam Châu Á. Khi chuyển âm qua tiếng Việt, chữ CHIẾT
trong CHIẾT Giang thường bị viết, hoặc nói sai: “TRIẾT Giang”.
Nước Nam Việt thời đó, nằm về phía Bắc Chiết
Giang, lấy Cối Kê làm kinh đô. Lúc ấy Việt Vương Câu Tiễn đưa nước Nam Việt từ
thịnh vượng đến đỉnh cinh quang tột cùng!
Khi còn 473 năm đến CN, Việt Vương Câu Tiễn xua
quân đánh bại nước Ngô ở phương Bắc. Còn 333 đến CN, nước Việt bị nước Sở ở
phía tây đánh bại. Trước CN 221 năm, Tần Thủy Hoàng dẹp tan các 6 nước chư hầu,
thống nhất Trung Hoa, thành lập đế chế Nhà Tần.
Phía Nam dòng Chiết Giang, phát ra 7 nhánh sông
lớn khác, gồm: Sông Âu, Linh, Dũng, Ngao, Phi Vân, Tào Nga và sông Phổ Dương.
Có 7 cửa, trực tiếp đổ ra biển Biển Đông Nam Châu Á, và được gọi là “Chiết Giang thất đại thủy hệ”. Dịch: “Bảy con sông lớn chung nguồn (hay thuộc hệ)
Chiết Giang”
Khi ấy, 3 bộ tộc Việt (Mân Việt, Bách Việt, Nam
Việt) vẫn còn sinh sôi, nẩy nở bên dòng Chiết Giang. Ba bộ tộc ấy, tuy có chung
danh xưng cùng tộc Việt, nhưng bản chất riêng của mỗi sắc tộc dẫn còn. Và, tộc
Việt bên dòng Chiết Giang chỉ thống nhất trên danh nghĩa, còn tình đoàn kết chẳng
khác chi thác đổ, sóng gào. Bởi thế, sự bất hòa luôn ngấm ngầm âm ỉ như than đỏ
ủ trong lò. Từ đó, trong dân gian truyền tụng nhiều chuyện buồn vui.
Bảy nhánh sông lớn xuất phát từ Chiết Giang, là
nguồn cội của nhiều nhánh sông nhỏ mở rộng chảy dọc, xuyên ngang khắp vùng bình
nguyên tỉnh Chiết Giang.
Đặc biệt, dưới chân Nhạn Đãng Sơn có một con suối
toàn là cát trắng, dòng chảy xuôi Nam . Người địa phương gọi phần
thượng nguồn con suối ấy là Sa Tuyền (suối cát). Phía hạ nguồn là đồng bằng,
càng xa thượng nguồn, càng xuôi Nam, dòng suối tràn về đồng bằng, càng sâu,
càng nở rộng ra, dòng Sa Giang chào đời.
Một hôm, sau một đêm mưa to tầm tã, bên tả ngạn
Sa Tuyền, phần gối đầu với Sa Giang bị sạt lỡ hàng mấy dặm dài, sâu vô bờ hàng
chục trượng. Từ chỗ sạt lở ấy, vô số thùng ngân lượng lớn nhỏ nhô lên khỏi mặt
đất. Số khác bể, bung, tràn ra, lờ đờ trôi theo dòng nước.
Những người đi câu, lưới cá,… kinh hoàng, nhưng
vô cùng mừng rỡ, họ thi nhau chèo thuyền, hoặc bơi theo dòng chảy vớt được rất
nhiều ngân lượng, không sao kể xiết! Sự việc nhanh chóng lan truyền đến cư dân
sống bên dòng Chiết Giang. Cả thôn trên, xóm dưới ùn ùn đua nhau chạy ra tranh
giành hỗn loạn… Nhờ dòng Sa Giang “bên lở, bên bồi” đem của “trời cho” đến từng
nhà, các tộc Việt trở nên giàu có phi thường.
Những người mất nước lưu vong nơi đất lạ, nhiều
kẻ trước kia nghèo xơ xác mướp, khốn khó cùng cực, bây giờ có của dư ăn, dư để.
Họ bắt đầu đổi thay cách sống và thay đổi cả cử chỉ, cách ăn, cách nói,… cho
thích hợp với cuộc sống của những kẻ vừa mới nhú lên, đồng thời những kẻ ấy,
không quên cố tạo dáng vẻ bên ngoài để mọi người nhìn vào “ta thì biết” ở cố
hương, “dòng tộc ta thuộc hàng giàu sang phú quý.” Còn “ta” là người xuất thân
từ giới thượng lưu. Rất “Oách!”
Những bản “TỰ
CA ” làm rung chuyển địa cầu,
những tiếng “NỔ” vô tội vạ, khiến dòng Chiết Giang sóng cuồng gào thét!
Các thôn xóm của 3 tộc Việt sống bên dòng Chiết
Giang lắm kẻ biến thành “nửa người, nửa ngợm, nửa đười ươi”,… Những quái thai
thời đại thường có cử chỉ, kiểu cách, ngôn ngữ học đòi, chắt lọc, nửa quê mùa,
nửa chợ búa,… làm cho mọi người nhìn vào, trông nó ngô nghê, ngớ ngẩn, thô kệch
khiến ai trông thấy đều phải vội chạy tìm... gốc cây…
Phong cách sống, ăn, ở của con người đổi thay
theo mức sống thay đổi. Chỉ có thượng nguồn dòng Sa Giang là con suối Sa Tuyền
còn được giữ chính danh “Suối Cát”, nhưng, dòng Sa Giang, bị thay họ đổi tên thành Sa Ngân Giang.
Không ít kẻ lấy tên dòng suối, con sông làm tộc
HỌ cho mình, họ bỏ hẳn dòng tộc chính của cội rể không hề nuối tiếc. Cũng từ
đó, sản sinh ra những cái tên người rất mới lạ, ngày càng tăng cao.
Những quái thai thời đại xuất hiện nghênh ngang
trên đường phố, trong những buổi nắng trưa. Giờ đây, nó “cùng tiến lên” xông
thẳng vào nhà hàng nơi sự quyến rũ bởi thức ăn từ các bữa tiệc tùng trong đêm,
hoặc, chạy thẳng vào restroom… ngửi cho đã… cái đời ngơ ngơ ngáo ngáo mới thay
da lột xác. Tóm lại, bọn “cơ hội chủ nghĩa” vung tiền để “minh” chứng vị thế
đổi đời. Nhưng, những, cái vỏ bọc không đủ sức làm nên trí óc, con người của bậc
trí giả, trông chúng ngốc nga ngốc nghếch trong tiếng cười, giọng nói.
Cốt cách quê mùa của bọn trọc phú, góp phần không
nhỏ cho những trận cười, trong những bữa nhậu của giới “sông hồ bốn phương”.
Trong cái bát nháo tên tuổi thời trang, có một kẻ
chơi trội, hắn ta ôm trọn tên con Suối Cát làm họ tên. Từ đó, nếu ai không gọi
lão ta bằng Sa Tuyền, thì cái bản mặt của lão ta sẽ sưng to và lửa từ ánh mắt
của lão già ấy bừng lên dữ dội. Cuối cùng… sẽ bị lão ta phản đối, yêu cầu chỉnh
sửa, phải gọi bằng tên mới của hắn “Sa Tuyền!” Chẳng những thế, hắn còn gằn
giọng, “Phải nhớ tôi là Sa Tuyền! Sa Tuyền!”
Lão Sa Tuyền vốn tộc Nam Việt, thời tráng niên
làm lộ binh của Quân Đoằn II của Việt
Vương Câu Tiễn. Khi hai nước Tề, Sở xua binh tràn qua Nam Việt, khí thế như
cuồng phong, bão táp, nhanh chóng đánh bại Việt Vương Câu Tiễn. Chàng lộ binh
Sa Tuyền bị quân Sở bắt làm tù binh, giải về Sở. Lần lượt bị tống vào các thiên
lao ở giữa rừng núi bạt ngàn phía Bắc Sở quốc.
Sống trong các thiên lao, lão Sa Tuyền mau chóng
đánh mất chí khí của người chiến binh tộc Nam Việt. Hắn sớm thành kẻ phản bội
đồng đội, người cùng cảnh khôn cùng… Hắn nhiệt tâm làm tay sai cho bọn Sở, từng
cáo gian, nhiễu hại nhiều người cùng cảnh ngục tù, với ý đồ, may ra tìm được
chút xương heo, xương cá từ quân Sở ăn rồi ném ra…
Trong những người tù lương thiện bị Sa Tuyền tố
gian, bị Biệt Giam, bị Gông Cùm có một quan Ngự Y tên Hoa Tiên Sử, vốn là Ngự Y
riêng của Câu Tiễn, vị vua Nam Việt. “Hoa Tiên là họ kép, xuất phát từ thời
Đông Chu. Vị Tổ của dòng tộc Hoa Tiên là một danh y có khả năng “cứu tử, hoàn
sanh”, trước nay chưa từng có. Ông được người đời quý trọng, tặng danh hiệu là
Hoa Tiên Thần Y. Thậm chí có những kẻ vì quá tôn sùng, đã “bốc” Hoa Tiên Thần Y
thành Hoa Tiên Chân Nhân.
Đa số con cháu của tộc họ nầy, đều hành nghề
lương y. Theo tuyền thuyết dân gian, di chúc của Hoa Tiên Thần Y, thì tất cả
con cháu đời sau, người nào nối nghiệp cha ông, bất cứ họ tên gì (bởi còn tộc
họ Ngoại nữa), bắt buộc phải dùng một tên duy nhất là HOA TIÊN SỬ, còn kẻ nào
không hành nghề y, tuyệt đối không được lấy Hoa Tiên Sử làm họ tên. Cho nên,
sau nầy, khi nghe tên Hoa Tiên Sử mọi người đều biết đó là một Tiến Sĩ (Bác Sĩ)
của dòng tộc Hoa Tiên (Dân Tàu trước nay gọi Bác Sĩ bằng Tiến Sĩ. Còn học vị
Tiến Sĩ họ gọi bằng Bác Sĩ).
(Nếu tôi - TQMưu, nhớ không
lầm, vị làm Bác sĩ riêng của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, tên Hoa Tiên Sử.
Trước khi, được gọi về làm Bác sĩ riêng cho Tổng Thống, Bác sĩ Hoa Tiên Sử từng
làm Trưởng Ty Y Tế ở một số tỉnh của Việt Nam Cộng Hòa).
Theo lời kể của một vị vốn là đồng nghiệp với Bác
sĩ Hoa Tiên Sử, thì: “Sau khi bị “điều”
đến trại tù Đại Lãnh chúng tôi bị giam chung trong BIỆT KHU”. Vị Bác sĩ ấy
kể thêm chuyện trong tù, “Tù nhân trong
Biệt Khu như chúng tôi, vẫn được đi lao động, sinh hoạt bình thường với tù cùng
khu, nhưng sau khi lao động về thì chỉ quanh quẩn trong Biệt Khu, không được ra
ngoài quan hệ với các tù nhân ở ngoài Biệt Khu.
Mỗi tối, cửa ra vào
của Biệt Khu bị đóng và khóa lại…”
Còn Hoa Quốc Phong, một thời làm chủ tịch đảng
cộng sản Trung Quốc, không có tí xíu gì liên hệ huyết thống với Hoa Tiên Thần
Y.
Họ Hoa xuất thân từ thế giới mạt rệp, thân phận
thấp kém, 15 tuổi đã phải vào Quân Đội Cộng Sản Tàu đánh Nhật hầu được no lòng;
làm đảng viên đảng cộng sản Tàu từ năm mới 17 tuổi. Trong quân ngũ ông nghe
nhiều người kể, nên biết HOA TIÊN là dòng đại quý tộc, chẳng những nổi tiếng về
sự giàu có, mà còn nổi tiếng về lòng nhân từ, bác ái,… Còn tài năng thì tỏa
sáng khắp Trung Quốc.
Do nghe vậy, với lòng ái mộ dòng tộc họ nầy, khi
vào đảng cộng sản Tàu y bèn lấy bí danh HOA TIÊN PHONG, nhưng bị tộc họ Hoa
Tiên trong quân đội kháng Nhật cực lực phản đối, ông ta bèn đổi bí danh thành
HOA QUỐC PHONG, để hưởng xái tiếng tăm của chữ HOA từ tộc họ Hoa Tiên.
Năm 1940, mới 19 tuổi đã trở thành người phụ
trách Uỷ ban tuyên truyền cấp tỉnh của Đảng Cộng Sản Trung Quốc. Và, được một
nho sinh mách nước và khuyên hắn ta nên giải thích bí danh của y như dưới đây,
để “hội nhập tốt” hơn trong “sự nghiệp cách mạng” của hắn.
Nho sinh đó, khuyên Hoa Quốc Phong, nên lấy câu,
“Trung HOA kháng Nhật cứu QUỐC tiền PHONG hội".
Những chữ viết Hoa, tô Đậm trong câu trên là Hoa
Quốc Phong, bí danh của tên bần cố nông TÔ CHÚ. (Nghe tên với hai chữ Tô
Chú, ta có thể biết cha mẹ của Hoa Quốc Phong, đúng là kẻ bần cố nông chánh
hiệu con nai vàng)
Nhân đây, xin kể chuyện bên lề của giới “khoa
bảng” lãnh đạo chóp bu Trung Quốc.
Ngày 3/9/2017, tại hội nghị thượng đỉnh các lãnh
đạo khối G20. tại Hàng Châu, Chủ Tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đọc sai chữ trích
từ câu cổ ngữ “Khinh quan dịch đạo,
thông thương khoan nông” khi y nói về nền kinh tế toàn cầu, khiến cả
thế giới choáng váng.
Bốn chữ “Thông thương khoan nông” có nghĩa
“Mở rộng kinh tế và nông nghiệp”
nhưng, chữ “NÔNG” có những nét giống như chữ “Y” (quần áo) nên “Tiến sĩ Luật
Khoa giấy” Tập Cận Bình đọc thành “Thông thương khoan Y”, nghĩa là “mở
rộng kinh tế và cởi bỏ y phục”. Nói nôm na dễ hiểu là họ Tập “ra lệnh” cho
toàn hội nghị “Ở TRUỒNG XẢ LÁNG”. Hi!
Một điều chúng ta thường thấy, hầu như các quan
“i tờ” Trung Quốc, đa số thường “tốt nghiệp” đại học trong ba ngành Luật, Lý
Luận hoặc Triết. Họ Tập là một trong những kẻ ấy.
Trở lại chuyện bên dòng Chiết Giang:
May mắn như “chó ngáp phải ruồi”, nhờ dòng Sa
Giang “bên bồi bên lở” mà lão Sa Tuyền từ tay không trở nên một tên trọc phú.
Hắn bèn đổi cách sống mới, tập tành đi vào đường văn học để cầu danh, và, không
quên tìm mọi cách kết thân với những người có tên tuổi trong các văn đàn, thi
phái, với ý đồ để chứng tỏ cho mọi người thấy, “bạn hữu của “ta” toàn là những
cây đa cây đề trong làng văn học”.
Nhưng, sau khi chào hàng “tác phẩm” đầu tay, y
liền “được” nữ sĩ Zhèng Thao An, cháu, trực hệ, gọi Zhèng Thao Shì, - một tên
cướp khét tiếng ở vùng Chiết Giang, bằng Bác ruột, nhận định rất khắc nghiệt: “những thứ mà lão Sa Tuyền viết, chỉ là thu
nhặt những gì do người khác ói ra, hắn hốt bỏ vào mồm, nhai đi nhai lại, nuốt
vào rồi nhả ra… nên thi thơ của lão nặng mùi bất chánh, vô liêm sỉ”. Trời!
Phát kiến của nữ sĩ Zhèng Thao An, nhanh chóng
lan truyền rộng rãi, khiến sau nầy, đám con cháu hậu duệ của những tay cự phách
trong Kiến An Thập Nhất Tài Danh ôm bụng cười, rồi thở dài ngao ngán.
Hướng Nam dòng Sa Tuyền, có thôn Sa Linh Phù, tại
đây là nơi cư trú của nữ sĩ Zhèng Thao An, nàng là con gái của thôn trưởng Sa
Linh Phù, tên Zhèng Thao Nghi, ông là em thứ Ba của Zhèng Thao Shì,
Zhèng Thao Nghi là người có học, nhưng bản chất
tham lam, được phong làm Tri huyện Linh Châu, do ăn hối hộ bị giáng xuống và
đày đến Sa Linh Phù làm thôn trưởng.
Wang Thao An hình tướng thiếu thước, dư da thịt,
người đẫy đà, ăn nói hoạt bát, hình dáng dễ nhìn nhưng không đẹp. bản chất dâm
đãng và hay làm tiền nhưng bô lão... Nàng cũng biết viết lách nhưng thuộc hệ
phái Tà Bút, nên nội dung trong các tác phẩm của y thị giống như một đứa con
mang nhiều dòng máu khác nhau. Tuy nhiên, y thị rất được giới cầm bút phái nam
ở các vùng lân cận đeo đuổi.
Trong khi, Wang Thao An đã có nhân tình tên Qua
Thôi Lịch gần chục năm dài. Thôi Lịch là người có chân tài, ở khu vực Chiết
Giang, ông ta rất sớm nổi danh trong làng chữ nghĩa. Những câu chuyện tình của
đôi “song ca” Qua-Thôi-Lịch cùng Wang-Thao An được giới bình dân thêu dệt,
truyền nhau chẳng những lan tỏa khắp hai bên bờ suối Sa Tuyền, mà còn vượt
ngoài phạm vị nhỏ hẹp của hai bên bờ Chiết Giang...
“… Một hôm Qua Thôi Lịch cùng Wang Thao An hẹn
hò ở một lữ điếm, nơi mà, hai người từng gặp nhau nhiều lần, nhiều năm. Trong
lữ phòng, Wang Thao An âu yếm rót mật vào tai anh chàng tình nhân họ Qua!
- “… Lợi
dụng phu nhân về thăm quê thăm cội rể ở Giang Nam, lão Sa Tuyền mời thiếp đến
nhà chơi. Do biết nhau khá lâu, thiếp đến! Sau vài tuần trà, lão ta mời thiếp
xuống thư phòng khán sách. Khi thiếp vào, đang đứng ngắm sách. Bất ngờ, Sa
Tuyền quỳ xuống rồi áp sát mặt lão ta vào giữa hai đùi thiếp, mặt lão ta úp vào
“mật khu”, còn hai tay thì vòng phía sau ôm “bàn ngồi” của thiếp ghịt chặt vào,
cho mặt của lão ta tiếp cận sát với “vùng cấm địa”… rồi y cất giọng rên rỉ, tha
thiết, “Xin muội cho huynh được hôn một lần, để nếu một mai có chết, huynh cũng
yên lòng nhắm mắt”
Nghe tới đó, Qua Thôi Lịch không đừng được, liền
ngồi bật dậy, khiến cho Wang Thao An vừa ngạc nhiên, vừa lo lắng… Bỗng chàng
cất tiếng cười ha hả thật to, lâu sau mới nín được, vừa thở vừa nói:
- May cho lão ta, là hôm ấy “vùng cấm địa của
muội, không còn máu nhuộm đỏ rừng”. Nếu lão ta mời muội sớm hơn mấy ngày thì
mặt lão ta thế nào cũng bị “máu bò đỏ mặt”.
Đời ly hương đã buồn, nhưng, khốn nỗi, không ít
kẻ lại đóng góp vào cuộc đời xa xứ bằng những câu chuyện buồn thêm.
*
Atlanta, Ngày Quốc Khánh
Hoa Kỳ năm 2017
THÁI QUỐC MƯU
Địa chỉ:
6395 GlenBrook Dr.
Tucker, GA 30084, USA - Hoa Kỳ.
Email:
danviet1995@aol.com
Điện thoại: 404-747-5025
…………………………………………………………………………
- © Tác giả giữ bản
quyền.
- Cập nhật theo nguyên
bản tác giả gửi qua email ngày 12.07.2017
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
0 comments:
Đăng nhận xét