NGUYỄN HÀNH (1771-1824): MINH QUYÊN THI TẬP - TIẾNG CHIM ĐỖ QUYÊN KÊU BI THƯƠNG - Tác giả: Phạm Trọng Chánh (Pháp)

Leave a Comment
(Hà Nội năm 1890 ; nguồn ảnh: internet)
NGUYỄN HÀNH (1771-1824) 
MINH QUYÊN THI TẬP
TIẾNG CHIM ĐỖ QUYÊN KÊU BI THƯƠNG
*
Nguyễn Hành cùng với chú là thi hào Nguyễn Du, năm người hay thơ nhất nước Nam «An Nam Ngũ Tuyệt». Trong bốn dòng họ thơ văn danh tiếng nước Nam. Họ Nguyễn Tiên Điền có hai người. Họ Nguyễn Trường Lưu có Nguyễn Huy Tự, họ Phan Huy gốc làng Thu Hoạch Hà Tĩnh có Phan Huy Ích. Họ Ngô Thì, Tả Thanh Oai  Hà Đông có Ngô Thì Vị.
(Tác giả Phạm Trọng Chánh)
Nguyễn Hành để lại trên đời Minh Quyên thi tập (VH. 109), và Quan Đông Hải (A 1530, VN 1444, VH 81) bản chép tay lưu trử tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội. Các văn bản được Trường Viễn Đông Bác Cổ từ năm 1901 mướn người  sao chép lại  đều có hai bản, một bản lưu giữ tại Hà Nội và một bản tại EFEO Paris.
Minh Quyên là tiếng kêu đau thương loài chim đỗ quyên, chim cuốc, Nguyễn Hành thấy thi ca mình đồng cảm với tiếng kêu đau thương ấy.
Quan Đông Hải là ngắm Biển Đông. Mỗi con người đứng trước biển đều cảm nhận được sự kỳ vĩ của biển cả, từ đó suy ngẫm về xã hội và bản ngã của mình.
Cả hai tập đều viết bằng chữ Hán, đó là chuyện bình thường trong thời quân chủ thi cử, hành chánh đều dùng chữ Hán. Trong bài viết này tôi  dịch thơ, chuyển ngữ qua ngôn ngữ thi ca ngày nay để người Việt Nam có thể đọc và thưởng thức kiệt tác thi ca của nước ta. Bài viết này tiếp theo bài «Nguyễn Hành nhà thơ tài hoa trong An Nam Ngũ tuyệt», cùng tác giả, đăng trên các site đã dịch một số bài thơ Nguyễn Hành.
Nguyễn Hành sinh ngày rằm tháng 4 năm Tân Mão tại Thăng Long, niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 32 đời vua Lê Hiển Tông tức ngày 28-4-1771. Ông nội cụ Xuân Quận Công Nguyễn Nghiễm đặt tên là Đàm, sau được tập ấm: Hiển cung đại phu phó trung úy Hành Nhạc bá, nên Xuân Quận Công bảo đổi tên là Hành theo tước hiệu. Thường được gọi là Hai Hành, tự là Tử Kính, hiệu Nam Thúc, biệt hiệu là Ngọ Nam, Tâm Trai, Nhật Nam, Nam Song. Chánh quán làng Tiên Điền huyện Nghi Xuân tỉnh Hà Tĩnh. Là con Nguyễn Điều, người anh thứ hai khác mẹ với thi hào Nguyễn Du, con cụ Xuân Quận Công Nguyễn Nghiễm, mẹ là bà kế thất họ Nguyễn người xã Liễu Ngạn, huyện Siêu Loại, Kinh Bắc. Em cùng cha khác mẹ với Nguyễn Thiện, người nhuận sắc Truyện Hoa Tiên của Nguyễn Huy Tự.
Gọi Nguyễn Du bằng chú, nhưng Nguyễn Hành chỉ thua Nguyễn Du 5 tuổi. Nguyễn Du mồ côi cha mẹ từ năm 12, 13 tuổi được anh là Thượng thư Nguyễn Khản (hơn Nguyễn Du 31 tuổi) nuôi dưỡng cùng với các cháu Nguyễn Công, Nguyễn Thiện, Nguyễn Hành.. tại dinh Kim Âu, bên cạnh hồ Kim Âu, (khu Cát Linh, Bích Câu, nhà ga Hà Nội).
Thuở nhỏ Nguyễn Hành sống tại Thăng Long, bài Đồng Xuân ký ông viết:
«Các triều đại định đô ở Thăng Long, lập 36 phố phường, duy chỉ có phường Đồng Xuân là đứng đầu. Thời ấy các danh công, quý thần đều dựng nhà tại đây. Nhớ lại năm xưa đang thời bình thịnh, nhà Hành tôi, một ông, hai cha (ông nội là Nguyễn Nghiễm quan Đại Tư Đồ và bác là Nguyễn Khản, cha là Nguyễn Điều) đều làm việc trong Chính Phủ, chịu nhiều ơn móc triều đình. Các nơi ở Bích Câu trong thành, phủ đệ đối mặt với nhau, xe ngựa võng lọng ngày ngày chầu chực trước cửa, áo gấm, cơm thịt, dưới có tôi tớ hầu hạ. Hành tôi sinh muộn màng, vẫn còn được thấy cảnh đó.»
Năm Nguyễn Hành lên 9 tuổi, thì xảy ra vụ án Canh Tý 1780, Nguyễn Khản thầy dạy thế tử Trịnh Tông bị giam lỏng, suýt bị giết, Nguyễn Khản viết bài trần tình chúa Trịnh Sâm nghĩ tình bạn thân thiết xưa, thương tình tha cho. Thời gian này Nguyễn Du về Hà Tĩnh học với chú Nguyễn Trọng kết bạn cùng Thực Đình..
Gia phả chép về Nguyễn Hành: «Ông rất thông minh, học rộng các sách »
Nguyễn Hành kết bạn thân với Nguyễn Huy Vinh, con Nguyễn Huy Tự (1743-1790) tác giả Truyện Hoa Tiên, Nguyễn Huy Tự con rễ Nguyễn Khản cưới Nguyễn thị Bành (1750-1773) ; Bà Bành mất năm 23 tuổi, ông lại tục huyền với bà Nguyễn Thị Đài (1752-1819) sinh 9 con trai và 4 con gái 3 người văn học có tiếng là Nguyễn Huy Phó, Nguyễn Huy Vinh và Nguyễn Huy Hổ (1783-1841) tác giả Mai Đình Mộng Ký. Do đó Nguyễn Hành đồng vai vế với Nguyễn Huy Tự nhưng nhỏ hơn ông 38 tuổi. Nguyễn Huy Vinh đồng tuổi với Nguyễn Hành nhưng là vai cậu Nguyễn Huy Vinh.
Nguyễn Huy Vinh viết bài tựa cho Quan Đông Hải tập: «Tôi thấy Tử Kính là người thông tuệ, vừa 10 tuổi mà những câu văn viết ra từng làm cho mọi người thảy đều kinh ngạc. Tiên công xem ông là thần đồng»
Năm Kỷ Mão, 1783. Nguyễn Hành 12 tuổi, chúa Trịnh Sâm mất, Trịnh Tông lên nối ngôi, Nguyễn Khản giữ chức Thượng Thư Bộ Lại, hành Tham Tụng ( quyền Thủ Tướng) kiêm trấn thủ Thái Nguyên, Hưng Hóa. Nguyễn Điều làm Trấn Thủ Sơn Tây. Khoa thi Hương năm 1783, Nguyễn Thiện, Nguyễn Nể, Nguyễn Nhưng đỗ Tứ Trường. Nguyễn Du đỗ Tam trường. Khoa thi Hương 3 hay 4 năm một lần tại các trường thi lớn cho nhiều trấn, thí sinh được tuyển chọn sau khi qua kỳ thi sát hạch ở các trấn, thi Hương gồm 4 kỳ: I: Kinh nghĩa. 2: Chiếu, chế, biểu. 3: Thi, phú. 4: Văn sách. Trên hàng ngàn thí sinh chỉ lấy khoảng 30 hay 50 người đỗ tứ trường,  một trăm đỗ tam trường. Người đỗ bốn kỳ được gọi là đỗ  tứ trường (cử nhân) được tiếp tục vào thi Hội, thi Đình, đỗ tam trường (tú tài) phải thi lại.
Năm 1783. Nguyễn Điều làm Trấn thủ Sơn Tây, Nguyễn Hành theo cha. Nguyễn Du, 18 tuổi được anh phong chức Chánh Thủ hiệu quân hùng hậu hiệu đội quân mạnh nhất Thái Nguyên. Quyền Trấn thủ là Nguyễn Đăng Tiến, tước Quản Vũ hầu tức Nguyễn Đại Lang trong Thanh Hiên thi tập, Cai Già trong Hoàng Lê Nhất Thống chí, là thầy dạy võ, cũng là anh kết nghĩa của Nguyễn Du. (Điều này trái với Gia phả cho rằng Nguyễn Du được tập ấm cha nuôi họ Hà. Nguyễn Khản Thượng thư Bộ Lại (Nội Vụ) hành Tham Tụng (kiêm Thủ Tướng) kiêm trấn thủ Hưng Hoá, Thái Nguyên bổ nhiệm các em trấn đóng các nơi làm vây cánh cho mình, Nguyễn Du không cần một tập ấm cha nuôi nào cả. Có lẽ Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền do Nguyễn Y viết lầm lẫn Nguyễn Đăng Tiến là cha nuôi, trong Thanh Hiên thi tập, Nguyễn Du gọi là Nguyễn Đại Lang (anh cả), do Nguyễn Đăng Tiến lớn tuổi hơn cả anh Nguyễn Khản(hơn Nguyễn Du 31 tuổi) còn được gọi là Cai Già (trong Lịch Triều Tạp Kỷ của Ngô Cao Lãng). Đăng Tiến có kết nghĩa sinh tử với Nguyễn Du, cùng bị Vũ Văn Nhậm bắt và cùng được tha trong khởi nghĩa chống Tây Sơn tại Thái Nguyên năm 1787, sau đó họ đi Vân Nam.(Sinh tử giao tình tại, Tồn vong đồng khổ khi .Bài Biệt Nguyễn Đại Lang).
Năm 1784, Nguyễn Khản xử án chém 7 kiêu binh nhân bữa tiệc do vua Lê khoản đãi. Kiêu binh cậy công lập chúa, lập vua từ trong tù ra, nổi loạn phá tan dinh thự Kim Âu, Nguyễn Khản chạy trốn lên Sơn Tây với Nguyễn Điều toan hợp binh các trấn dẹp kiêu binh. Nhưng kiêu binh giữ chặt chúa Trịnh Tông nên không làm gì được. Hồ Sĩ Đống anh họ Hồ Xuân Hương, đang thọ tang cha được gọi về giữ chức hành Tham Tụng cùng Bùi Huy Bích, kiêu binh tạm yên. Nguyễn Điều bị giáng chức làm tri huyện Thanh Chương, Hương Sơn Hà Tĩnh. Nguyễn Khản cũng về Hà Tĩnh.
Nguyễn Hành 15 tuổi theo cha về Thanh Chương.
Năm 1786, vua Quang Trung cùng Nguyễn Hữu Chỉnh  đánh chiếm Phú Xuân, và đem quân ra Bắc diệt Trịnh. Nguyễn Khản từ Hà Tĩnh ra Thăng Long hiến kế giữ Thăng Long «đóng quân theo lối vẩy sộp» nhưng không được nghe theo, ông đi Hưng Hóa mộ quân và bị cảm bệnh mất được đưa về Hà Tĩnh an táng. Nguyễn Điều uất ức trước sự sụp đổ của nhà Trịnh mà mất tại Thanh Chương. (Con cháu chi Nguyễn Điều ở Thanh Chương ngày nay hơn 400 người). Nguyễn Hành viết bài văn bia lăng mộ cha. Nguyễn Hành từ đó 15 tuổi, sống trong cảnh bần hàn, long đong khi về Tiên Điền, Thanh Chương, Trường Lưu, nơi anh rễ là Nguyễn Huy Tự, Phúc Giang thư viện do Thám Hoa Nguyễn Huy Oánh thành lập với hàng vạn quyển sách, là thư viện duy nhất trong lịch sử Việt Nam được triều đình sắc phong, nơi đây  Thám Hoa Nguyễn Huy Oánh là bậc thầy, một nhà giáo danh tiếng trong lịch sử đã đào tạo học trò : 36 vị tiến sĩ và hàng trăm vị cử nhân.
Thư viện họ Nguyễn Tiên Điền bị đốt cháy năm 1791, mười phần chỉ còn lại một hai. Nguyễn Hành nương tựa nơi thư viện Phúc Giang. Nguyễn Huy Vinh viết: «Đêm ngày đọc không ngừng nghỉ, thường mượn sách của tôi, hễ không phải sách thời Tam Đại, Hán Ngụy thì quyết chẳng xem, dụng tâm rất cao minh, nhiều điều sở đắc
Cuộc đời Nguyễn Hành khi ở Thanh Chương, khi ở Tiên Điền, khi ở Thăng Long  sống trong nghèo khó túng quẩn. Ta chỉ biết được đời ông qua những dấu tích thi ca ông viết.
Năm 1788 Nguyễn Nể ra làm quan Tây Sơn, đã dựng lại một phần dinh Kim Âu. Nơi đây thường được vua Quang Trung đến thăm bàn việc nước và những buổi ca nhạc mời những người gảy đàn cung vua Lê cũ đến đàn hát. Nguyễn Hành 17 tuổi  lúc đó vẫn ở Thanh Chương .
Nguyễn Du sau ba năm đi giang hồ Trung Quốc trở về Thăng Long sống với anh Nguyễn Nể dinh Kim Âu, Bích Câu từ mùa xuân 1790 cho đến năm 1794  nhưng thường ở Gác Tía, nhà câu cá , cạnh đài Khán Xuân nơi đây quen biết yêu cô hàng xóm Xuân Hương Hồ Phi Mai  ngụ tại Cổ Nguyệt Đường.
Sau khi vua Quang Trung mất,  Nguyễn Nể được triệu vào Phú Xuân làm quan Đông Các giảng dạy sách Tiểu Học cho vua Cảnh Thịnh lên ngôi năm 1792 mới mười tuổi. Nguyễn Nể giao trách nhiệm cho hai em Nguyễn Du và Nguyễn Ức về Tiên Điền xây dựng lại từ đường, đền thờ, chùa Trường Ninh, cầu Tiên đã bị đốt phá trong khởi nghĩa Nguyễn Quýnh năm 1791. Có lẽ Nguyễn Hành cũng theo  các chú về Tiên Điền, nên  Nguyễn Hành có viết chuyện Nguyễn Du đi săn.
Nguyễn Huy Vinh trong bài tựa Đông Hải Quan viết: «Sau mấy độ đổi đời, văn thơ ông có đến hơn trăm bài, phần nhiều uyên áo hùng hồn,không dễ ai theo kịp. Đến như căn nguyên của thanh khí ấy, thì ngọn nguồn là sự chính đáng của tính tình. Và nghĩa lý, lại chiết trung từ cái học của thánh hiền, nên mênh mang như ngàn khoảng sóng trào mà không lắng, sôi sục mà không đục, làm sao có thể đo lường được».
Thuở ấy vùng Thanh Nghệ có câu truyền tụng: «Nghệ Hai Hành, Thanh Cả Triệu.» Cả Triệu tức Lê Triệu, hiệu Liêm Khê quê xã Hoàng Phong, huyện Hoàng Hóa tác giả Nam Hành tạp vịnh.
Nguyễn Hành còn am tường lý số, thâm ảo về Phật học.
Khi Ngô Thì Nhiệm mở Thiền Viện tại nhà riêng ở Bích Câu  viết Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh vào cuối đời Tây Sơn khoảng 1798. Ngô có gửi biếu Nguyễn Hành một chiếc áo lụa thâm cùng bản thảo: Đại viên giác nhị thập tứ thanh, và giấy bút mực. Ngô đề nghị Nguyễn Hành dùng chữ trong kinh Phật, mỗi thanh làm một bài kệ. Nguyễn Hành từ chối làm kệ nhưng viết một thiên Tiểu Khấu, tóm lược nội dung chính văn và một bài thơ gửi ra. Nguyễn Hành  lấy pháp danh là Hải Điền. Ông còn viết tựa sách: Lan trì kiến văn lục của Vũ Trinh, chồng Nguyễn Thị Diên là chị   cùng cha cùng mẹ với Nguyễn Du.
Mặc dù viết «Hưng phế là chuyện thường», nhưng Nguyễn Hành có lẽ ảnh hưởng bởi cái chết người cha, uất ức vì sự sụp đổ nhà Lê - Trịnh. Nguyễn Hành hoàn toàn không viết gì về ông chú Nguyễn Nể, được vua Quang Trung trọng dụng, làm Hữu Trung Thư lĩnh, ngang hàng với quân sư Trần Văn Kỷ, làm Phó Sứ sang nhà Thanh, làm chức Đông Các kiêm Cơ Mật Viện giảng dạy sách cho vua Quang Toản.  Nguyễn viết tập truyện những tấm gương trung nghĩa, những người chống lại Tây Sơn như: Bùi Bật Trực, Trần Phương Bính, Trần Duy Tự và ông chú Nguyễn Quýnh «những ai chống lại Tây Sơn đều đáng gọi là hào kiệt.» Về Nguyễn Quýnh ông viết:
Đại đạo thành nhân mỗi bất đồng, Lâm nguy khẳng khái  nghĩa duy công. (Giữ đạo thành nhân người mỗi khác. Riêng ông khẳng khái lúc lâm nguy). Nguyễn Quýnh chống Tây Sơn tháng 11 năm 1791, bị Trấn thủ Tây Sơn Lê Văn Dụ bắt, làng Tiên Điền bị làm cỏ, gia trang, từ đường họ Nguyễn  bị đốt sạch, bị giết lúc tròn 30 tuổi. Nguyễn Hành lúc đó 20 tuổi, đang trốn tránh ở biển Hội Thống.
Năm 1802, khi vua Gia Long ra Bắc khi Nguyễn Du từ Quỳnh Hải đến Sơn Nam  dâng  sớ, dâng ngựa, lương thực và thủ hạ được vua phong chức Tri Huyện Phù Dung trấn Sơn Nam. Sự kiện này giống Phi Tử thời Chiến Quốc dâng ngựa cho vua Chu Hiếu Vương được chức Phụ Dung. Nguyễn Hành trong bài Đi săn gọi chú là Phi Tử và tự gọi mình là Thạch Sinh.
Nguyễn Nể năm 1801 được lệnh vua Cảnh Thịnh đem cụ Nguyễn Thiếp ra Phú Xuân, thì Phú Xuân bị mất Cảnh Thịnh chạy ra Bắc, bị bắt giết cùng 200 tướng lĩnh. Vua Gia Long tha cho các văn thần,  cho gọi hai người ra, tha cho Nguyễn Thiếp về quê quán, và đưa Nguyễn Nể cùng ra Bắc Thành để tham mưu trong việc đi sứ cầu phong nhà Thanh. Tuy nhiên Gia Long không dùng Nguyễn Nể, Phan Huy Ích, Ngô Thì Nhậm mà dùng em, con họ: Nguyễn Du, Nguyễn Ức, Ngô Thì Vị, Phan Huy Thực, Phan Huy Vịnh..
Nguyễn Ức có tài xây dựng, từng tham gia xây dựng lại làng Tiên Điền, Phượng Hoàng Trung Đô, được  Gia Long phong làm Thiêm sự Bộ Công, chỉ huy,  vẽ kiểu xây dựng Kinh thành Huế thời Gia Long, Minh Mệnh. Một kiến trúc sư tài ba công trình Kiến Trúc Kinh Thành Huế được Unesco công nhận Di sản văn hóa thế giới, vẫn chưa ai  được nghiên cứu ?
Nguyễn Hành sau năm 1802, không ra thi cử, tự tiến cử  như các ông chú, ông về Tiên Đìền, dựng ngôi nhà nhỏ có nơi ăn ở yên ổn, trồng cây sửa cảnh vườn: Cúc vàng, trúc xanh, tùng biếc, đá lạ đều do nhã hứng sắp đặt, để lòng được yên vui, thường đọc câu thơ của Uyên Minh Đào Tiềm: Ỷ nam song nhi chí ngạo (Tựa cửa sổ phía Nam mà tỏ ý chí mình) Nguyễn Hành lấy hiệu là Nam Song ; Mỗi sớm tối nằm ngồi ở đó, tiếp bạn bầu ở đó, đọc sách dạy con nói ở đó, thung dung làm sao. (Nam Song ký). Ông thường đi đây đó thăm Nghệ An, vào Quảng Nam thăm Vũ Trinh bị lưu dày sau vụ án Nguyễn Văn Thuyên (Vũ Trinh từng đi sứ, là thầy dạy con Nguyễn Văn Thành), qua lại Bắc Thành gặp gỡ bầu bạn, gửi nỗi niềm văn chương. Các thơ, từ, phú, ký, tựa, bạt .. tập họp thành Quan Đông Hải tập.
Nguyễn Hành viết tựa cho tập Hoa Trình tiêu khiển , thơ đi sứ của Nguyễn Nể, bàn bạc về phong thổ ký của Hiệp Trấn  Nhũ Sơn Ngô Nhân Tĩnh. Tựa sách Nghệ An phong thổ ký của Tồn Trai Bùi Dương Lịch.
Thời Gia Long Nguyễn Hành bị nghi ngờ giam lỏng ở Thăng Long, vợ con nheo nhóc, đói không cơm, rét không áo, thường ngày ông ngâm vịnh để tỏ chí khí xót xa, sầu thảm. Cùng thời điểm này xảy ra vụ án bài thơ của Nguyễn Văn Thuyên con quan Trung Quân nguyên Tổng  trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành, bài thơ Thuyên «muốn tụ tập danh sĩ Châu Hoan, châu Ái, để giúp nhau thay đổi hội cơ này», Thuyên bị án chém, Nguyễn Văn Thành tự tử. Thầy dạy Thuyên là Vũ Trinh quan Hữu Tham Tri Bộ Lễ bị lưu đày 12 năm tại Quảng Nam, (Nguyễn Hành có mối quan hệ gia đình và có viết tựa sách cho Vũ Trinh, Nguyễn Hành có vào Quảng Nam thăm ông). Binh Bộ Thượng Thư Đặng Trần Thường bị tội xử thắt cổ, tội không khai báo ao ruộng. Tham Hiệp Yên Quảng Trần Phúc Hiển chồng Hồ Xuân Hương bị tử hình tội tham nhũng 700 quan tiền, Hiệp Trấn Sơn Nam Thượng, thi tướng tao đàn Cổ Nguyệt Đường chết đột ngột, có lẽ tự tử đều là những người văn học tài giỏi. Nguyễn Hành bị nghi ngờ có liên hệ đến những nhân vật này chăng? Những bài thơ năm 1819-1820 được tập họp thành Minh Quyên phả.
Bài Đồng Xuân ký ông viết: «Nào ngờ đến bước đường cùng lại đến đây trú ngụ. Hành tôi phải đến trong tình trạng đắng cay, có tập Minh Quyên Phả, có thể làm chứng cứ. Từ sau khi sinh ra chưa  bao giờ lại quá đáng như vậy. Than ôi, ngày nay làm người lữ thứ ở Đồng Xuân là đền bù thời trước là công tử Bích Câu, ấy là cái chí đương nhiên của sự vật. Ngày nay cùng quẩn ở Đồng Xuân vị tất không phải là do ngày trước phấn phát ở Đồng Xuân vậy
Ông mất ngày 23 tháng chạp năm Quý Mùi (25-1-1824)
Nguyễn Hành có bài thơ viết năm 1804, năm đó ông 33 tuổi,  khi Nguyễn Du từ quan tri Phủ Thường Tín, xin về quê một tháng.
Khi Nguyễn Du mất năm 1820, Nguyễn Hành 50 tuổi  có viết bài thơ thương khóc chú.
Tâm sự Nguyễn Hành đau thương như tiếng chim đỗ quyên. Theo sách Hoa dương quốc chí, vua  Đỗ Vũ nước Thục, hiệu là vọng đế, bị mất nước, đau xót mà chết hóa thành chim đỗ quyên, cũng còn gọi là chim  « tử quy »  hoặc «  đỗ vũ ». Ở nước ta các nhà nho nghe cuốc kêu vào cuối xuân, đầu hè, tiếng kêu tha thiết như gọi hồn nước cũ, nên đã dịch hai chữ đỗ quyên thành chim cuốc.
LỜI DẪN TẬP THƠ MINH QUYÊN
Tiếng kêu nghe đau thương thảm thiết không gì bằng tiếng kêu của chim đỗ quyên. Đỗ quyên là loài chim phương  Nam, kêu về hạ, ngày đêm không ngừng. Khi kêu tất hướng về phương Bắc nghe như “chẳng bằng về đi”. Tiếng thơ trong tập này, ngẫu nhiên mà giống như thế, nên nhân đó mà đặt tên. Ngày xưa Trang Chu từng mơ hóa thành bướm, vì vậy tiếng thơ của tôi nghe như từng tiếng kêu của chim đỗ quyên, thì cũng chẳng có gì là lạ.
Tiếng kêu của chim vốn cũng có nguyên do. Triều chính hợp đạo, các bậc hiền tài quy tụ hòa hợp, chim phượng chim hoàng cất tiếng hót thánh thót êm đềm; thời buổi suy loạn, dân đen ly tán oán hận, chim hồng chim nhạn kêu thương, nghe bi thảm thiết tha. Sự cảm nhận không giống nhau, thì thanh âm cũng khác. Còn như tiếng kêu của chim đỗ quyên thì nghe sau mà ai oán bi thương đến thế, và tôi thì vì cớ gì mà cùng cất tiếng kêu đau thương ai oán như chim đỗ quyên kia!
Chim hạc kêu nơi đầm sâu xa vắng, tiếng vang tới trời ; hạc kêu nơi bóng mát, con nó hòa theo.. Còn kêu như chim đỗ quyên thì ai sẽ nghe? Ai sẽ hòa theo? Phải chăng tiếng kêu của chim đỗ quyên, người mới nghe thấy thì nhằm vào sự ly biệt. Người học theo thì thấy đau thương ai oán như nhỏ máu. Ôi! như thế thì quá lắm vậy. Tiếng thơ tôi cũng như thế chăng ?
Tiếng kêu của chim đỗ quyên, đau thương ai oán cùng cực, thì vấn vương lơ lững giữa câu cành, còn tôi dùng chữ nghĩa lên tiếng kêu thương thì sự ai oán đến như ở trong tập thơ này cũng là cùng cực rồi. May ra có thể chấm dứt được rồi chăng. Rồi đây nếu tiếng thơ có đổi khác, có thể nghe lọt tai, có thể hòa theo được, để nối tiếp tiếng kêu thương của tập thơ này thì tôi sẽ dựa vào tiếng thơ  ấy mà vâng theo mệnh Trời.
Năm Kỷ Mão, sau tiết thanh minh hai ngày
Nhật Nam, Nam Phủ Nguyễn Hành.
Viết tại nơi ở, phường Đồng Xuân, Bắc Thành.
Thơ Nguyễn Hành còn lại ngày nay 222 bài, tôi xin dịch thơ những bài tiêu biểu nhất.
Đến núi Phượng Hoàng thuộc địa phận huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, nơi Chu Văn An về ở ẩn. Chu Văn An (1292-1370) người thôn Văn, làng Quang Liệt, huyện Thanh Đàm (nay thuộc huyện Thanh Trì ngoại thành Hà Nội) Sau khi đỗ Thái Học Sinh (Tiến sĩ), ông không ra làm quan, ở nhà mở trường dạy học, người theo đến học rất đông trong đó có những người nổi tiếng như Lê Quát, Phạm Sư Mạnh.. Dưới đời Trần Minh Tông (1314-1329) ông được mời giữ chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám. Đời Trần Dụ Tông (1341-1369), chính sự suy đồi, ông dâng sớ xin chém đầu bảy gian thần nhưng không được triều đình chấp nhận, bèn xin từ chức về ở ẩn tại núi Phượng Hoàng lấy bút danh Tiều Ẩn. Sau khi mất, Chu Văn An được nhà vua truy tặng tước Văn Trinh Công, được thờ ở Văn Miếu.
Núi Phượng Hoàng cao thay trên núi có vách Tiều Ẩn. Vách Tiều Ẩn nay đã hoang vắng, nhưng di tích vẫn còn. Người hiền thuở trước khi bất đắc chí, liên bỏ tìm nơi tỉnh lặng. Còn nỗi lòng của ta thế nào đây, mà cứ quanh quẩn nơi suối đá này?
NGẮM NÚI PHƯỢNG HOÀNG
NHỚ VĂN TRINH CÔNG TRIỀU TRẦN
Cao thay núi Phượng Hoàng,
Núi có vách Tiều Ẩn.
Vách Tiều Ẩn vắng hoang,
Nhưng vẫn còn di tích.
Người xưa chí chẳng đạt,
Bỏ tìm nơi tịch nhàn,
Nỗi lòng ta như thế,
Nơi suối đá quẩn quanh.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
VỌNG PHƯỢNG HOÀNG SƠN
HOÀI TRẦN TRIỀU VĂN TRỊNH CÔNG
Cao tại Phượng Hoàng Sơn,
Sơn hữu Tiều Ẩn bích.
Tiều Ẩn bích dĩ hàn,
Tiên hiền bất đắc chí.
Khứ hĩ y nhàn tịch,
Ngã hoài cánh hà như,
Không tự lai truyền thạch.
Lòng quê còn vương vấn, xa nhà lâu năm, đau đáu muốn về. Nhưng không ngại non núi xa cách, mà chỉ sợ người và cảnh đổi khác. Lòng lo trước thiên hạ vẫn còn đó. Nguyễn Hành nhắc tới câu thơ Phạm Trọng Yêm đời nhà Tống bài phú Nhạc Dương Lâu:  Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc. (Lo trước nỗi  lo của thiên hạ, vui sau với niềm vui của thiên hạ). Kế lo thân thường tính sai. Sách Mạnh Tử có câu: Cùng tắc độc thiện kỳ thân, đại tắc kiêm thiện thiên hạ. (Ở vào cảnh ngộ khốn cùng thì lo hoàn thiện bản thân, nếu được thành đạt thì phải làm cho cả thiên hạ được hoàn thiện.) Nguyễn Hành trong cảnh cùng khốn lo thân nhưng sợ mình tính sai. Sao có được đôi cánh chim bằng. Sẽ cỡi gió tung cánh bay ngay. Sách Trang Tử, thiên Tiêu dao du viết: Lưng chim bằng rộng không biết đều mấy ngàn dậm, khi chim bằng vỗ cánh bay lên, cánh của nó như mây kéo ngang trời. Nhờ có gió to, chim bằng mới có thể nương tựa trên lưng gió, đội trời xanh, không gặp gì trở ngại mà tính chuyện bay về phương Nam.
NHỚ QUÊ
Quê hương xưa vương vấn,
Khách xa muốn về ngay.
Chẳng sợ sông núi cách,
Sợ cảnh người đổi thay.
Lo trước lo thiên hạ,
Rồi lo mình tính sai.
Sao như bằng đôi cánh,
Cỡi gió tung cánh bay.
TƯ HƯƠNG TÁC
Cố hương do vị tĩnh,
Cửu khách khổ tư quy.
Bất đạo sơn quan viễn,
Khủng tương dân vật phi.
Tiên ưu tâm tự tại,
Độc thiện kế đa vi.
An đắc đồ Nam dực,
Thừa phong nhất phấn phi.
Nguyễn Hành, vốn là một công tử, cha, bác, ông bậc nhất triều đình Lê Trịnh, nay phiêu bạt khắp nơi dạy học từ nơi này sang nơi khác, không chịu thi cử để ra làm quan thời nhà Nguyễn. Thời nhà Nguyễn kinh đô Phú Xuân, vua Gia Long sai Tổng Trấn Nguyễn Văn Thành phá thành cũ xây thành mới (1804-1807) gọi là Bắc Thành. Bắc Thành là nơi chỉ huy 11 trấn chung quanh, đứng đầu là quan Tổng Trấn, quan Tổng Hiệp Trấn phụ tá và ba  vị quan ba Tào: Binh, Hộ, Hình. Năm ngoái ở phủ Nam Sách, đêm nay ở thành Đại La (Thăng Long) tên cũ từ thời Cao Biền trước khi đổi ra Thăng Long thời nhà Lý. Phiêu bạt không nơi cố định. Đói rét vẫn sống yên lành. Đọc lại thơ mình thấy tứ thơ thường sầu khổ. Trước rượu mới biết mình đa tình. "Đa tình dĩ tửu chung tình giả" (người đa tình thường lấy rượu để tình chung đúc vào đó.)       
BẮC THÀNH ĐÊM BA MƯƠI TẾT
Năm ngoái phủ Nam Sách,
Năm nay Đại La thành.
Phiêu bạt nơi vô định,
Đói rét vẫn yên lành.
Xem thơ thương tứ khổ,
Trước rượu biết đa tình.
Sáng mai năm mới đến,
Tiếng pháo nổ mà kinh.
BẮC THÀNH TRỪ TỊCH
Khứ niên Nam Sách phủ,
Kim dạ Đại La thành.
Phiêu bạt nguyên vô định,
Cơ hàn thượng hữu sinh.
Kiểm thi thương tứ khổ,
Đối tửu giác đa tình.
Minh đán minh niên sự,
Kinh nhân bộc trúc thanh.
Ngày xuân khai bút, Nguyễn Hành viết hai bài thơ đùa với bức tường hàng xóm: Nhà hàng xóm phía Nam riêng được no. Nhà ta ở phía Bắc vẫn chịu đói. Chỉ có bức tường cao ngăn cách. Cho nên gió xuân đến chậm.  Cho dù bức tường cao ngăn trở. Cũng không ngăn được cảnh sắc đẹp ngày xuân. Ta với người vốn tương đồng. Đâu có phân chia Bắc với Nam.
NGÀY XUÂN ĐÙA ĐỀ TƯỜNG PHÍA NAM
I
Hàng xóm phía Nam no,
Nhà ta đói phía Bắc.
Vì tường cao  ngăn cách,
Nên gió Đông chậm sang.
II
Dù tường cao ngăn trở,
Không ngăn cảnh xuân sang,
Ta với người tương đồng,
Đâu phân chia Nam, Bắc.
XUÂN NHẬT HÍ  ĐỀ NAM LÂN TƯỜNG
I
Nam lân thiên đắc bão,
Bắc xá thượng hàm ky (cơ)
Tống bị cao tường cách,
Xuân phong lai dã trì.
II
Cao tường cẩu vi ngại,
Bất ngại dương xuân sắc.
Vật ngã bản tương đồng,
Hà nữu phân Nam Bắc.
Sầm Tham (715-770) người đất Nam Dương, tỉnh Hà Nam (Trung Quốc) nhà thơ lớn đời Đường, bạn thân của thi hào Lý Bạch. Trong bài Tương Tiến Tửu, Lý Bạch gọi là Sầm Phu Tử. Chữ Phu Tử ngày xưa dùng cho bậc hiền triết đáng kính trọng như Khổng Phu Tử, Tuyết Giang Phu Tử (Nguyễn Bỉnh Kiêm), La Sơn Phu Tử (Nguyễn Thiếp).
Dựa vào câu thơ Sầm Tham: Thân là chiếc thuyền trống rỗng. Nguyễn Hành viết tiếp: Nổi trôi trên sóng gió cuộc đời. Giữ trung tín làm lái. Giữa dòng vẫn yên ổn trôi xuôi. Người xưa quan niệm, sống trên đời giữ vững lấy lòng trung tín, thì mọi việc nguy hiểm đều có thể qua được. Nguyễn Du trong bài Minh Ninh Giang chu hành, trong Bắc Hành tạp lục lại viết: “Mọi người đều nói đường trên đất Trung Hoa bằng phẳng. Hóa ra đường Trung Hoa lại thế này. Sâu hiểm quanh co giống lòng người. Nguy vong nghiêng đổ đều do ý trời. Tài cao văn chương thường bị ghen ghét. Thịt người là thứ ma quỷ thích nhất. Sóng gió làm sao yên hết được. Giữ trung tín nhưng rốt cuộc vẫn không đủ cậy nhờ.” Nguyễn Du không tin lòng trung tín có thể vượt qua mọi nguy hiểm vì đường Trung Quốc sâu hiểm và quanh co giống như lòng người.
ĐỀ THƠ “THÂN LÀ CHIẾC THUYỀN TRỐNG RỖNG" CỦA SẦM THAM
“Thân là chiếc thuyền không,”
Nổi trôi sóng nước đời.
Giữ trung tín làm lái,
Giữa dòng bình yên trôi.
PHÚ ĐẮC NHẤT THÂN VI HƯ CHU
“Nhất thân vi khinh chu,”
Phong ba thế thượng phù.
Đán tháo trung tín đà,
Ổn diệc phiếm kỳ lưu.
Người đời ai bệnh cũng đều mong hết bệnh. Ai nghèo cũng mong thoát được nghèo. Nhưng Nguyễn Hành lại viết: Có bệnh chớ chữa cho khỏi hẳn. Vì sợ lại sinh mầm bệnh khác. Nghèo túng chớ nên gạt bỏ hết. Sợ phải gánh những điều còn quá tệ hơn nghèo. Nghèo nên bớt được việc. Ốm nên được nhàn thân. Ý này nên tự hiểu. Không nên truyền cho chứng nhân. Bài thơ này Nguyễn Hành tự an ủi, biết đủ, nhưng thật sự thì  ngược lại. Chính vì bệnh không chữa hết hẳn, mới là mầm móng sinh ra bệnh khác. Các bộ phận trong cơ thể con người liên quan với nhau, bệnh phổi, đường hô hấp ảnh hưởng đến tim, thận.. Nghèo túng nếu không tìm lối thoát bằng nổ lực làm việc, bằng tiết kiệm thì nghèo đói cứ trong vòng lẫn quẩn không thoát ra được. Nghèo chỉ lo chạy ăn ngày hai buổi, thì không thể làm việc khác được, không ai giao trọng trách xã hội cho người nghèo chỉ biết có miếng ăn,  không tài năng gì khác, ngay cả làm thơ, nhà thơ không thể nhịn đói  làm thơ. Khi ốm người thân chăm sóc gánh vác việc cho mình nên được nhàn. Nhưng không thể giả ốm đau để người thân cả đời thương xót. Bài thơ Ngộ về nghèo bệnh của Nguyễn Hành không trở thành giác ngộ về triết lý  cuộc sống được, mà chỉ là một ý tưởng ngồ ngộ ngược đời.
NGỘ VỀ NGHÈO BệNH
Bệnh chớ chữa khỏi hẵn,
Sợ mầm bệnh khác sinh.
Nghèo túng chẳng bỏ hết,
Sợ gánh tệ hơn nghèo.
Nghèo nên bớt được việc,
Ốm nên được nhàn thân.
Ý này nên tự hiểu,
Không truyền cho chứng nhân.
BẦN BệNH NGỘ
Hữu bệnh mạc liệu tận,
Khủng sinh tha bệnh căn.
Hữu bản mạc khử tận,
Cánh hữu thậm ư bần.
Duy bản nãi tỉnh sự,
Dĩ bệnh đắc nhàn thân.
Thử ý tự khả ngộ,
Bất tu truyền dữ nhân.
Tác giả xa quê hương, nhìn trăng trung thu ánh trăng soi sáng muôn dặm. Nơi gió Nam xao động .  Ngờ là từ quê hương thổi tới.
TRĂNG THUNG THU NĂM NAY
Trăng trung thu năm nay,
Ánh trăng soi muôn dặm,
Nơi gió Nam xao động,
Là ngọn gió quê hương.
KIM TUẾ TRUNG THU NGUYệT
Kim tuế Trung thu nguyệt,
Dung quang vạn lý khai.
Nam phong xung động xứ,
Nghi tư cố hương lai.
Trong đêm tĩnh mịch, Nguyễn Hành tự vấn lương tâm: Ba mươi năm trước riêng tấm lòng này. Trong thơ Nguyễn Hành đó là tấm lòng lo cho nước vua Lê, chúa Trịnh, lo cho nhà gia cảnh họ Nguyễn Tiên Điền, dinh thự tại Thăng Long bị phá sạch. từ đường nhà cửa làng Tiên Điền bị đốt cháy, làng bị làm cỏ vì cuộc khởi nghĩa Nguyễn Quýnh chống Tây Sơn năm 1791. Tấm lòng này không đổi cho tới tận nay. Giờ đây già rồi lại càng không thể đổi thay. Và càng thêm sâu sắc theo tháng ngày.
LỜI TỰ VẤN LƯƠNG TÂM TRONG ĐÊM TĨNH MỊCH
Ba mươi năm trước tấm lòng này,
Tấm lòng chẳng đổi đến hôm nay.
Giờ đây, giờ lại càng không đổi,
Mà chỉ thêm sâu sắc tháng ngày.
TĨNH DẠ MÔN TÂM NGỮ
Tam thập niên tiền độc thử tâm,
Thử tâm bất cải đáo nhi kim.
Nhi kim lão hỉ vô dung cải,
Nhất  tiết thâm tòng nhất tiết thâm.
Bài thơ Tặng Vợ, Nguyễn Hành phân bua :  Nghèo và  không có địa vị gì, đó đều là do ta tự chuốc lấy. Cả đời chẳng oán trờì cũng chẳng giận người. Cổ nhân rất quý trọng nghĩa tao khang.  Mong so được giữ tình nghĩa ấy cho đến khi bạc đầu. Tao, khang là bã rượu và cám, thức ăn của người nghèo khổ cùng cực. Theo sách Hậu Hán Thư. Hán Võ Đế muốn đem chị là Hồ Dương Công Chúa hả cho Tống Hoằng, khuyên Hoằng nên bỏ người vợ đã lấy từ trước. Tống Hoằng không chịu nghe theo, nói rằng : Bạn bè kết giao lúc nghèo khổ không thể quên nhau, người vợ thuở hàn vi từng lấy cám bã nuôi nhau cũng không thể từ bỏ. (Bần tiện chi giao bất khả vong, tao khang chi thê bất khả hạ đường.)
TẶNG VỢ
Không địa vị nghèo ta tự cầu,
Đời chẳng oán trời, giận người đâu !
Nghĩa tào khang cổ nhân xem trọng,
Mong giữ tình sao đến bạc đầu.
TẶNG NỘI
Bần tiện đô chuyên ngã  tự cầu,
Bình sinh đà oán diệc hà vưu.
Cổ nhân tối ái tao khang nghĩa,
An đắc tao khang đáo bạc đầu.
Nơi đất khách không cách gì làm cho no bụng. Trâm, vòng cầm hết, áo cũng đem cầm hết. Chỉ còn lại cái thân này không cầm đâu được. Bao năm rồi cứ quanh quẩn mãi chưa biết tìm về quê hương.
CẦM  CỐ
Đất khách cách chi no bụng dạ,
Trâm, vàng quần áo cũng cầm vay.
Chỉ còn thân sống không cầm được,
Chẳng về quê, quẩn tháng năm chày.
ĐIỂN
Lữ trung vô kế khả trung cơ,
Điển tận thoa hoàn điển tận y.
Thặng hữu thử thân vô điển xứ,
Trường niên cục tích vị tri quy.
Năm 1819, Nguyễn Hành 49 tuổi quay trở về Thăng Long, ông viết: Thuở trẻ ngày xuân, đã từng ở chốn kinh đô này. Lúc ấy nhà với nước, vua với song thân, đều chung niềm vui. Một lần ra đi nếp phong lưu thay đổi hết. Nay quay trở lại răng tóc đã thành người già rồi. Đất khách lòng chẳng được yên, buồn đành chịu vậy. Quê hương (Hồng Lĩnh) xa tít mù khơi, ngóng trông mãi không thôi. Bốn mươi chín năm trôi qua một cách vô vị. Đường đời phía trước hãy nên nghe theo sự xếp đặt của Trời.
NĂM KỶ MÃO 49 TUỔI NGÀY XUÂN Ở KINH ĐÔ CŨ
Niên thiếu tuổi xuân chốn cố hương,
Nước vua thân quyến đều vui chung.
Lần đi phong độ đà thay đổi,
Quay về già cỗi tóc răng long.
Đất khách chẳng yên lòng chịu vậy,
Quê hương xa tít ngóng trông lòng.
Bốn mươi chín tuổi qua vô vị,
Đường đời phía trước trời định phân.
KỶ MÃO TỨ THẬP CỬU  TUẾ CỐ KINH XUÂN NHẬT
Thiếu niên xuân nhật thử kinh trung,
Gia quốc quân thân lạc sự đồng.
Nhất khứ phong lưu đô hoàn tận,
Trùng lai xỉ phát dĩ thành ông.
Thê thê lữ huống sầu vô nại,
Diểu diểu hương quan vọng bất cùng.
Tứ thập cửu niên nhàn quá liễu,
Tiên trình tu thả thính thiên công.
Đi qua Văn Miếu Quốc Tử Giám, còn gọi là nhà Thái Học, nơi đây, ông nội là Xuân Quận Công từng làm chức Tế Tửu (Hiệu Trưởng). Ngẩng đầu ngắm nhìn cổng nhà Thái Học cao rộng. Trước cổng là hàng cổ thụ có gốc rể lâu đời. Đạo của thánh nhân lớn như Trời. Thủy tổ của Nho Giáo là Khổng Tử được tôn là thánh nhân. Văn minh của nước ta được tôn sùng ở nơi đây. Thế tục bao lần đổi thay tiếng đàn vẫn không dứt. Nho gia dùng lễ nhạc để giáo hóa dân chúng. Khoa danh tồn tại dài lâu, bia đá nói nên lời. Bia khắc tên tuổi quê quán khoa thi các vị tiến sĩ thời nhà Lê. Kẻ hậu sinh này không được dự vào hàng ngũ tư văn. Tư văn dẫn lời Khổng Tử, chỉ di sản văn hóa Trung Quốc xưa để lại, đây chỉ những người đỗ đạt danh tiếng. Rất lấy làm xấu hổ khi nghe câu “làm rạng rỡ cửa nhà có cháu con”.
NỀN QUỐC HỌC
Ngưỡng vọng nguy nga Thái Học Môn,
Cổng vào cổ thụ gốc lâu bền,
Đạo của thánh nhân như trời rộng,
Văn minh nước Việt thảy tôn sùng.
Thế tục đổi thay đàn chẳng đứt,
Khoa danh tồn tại tấm bia truyền.
Hậu sinh chẳng dự hàng văn nghiệp,
Xấu hổ gia đường phận cháu con.
QUỐC HỌC
Cao ngưỡng nguy nguy Thái Học môn,
Môn tiền kiều mộc tích niên căn.
Thánh nhân đạo giáo như thiên đại,
Ngã quốc văn minh thử địa tôn.
Thế tục kỷ canh, huyền bất đoạn,
Khoa danh trường tại, thạch năng ngôn.
Hậu sinh vị dự tư văn tịch,
Thâm quý dương gia hữu tử tôn.
Khí lạnh lan tràn qua đông lại sang xuân. Ông trời nỡ để tai họa giáng xuống muôn dân. Nếu trong số mệnh có cái lẽ “thay thế” được. Thì ta chẳng tiếc đem thân này chịu nạn thay cho muôn vạn dân.
BệNH DỊCH LẠI TÁI PHÁT
Khí lạnh tràn lan đông lại xuân,
Trời cao giáng họa xuống con dân.
Nếu trong số mệnh suy thay được,
Chẳng tiếc thân thay muôn vạn thân.
DỊCH TÁI TÁC
Lãnh khí lưu hành đông  hựu xuân,
Hoàng thiên hồ nhẫn thứ tư dân.
Mệnh trung nhược hữu suy di  lý,
Bất tích thân đương thiên bách tân.
Bài Tiễn Xuân Bắc Thành, Nguyễn Hành làm theo điệu Mãn giang hồng, bài thơ của Nhạc Phi, tỏ ý chí mình căm giận, khi đang thắng trận thì bị Tần Cối mạo lệnh vua gửi kim bài gọi về (và bị bắt giết). Là bậc vương tôn công tử, về thăm cảnh sắc ngày xuân chốn đế đô. Ngoãnh nhìn lâu đài thành thị đều không còn như xưa. Dinh Kim Âu của ông cha bị kiêu binh phá tan. Phủ đền  chúa Trịnh xây dựng trong 243 năm bị vua Lê Chiêu Thống cho người đốt cháy hàng tháng trời. Thăng Long trở thành nơi chiến địa trận đánh Tôn Sĩ Nghị năm 1789. Chuyện cũ vấn vương như trong mộng. Sầu nối nhau dài như tơ. Lưu lạc mãi không thôi. Thương thay tấm thân quanh năm nơi đất khách quê người. Trong chốn trần ai, ai hay biết. Sáng vừa qua đã để lại (lo ăn) chiều. Một chút vui xuân dễ dàng quên hết. Vẻ đẹp tan tác rụng rời chẳng tiếc. Chỉ buồn hao phí uổng công. Xót xa một nỗi hoài bão bình sinh chưa thực hiện được. Mà đầu luống bạc. Khác với các ông chú Nguyễn Nể được vua Quang Trung trọng dụng, đem tài năng giúp nhà Tây Sơn, đi sứ, dạy vua trẻ, cố vấn việc nước. Nguyễn Du, giúp vua Gia Long, người đi tiếp sứ, đi sứ, cai trị huyện Phù Dung, Thường Tín, doanh Quảng Bình. Nguyễn Ức vẽ kiểu, chỉ huy xây cất lâu đài cung điện. Nguyễn Hành ta không rõ hoài bão của ông là gì, ông chỉ làm thơ ca tụng những nghĩa  sĩ chống Tây Sơn bị giết. Nhưng khi Tây Sơn sụp đổ, Gia Long thống nhất thiên hạ, ông cũng chẳng thi cử hay tự tiến cử ra làm quan giúp nước. Nguyễn Hành có tài nhưng không đủ ý chí nghị lực để thực hiện hoài bão mình nên lẫn quẩn trong vòng hết lo ăn sáng lại lo buổi ăn chiều.
TIỄN XUÂN Ở BẮC THÀNH
điệu Mãn Giang Hồng
Vương tôn công tử
Về thăm xuân sắc thành vua,
Ngoãnh nhìn khắp lâu đài thành thị
Đều chẳng còn như xưa.
Chuyện cũ vấn vương như trong mộng,
Sầu mới nối nhau dài như tơ.
Lưu lạc mãi không thôi.
Thương thân năm tháng quê người.
Chốn trần ai ai hay ai biết,
Sáng vừa qua lại lo chiều,
Một chút vui xuân dễ dàng quên hết.
Vẻ đẹp tan tác người chẳng tiếc.
Chỉ buồn hao phí uông công.
Hoài bão bình sinh chưa làm được,
Đầu đã bạc phong  trần.
BẮC THÀNH TỐNG XUÂN
Mãn giang hồng
Công tử vương tôn,
Trùng phỏng hoàng châu xuân sắc,
Hồi thủ xứ lâu đài thành thị, dĩ phi trù tích.
Vãng sự y y hồn nhược mộng,
Tân sầu lũ lũ trường như ti.
Tối thị vô đoan phiêu bạc,
Khả liên thân kinh niên khách,
Trần ai lý thùy tương thức,
Triêu tương quá liễu hoàn mưu tịch.
Bả bả nhất xuân lạc sự, đẳng nhàn vong khước,
Bất tích yên hoa linh lạc tận,
Chỉ sầu phao hư trịch trướng,
Bình sinh hoài bão vị tằng khai,
Đầu không bạch.
Hoa cúc nở vào mùa thu, trong khi các loài hoa khác nở vào mùa xuân. Nguyễn Hành viết bài phú ca tụng hoa cúc: Tốt tươi thay hoa cúc trời phú cho đức thuần túy và lương thiện. Thanh đạm không  ham muốn gì, thực chẳng giống như các thứ hoa thơm khác. Chưa gặp thời vận thì lui về ở ẩn như  ông Y Doãn, tướng nhà Thương. Như Chu Công Đán tướng nhà Chu giúp vua Vũ Vương. Bỗng nhiên bừng lên áo mũ đường hoàng như Sào Phủ và Hứa Do hai cao sĩ thời Đường Nghiêu, hai ông không màng danh lợi, cùng vào ẩn trong núi, vua Nghiêu đem thiên hạ nhường cho cũng không nhận.
Hai câu này người chép văn bản lầm nên chữa lại: Chưa gặp thời may thì như Sào, Do sống ẩn, Bỗng sưng bừng sáng áo mũ Y, Chu chốn miếu đường. Tính chất chứa bên trong, anh hoa phát ra ngoài. Thực không cầu mà tự được, đạo vẫn thầm lặng mà ngày một sáng thêm. Diễm lệ như hạt sương trong, huy hoàng như mặt trăng sáng. Vẽ đẹp đủ vui lòng người, gió thoảng xa đưa hương thơm ngát. Nguyện cùng người quân tử kết bạn lâu dài, dù năm hết hoa tàn cũng không quên nhau.
BÀI TỤNG HOA CÚC
Tốt tươi hoa cúc, đức trời thuần lương,
Thanh đạm vô dục, chẳng giống các hoa thơm.
Chưa gặp thời may như Sào, Do sống ẩn,
Bổng dưng bừng sáng áo mũ Y, Chu chốn miếu đường.
Tính chất bên trong, anh hoa phát tiết,
Thực không cầu được, đạo âm thầm ngày thêm sáng lên.
Diễm lệ sương trong, huy hoàng trăng sáng.
Vẻ đẹp vui lòng người, gió ngát hương thơm.
Nguyện cùng quân tử kết bạn lâu dài,
Năm hết hoa tàn mãi không quên.
CÚC TỤNG
Y  y  ngô tử, thiên đức túy lương,
Thanh đạm vô dục, hữu dĩ dị phù chúng phương,
Thời tai vị ngộ, nhược  Sào, Do chi thoái tàng,
Bột nhiên nhi hưng, như Y, Chu chi quan miện hồ miếu lang.
Tính chất trung uẩn, anh hoa ngoại dương,
Thực vô cầu nhi tự hoạch, đạo ảm nhiên nhi nhật chương.
Lệ nghiêm sương chi tiết tháo, sán minh nguyệt chi huy quang.
Khương ý vị kỳ ngu nhân, phong tự viễn nhi văn hương.
Nguyện dữ quân tử hề kết trường hữu,
Tuế tịnh tạ hề, vô tương vương.
Bài  Hồ Tây, Nguyễn Hành viết: Một làn nước Dâm Đàm xanh rờn rờn. Rõ ràng đây là cõi đất xưa xứ Tây Việt. Khí đêm sinh ra, mỗi khi có trăng sáng. Cơ mầu nhiệm lay động, nên không biết là có gió. Lờ mờ rặng cây che khuất hành điện . Chùa Trấn Quốc xưa là hành điện, nơi vua thường đến nghỉ chơi. Văng vẳng tiếng chày kình từ ngôi chùa vọng ra. Vốn là khách câu cá ngao trên mặt sóng. Có thể đến làm ngư ông trên hồ này.
TÂY HỒ
Dâm Đàm làn nước biếc xanh xanh,
Tây Việt từ xưa đất rõ rành.
Đêm khí sinh ra trăng sáng chiếu,
Cơ mầu lay động gió hay chăng.
Lờ mờ cổ thụ che hành điện,
Văng vẳng chày kình chùa tụng kinh.
Vốn khách câu ngao trên sóng biếc,
Đến đây hồ rộng làm ngư  ông.
TÂY HỒ
Dâm đàm nhất  thủy bích dung dung,
Tây Việt phân minh cổ cảnh trung.
Dạ khí mỗi sinh thường hữu nguyệt,
Chân cơ trường động bất tri phong.
Y hy cổ thụ mê hành điện,
Thiều đệ hoa kinh huởng Phạm cung.
Bản thị điếu ngao ba thủy khách,
Khả lai hồ thượng tác ngư ông.
Bài Kính trung mỹ nhân, người đẹp trong gương viết: Da băng tuyết tinh thần như trăng sáng. Riêng một vẻ yêu kiều, huyền ảo mà chân thực. Dồi phấn, đeo hoa không bắt chước thói thường trước mắt. Chút duyên văn tự chỉ hẹn nhau bên ngoài vật chất mà thôi. Đôi lúc lén ngoảnh nhìn, bóng như lay động. Ý tứ dấu kín trong lòng, chưa biết có xuân. Treo bên cạnh chỗ ngồi, chủ nhân trân trọng. Đừng để một hạt bụi làm vẩn bợn vẻ thanh quang.
NGƯỜI ĐẸP TRONG GƯƠNG
Da như băng tuyết, nguyệt tinh thần,
Một vẻ yêu kiều, huyền ảo chân.
Hoa phấn chẳng theo đời trước mắt.
Duyên văn hẹn với vật ngoài thân.
Ngoảnh nhìn đôi lúc lao xao bóng,
Dấu kín tình chưa biết có xuân.
Treo cạnh chổ ngồi, trân trọng chủ,
Đừng để thanh quang lấm bụi trần.
KÍNH TRUNG MỸ NHÂN
Băng tác cơ phu, nguyệt tác thần,
Nhất ban kiều diễm, huyền nhiên chân.
Duyên hoa bất nhiễm thời trung thái,
Hàn mạc thiên đề vật ngoại nhân.
Tư cố kỷ hồi như động ảnh,
Thâm tàng để ý vị tri xuân.
Chủ nhân tọa hữu nghi trân trọng,
Mặc khiển thanh quang lạc điểm trần.
Bài Phong thổ đất Nghi xuân: Biển hút khí sông Lam không bao giờ hết. Dãy núi Hồng Lĩnh 99 ngọn chót vót và đảo Song Ngư ngoài biển đối mặt nhau. Bao nhiêu sông núi đều ghi trong sách phong thổ châu Hoan. Tên các nhân vật đều khắc trên bia để đời. Những áng văn chương rực rỡ đều có thể thuật lại. (Truyện Kiều, Hoa Tiên..) Phong tục thuần hậu chưa hề bao giờ bạc bẻo. Ơn dầy các đấng Tiên vương dân châu Hoan ca ngợi. Nghi Xuân không nên coi là nhỏ, thực là phải.
PHONG THỔ NGHI XUÂN
Sông Lam biển hút khí vô cùng,
Hồng Lĩnh, Song  Ngư đối mặt chung.
Sông núi ghi tên Hoan trung ký
Danh nhân bia đá khắc tên truyền.
Văn chương rực rỡ lưu muôn thuở,
Phong tục thuần lương chẳng bạc lòng.
Ân đức Châu Hoan vua ngợi tiếng,
Nghi Xuân không nhỏ, đáng ghi công.
XUÂN NGHI PHONG THỔ
Hấp hấp lam dương vô tận kỳ,
Hồng phong ngư đảo tịnh nguy nguy.
Sơn xuyên tổng nhập Hoan trung ký,
Nhân vật trường lưu thế thượng bi.
Bính bính văn chương giai khả thuật,
Thuần thuần phong tục vị thường ly.
Tiên vương hậu trạch Hoan châu mỹ,
Bất tiểu Nghi Xuân huyện dã nghi.
Năm Canh Thìn  1920, một trận dịch lớn từ Xiêm, tràn qua Chân Lạp lan vào đang trong đến Thăng Long, hơn hai trăm ngàn người chết. Khắp nơi náo động, tế lễ cầu đảo. Thi hào Nguyễn Du qua đời trong trận dịch này. Dữ dằn đáng kiếp sợ, như đạo quân lớn trẩy qua. Làm náo động kinh hoàng cả muôn dậm. Xưa nay chưa từng có nạn dịch nào lớn như thế này. Kéo tràn tư đất Tiêm, đất Lạp rồi ra tới Thăng Long. Mắt nhìn nhân dân chết quá thảm thương. Trong lòng nhớ đến đức hiếu sinh của trời đất. Đáng giận là không có pháp thuật điều hòa âm dương. Để đem dâng hiến cho các vị quan triều đình.
NẠN DỊCH LỚN
Kinh khiếp như đại quân,
Vạn dậm động xa gần.
Xưa nay chưa từng thấy,
Xiêm, Lạp đến Thăng Long.
Mắt nhìn dân chết thảm,
Nhớ lòng Trời hiếu sinh.
Đáng giận không pháp thuật,
Dâng lên quan triều đình.
ĐẠI DỊCH
Lẫm nhược đại quân hành,
Tao nhiên vạn lý kinh.
Cổ lai vô thử dịch.
Tiêm, Lạp chí Long Thành.
Mục thảm nhân dân tử,
Tâm hoài thiên địa sinh.
Vô hận điều nhiếp thuật,
Nhất vị hiến công khanh.
THEO LỐI XƯA
một bài
Phượng lẽ kêu lưng trời,
Tiếng kêu sao thảm thiết.
Mây trắng lững lờ trôi;
Đi đâu  hỏi ta biết ?
Đan huyệt chứa tinh đức,
Rực rỡ đủ muôn màu.
Thương thay thời chẳng gặp,
Trôi dạt theo gió mau.
Biển cả rộng mênh mông,
Giai nhân nơi nương tựa ;
Lên cao nhìn bốn cõi,
Lòng nghĩ xa vời vợi.
Lồng đại bàng đất trời.
Ri sẻ đậu phên ngoại.
Rồng thiêng hóa thần kỳ,
Cá miết lội ao tí.
Vạn vật có riêng tính,
Hiền triết cốt phát huy.
Siêu nhiên tâm tự tại,
Ngoài đời ai có hay.
Nghe tiếng chim phượng, chim hồng kêu lẻ loi lưng trời, tiếng kêu sao mà thãm thiết quá. Nhìn mây trắng lững lờ trôi. Hỏi ta đi đâu, ta nào chẳng biết. Theo Sơn Hải Kinh trên núi Đan Huyệt có nhiều vàng ngọc. Sông Đan Huyệt phát nguyên từ núi ấy chảy ra biển Bột Hải, ở đây có một loại chim lông năm sắc rực rỡ, gọi là chim phượng hoàng. Ta giống như loài chim quý ấy nhưng thương thay chẳng gặp thời, nên trôi dạt theo làn gió thổi mau. Bay trên biển cả mênh mông. Giai nhân là nơi nương tựa, trong thơ Khuất Nguyên, giai nhân tượng trưng cho cái đẹp tuyệt mỹ. Bay lên cao nhìn bốn cõi, lòng nghĩ đến việc cao xa. Lồng chim đại bàng là đất trời. chim ri, chim sẻ(người tầm thường) đậu phên ngoài. Một mai rồng thiêng sẽ hóa thần kỳ, không phải  là cá miết lội trong ao bé tí. Vạn vật đều có riêng đức tính của mình. Nhà hiền triết phát huy. Tâm tự tại siêu nhiên, người đời chẳng ai hay biết.
NGHĨ CỔ
Nhất thủ
Cô phượng minh trung thiên,
Âm hưởng nhất hà bi.
Phù vân tiền trí tứ,
Vấn ngã nhất hà chi ?
Đan Huyệt hàm tinh đức,
Ngũ sắc sinh quang huy,
Thương tai ! thời bất dụng,
Phiêu bạt tùy phong nhi.
Hải thủy hạo mang mang,
Giai nhân đắc sở ý,
Đăng cao lâm tứ hoang,
Du du hữu hà tư.
Đại bàng lung vũ trụ,
Xích án tập phiên ly.
Thần long hảo biến hóa,
Ngư miết du ô trì,
Vạn vật cát hữu tình.
Triết nhân quý phát huy.
Siêu nhiên tâm tự lạc,
Thú ngoạ thúy khả vi ?
Nguyễn Hành có tài, nhưng cứ sống trong nghèo khó đợi chờ thời như chim bằng bay cao, như cá hóa rồng. Ông không mặn mà gì với ông chú Nguyễn Du dâng ngựa lên vua Gia Long, như Phi Tử để được chức tri huyện Phù Dung, rồi tiến thân trên đường hoạn lộ. Khi ông chú làm tri phủ Thường Tín xin về nghỉ một tháng ông vui mừng, ông chú về nơi quê nhà, an nhàn ăn cá vượt rau thuần. Ông phục tài chú làm vẻ vang dòng họ, ông ca tụng ông chú một thời đi giang hồ, một thời làm quan nơi long miếu, tài năng cầm, thư, thi họa đầy đủ, nhưng Nguyễn Hành không làm được như chú, cũng không sáng tác gì nhiều vỏn vẹn 222 bài thơ, ông sống chờ thời, nhưng thời không bao giờ đến, và Nguyễn Hành chết trong nghèo khó.
*
TÀI LIệU THAM KHẢO:
Tinh Tuyển Văn học Việt Nam tập 5 quyển 2. Văn học thế kỷ XVIII.
Phạm Trọng Chánh. Nguyễn Hành, nhà thơ tài hoa trong An Nam ngũ tuyệt. site Chimvietcanhnam..
Võ Nguyên Hanh (Vũ Trính)  Kiến văn lục dịch giả Đàm Duy Tạo. Trung Tâm Học Liệu BGD. Sàigon 1969
Nguyễn Hành.  Minh Quyên phả.
Nguyễn Hành với Thăng Long site ditichnguyendu
*
PHẠM TRỌNG CHÁNH
Tiến sĩ Khoa Học Giáo Dục
Địa chỉ:, Viện Đại Học Paris V.
Email: phamtrongchanh@free.fr
.









…………………………………………………………………………
- © Tác giả giữ bản quyền.
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 24.07.2017
 - Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại. 

0 comments:

Đăng nhận xét