(Vua Quang Trung đại phá quân Thanh ; Nguồn ảnh: internet) |
ĐẠI NẠN TRUNG HOA THỜI CẬN ĐẠI
(Việt Nam và đại nạn Trung Hoa)
1.- TRUNG HOA GẶP
ĐẠI NẠN
Vào thế kỷ 19,
trong nền giao thương giữa Trung Hoa và các nước Âu Châu, một cuộc tranh chấp
gay gắt đã đưa đến việc người Âu Châu xâu xé Trung Hoa. Nguyên trong những sản
phẩm người Anh đem đến Trung Hoa, có một món hàng vừa dễ chuyên chở, lại bán
được nhiều và được giá cao, đó là thuốc phiện (nha phiến).
(Giáo sư Trần Gia Phụng) |
Thuốc phiện mà
người Trung Hoa gọi là cù túc, đã được người Ả Rập nhập vào Trung Hoa từ thế kỷ
thứ 8, nhưng chỉ được sử dụng trong y học. Đến thế kỷ 16, những nhà giàu có
Trung Hoa bắt đầu dùng ống dọc tẩu để hút. Công ty Đông Ấn Anh Quốc (The
English East India Company) nhập cảng ồ ạt thuộc phiện vào Trung Hoa để kiếm
lợi, làm tăng nhanh giới nghiện thuốc phiện tại nước nầy. Con số người nghiện
lên đến khoảng mười triệu người vào năm 1830. Năm 1838, Anh nhập vào Trung Hoa
40,000 thùng thuốc phiện; một thùng khoảng 70 ký-lô, giá có khi lên đến hai
ngàn tiền vàng Mễ Tây Cơ. Việc nầy gây ra hai thiệt hại quan trọng cho Trung
Hoa: Thứ nhất người nghiện càng ngày càng đông, bệnh tật, đói nghèo và trở nên
vô dụng. Thứ hai, người Hoa tốn rất nhiều tiền nhập thuốc phiện qua tay thương
giới Anh.
Vua Đạo Quang
(Tao-kuang / Dao Guang), tức Thanh Tuyên Tông (Qing Xuan Zong, trị vì
1821-1850), quyết định bài trừ và cấm nhập cảng thuốc phiện năm 1838. Việc nầy
đưa đến chiến tranh giữa Anh Quốc và Trung Hoa năm 1840, thường được gọi là
“Nha phiến chiến tranh”.
Trung Hoa thất bại,
phải ký hiệp ước Nam Kinh (Nanking) năm 1842, gồm 12 khoản, theo đó
các khoản quan trọng là: Trung Hoa phải nhượng Hồng Kông (Hương Cảng) cho Anh;
mở năm hải cảng Quảng Châu (Kwangchow), Hạ Môn (Xiamen hay Hsiamen), Phúc Châu
(Fuzhou hay Fuchow), Ninh Ba (Ningpo hay Ningbo), Thượng Hải (Shanghai) cho người
Anh buôn bán và gia đình cư trú, có lãnh sự trông coi việc buôn bán; bồi thường
cho Anh 21,000,000 tiền vàng Mễ; hàng hóa Anh nhập cảng chịu thuế một lần, và
thương nhân Trung Hoa không đóng thêm thuế khi chuyển hàng tiếp vào nội địa;
công văn trao đổi hai bên có tính cách bình đẳng. Vì việc mở năm hải cảng nên
hiệp ước nầy được các sách Trung Hoa gọi là Ngũ khẩu thông thương điều
ước.
Cả hai bên Anh Quốc
và Trung Hoa đều vi phạm hiệp ước Nam Kinh. Cuộc xung đột lớn xảy ra vào
năm 1856. Quân Anh tấn công Quảng Châu rồi rút lui. Người Hoa tức giận đốt hết
các thương quán, dinh thự của Anh, Pháp, Hoa Kỳ. Cuối năm 1857, liên quân Anh
Pháp đánh chiếm Quảng Châu, rồi tiến lên đánh Thiên Tân (Tianjin hay Tientsin),
đe dọa Bắc Kinh.
Nhà Thanh vội vã ký
hai hiệp ước Thiên Tân riêng lẽ, một với Anh và một với Pháp năm
1858. Hai hiệp ước nầy có những điểm chung sau đây: 1) Đại diện Anh, Pháp tự do
cư trú ở Bắc Kinh. 2) Giáo sĩ Anh, Pháp tự do truyền đạo ở nội địa Trung Hoa,
công dân Anh, Pháp có hộ chiếu được tự do du lịch Trung Hoa. 3) Mở thêm nhiều
thương cảng. 4) Công dân Anh, Pháp được quyền lãnh sự tài phán, nghĩa là nếu họ
phạm tội trên đất Trung Hoa, thì sẽ do lãnh sự của họ xử; nếu họ có tranh tụng
với người Hoa thì sẽ do quan lại Trung Hoa cùng lãnh sự xử. 5) Giá biểu quan
thuế mới sẽ có sự bàn bạc với đại diện Anh, Pháp.
Năm 1859, khi quân
Anh, Pháp đến Bắc Kinh để trao đổi hiệp ước đã được phê chuẩn, quân Thanh bất
ngờ tấn công. Liên quân Anh Pháp liền trả đũa, bắn phá dữ dội. Vua Hàm Phong
(Xian Feng) tức Thanh Văn Tông (Qing Wen Zong, trị vì 1851-1861) bỏ chạy, giao
trách nhiệm cho hoàng thân Cung Thân Vương. Ông nầy thương thuyết và ký hiệp
ước Bắc Kinhnăm 1860, lập lại những điều trong hiệp ước Thiên Tân,
cộng thêm ba điều quan trọng là mở cửa Thiên Tân, bồi thường cho Anh và Pháp
mỗi nước 8 triệu lạng bạc (trong khi theo hiệp ước Thiên Tân, Trung Hoa
chỉ trả cho Anh 4 triệu và cho Pháp 2 triệu mà thôi), và cắt đất gần Hồng Kông
là Cửu Long (Kowloon) và các đảo phụ cận là Stonecutters Inlands cho Anh.
Chẳng những phải
bồi thường cho Anh và Pháp, Trung Hoa còn phải đền công cho Nga, là nước đã làm
trung gian giúp đưa đến hiệp ước Bắc Kinhnăm 1860. Nga được hưởng lợi
nhiều hơn cả Anh và Pháp, vì được Trung Hoa nhượng nhiều đất ở phía tây bắc
Trung Hoa. Từ đó, các cường quốc Âu Mỹ cùng nhau xâu xé Trung Hoa. Năm 1895,
Trung Hoa lại thua Nhật, phải nhượng bộ trong hòa ước Shimonoseki (Hạ Quan) ngày 17-4-1895.
Vào gần cuối thế kỷ
19, bị các nước Tây phương đe dọa, Trung Hoa khốn đốn không kém Việt Nam ở
phương nam, nhưng triều đình nhà Thanh vẫn cứ tự nhận Trung Hoa là thượng quốc,
có ưu quyền ở Việt Nam.
2.- TRUNG HOA TỰ
NHẬN ƯU QUYỀN THƯỢNG QUỐC
Trên đường tìm kiếm
thuộc địa sau cuộc cách mạng kỹ nghệ ở Âu Châu, Pháp viện dẫn lý do triều
Nguyễn đàn áp Ky-Tô giáo, Pháp đem quân tấn công Đà Nẵng ngày 1-9-1858, mở đầu
cuộc xâm lăng Việt Nam. Pháp chiếm các tỉnh Gia Định, Định Tường, Biên Hòa,
Vĩnh Long, buộc triều đình Huế phải ký hòa ước Nhâm Tuất ngày
5-6-1862, nhượng ba tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường (ba tỉnh miền Đông Nam
Kỳ) cho Pháp.
Không dừng lại ở
đó, Pháp tiếp tục chiếm ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ là Vĩnh Long, An Gia, Hà Tiên
năm 1867, và tiến quân ra đánh Bắc Kỳ lần thứ nhất năm 1873, chiếm Hà Nội, Ninh
Bình, Hải Dương, Nam Định. Pháp ép triều đình Huế ký hòa ước ngày Giáp
Tuất 15-3-1874, nhường đứt luôn ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ cho Pháp, để Pháp
trả lại các tỉnh Bắc Kỳ. Hòa ướcGiáp Tuất ngày 15-3-1874 gồm 22 điều
khoản, trong đó điều khoản số 2 nói rằng “Tổng thống Pháp nhận Đại Nam là một
quốc gia độc lập, không phải thần phục nước nào, hứa giúp Hoàng đế Đại Nam nếu
cần, bảo vệ an ninh trong và ngoài nước…”, và điều khoản số 3 tiếp theo “Để đáp
lại sự bảo hộ ấy, Hoàng đế Đại Nam từ nay chịu theo chính sách ngoại giao hiện
thời của nước Pháp…” Nói cách khác, từ nay Việt Nam phải theo chính sách ngoại giao
của Pháp, và không được thần phục hay giao thiệp với nước khác mà không có sự
đồng ý của Pháp.
Khi hòa ước năm
1874 đã được hai bên Việt Pháp phê chuẩn và trao đổi, đại diện Pháp tại Bắc
Kinh là De Rochehouart chuyển bản hòa ước nầy cho chính phủ Trung Hoa ngày
24-5-1875. Triều đình nhà Thanh trả lời rằng: “Chí Giao Chỉ tức Việt Nam bổn hệ
Trung Hoa thuộc quốc.” (nghĩa là: “Từ Giao Chỉ đến Việt Nam vốn là
thuộc quốc của Trung Hoa.”). Câu nầy được tòa lãnh sự Pháp dịch qua Pháp văn
theo nghĩa là: “An Nam
cũng là xứ được gọi là Việt nam. Xứ nầy từng là nước thần phục Trung Hoa.”(1)Do
cách hành văn khác nhau, Trung Hoa nghĩ rằng họ đã phản đối Pháp, nhưng Pháp
lại cho rằng Trung Hoa chẳng phản đối gì.
Trong cuộc tiếp xúc
với thủ tướng Pháp là Charles de Freycinet ngày 25-1-1880, đại sứ Trung Hoa tại
Pháp là Tăng Kỷ Trạch (Zeng Ji Ze) khẳng định với Pháp rằng Việt Nam là chư hầu
của Trung Hoa.(1) Vua Trung Hoa lúc nầy là Quang Tự (Kuang-hsu) hay Thanh
Đức Tông (Qing Te-tsung, trị 1875-1908) mới 10 tuổi và bà thái hậu Từ Hy
(Tzu-Hsi / Ci Xi, 1835-1908) giữ quyền nhiếp chính.
Tăng Kỷ Trạch còn
viết thư ngày 10-11-1880 khi ông đến St Pétersbourg (Nga), yêu cầu ngoại trưởng
Pháp cho Trung Hoa biết lập trường của Paris về những biến chuyển ở Bắc Kỳ.
Trong thư trả lời ngày 27-12-1880, ngoại trưởng Barthélemy St. Hilaire đáp lại
rằng theo điều 2 hòa ước năm 1874, Pháp có bổn phận và trách nhiệm với Việt
Nam. Thư nầy được gởi đến cho Tăng Kỷ Trạch và chính phủ Trung Hoa. Tăng Kỷ
Trạch cho đại diện Pháp ở St. Pétersbourg biết
rằng Pháp có thể chiếm Trung Kỳ, nhưng nếu chiếm Bắc Kỳ thì sẽ gây quan ngại
cho Trung Hoa, vì vùng nầy tiếp giáp với biên giới Trung Hoa. Ngoại trưởng Pháp
liền ra lệnh cho viên đại diện Pháp báo cho Tăng Kỷ Trạch biết rằng từ năm
1874, ngoài nước Pháp Việt Nam đã hoàn toàn cắt đứt liên hệ với các nước
khác.(2)
Về phía Việt Nam,
dầu đã ký Hòa ước Giáp Tuất (15-3-1874), chịu nhận nền ngoại giao
Pháp, vua Tự Đức vẫn gởi phái bộ ngoại giao sang Trung Hoa năm 1876, để chúc
mừng vua Thanh Đức Tông lên thay vua Thanh Mục Tông (Mu-tsung) (trị vì
1862-1874), tức vua Đồng Trị (T’ung-chih) từ trần năm 1874. Tháng 7-1880, vua
Tự Đức còn cử sứ thần sang Trung Hoa thêm lần nữa. Chuyến đi nầy, chẳng những
có tính cách ngoại giao thông lệ bốn năm một lần cống sứ, mà còn để nhờ Trung
Hoa giúp đỡ.
Năm sau (1881),
Trung Hoa gởi Đường Đình Canh sang kinh đô Huế bàn chuyện buôn bán, lập chiêu
thương cuộc. Những sự kiện nầy không thể qua mặt người Pháp. Khâm sứ Pháp tại
Huế là Rheinart đã báo cáo đầy đủ các chuyến đi sứ của Việt Nam sang Trung
Hoa cho thượng cấp ngày 2-8-1882.(Yoshiharu Tsuboii, sđd. tt.
298-299.)
Về phía nhà Thanh,
tại Bắc Kinh, đại diện Trung Hoa phản đối với đại sứ Pháp, cho rằng Việt Nam là
thuộc quốc của Trung Hoa và yêu cầu Pháp rút quân khỏi Bắc Kỳ để duy trì tình
hữu nghị Hoa Pháp. Tại Paris, ngày 6-5-1882, đại sứ Tăng Kỷ Trạch cũng lên
tiếng phản đối Pháp và yêu cầu Pháp rút quân.
Thủ tướng Freycinet
(Pháp) cho rằng lời lẽ của họ Tăng bất nhã, nên yêu cầu đại sứ Pháp tại Bắc
Kinh cho chính phủ Trung Hoa biết rằng sẽ không nói chuyện với Trung Hoa và yêu
cầu Trung Hoa đừng xen vào chính sách Pháp ở Bắc Kỳ.(3)
Về quân sự, ngày
30-6-1882, tổng đốc Vân Nam
(Trung Hoa) loan báo rằng quân đội Trung Hoa sẽ tiến vào lãnh thổ Bắc Kỳ để
truy đuổi các thổ phỉ Cờ đen. Trong tháng sau, tướng Tạ Kính Bưu đem ba doanh
quân Vân Nam
đến đóng tại Quản Ty (Hưng Hóa). [Một doanh khoảng 1,000 quân.] Vào tháng 9,
nhà Thanh cử tướng Hoàng Quế Lan đem mười hai doanh quân đóng ở các tỉnh Lạng
Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Bắc Ninh, và tướng Triệu Ốc đem năm doanh quân đóng
ở Tuyên Quang. Tài liệu Pháp cho rằng số quân Trung Hoa tại Bắc Kỳ lúc đó lên
đến 20,000 người. Dầu vậy, lực lượng Trung Hoa dần dần bị Pháp đẩy lui.
Trong thực
tế, Trung Hoa điều quân qua Việt Nam nhắm mưu lợi, chứ chẳng phải thực tâm
giúp đỡ Việt Nam chống Pháp, nên khi thấy không thể chiến thắng được Pháp,
Trung Hoa quay qua thương thuyết với Pháp để chia phần ở Việt Nam.
3.- TRUNG HOA ÂM
MƯU CHIA HAI BẮC KỲ
Ngày 27-10-1882,
Paris thông báo cho đại sứ Pháp ở Trung Hoa là Bourée biết, trong phiên họp
ngày 21-10, chính phủ Pháp quyết định bảo hộ Việt Nam, để Bourée nói chuyện với
Bắc Kinh. Trước sự cương quyết của Pháp, vào đầu tháng 11-1882, Lý Hồng Chương
(Li Hongzhang hay Li-Hung-Tchang), một viên chức cao cấp trong Tổng lý nha môn,
cơ quan phụ trách ngoại giao của triều đình Trung Hoa, đề nghị với Bourée
rằngTrung Hoa và Pháp chia nhau bảo hộ Bắc Kỳ. Bourée báo cáo sáng kiến của Lý
Hồng Chương về Pháp.
Lúc đó, các chính
phủ Paris kế tiếp nhau, đều muốn chiếm Bắc Kỳ, nhưng vừa ngại tốn kém vì Quốc
hội Pháp không chuẩn chi, vừa ngại đụng chạm với Trung Hoa, nên đường lối của
chính phủ Pháp không rõ ràng và hay thay đổi. Ngày 5-12-1882, Bourée cho Paris biết là Bắc Kinh đã ra lệnh quân Thanh rút khỏi Bắc
Kỳ về Vân Nam
và Quảng Tây. Cũng trong ngày nầy, bộ Hải quân và Thuộc địa ra Pháp lệnh cho
soái phủ Sài Gòn tránh đụng chạm với quân Trung Hoa. (Vũ Ngự
Chiêu, sđd. tr. 291)
Ngày 20-12-1882,
tại Thiên Tân (Tianjin hay Tientsin), Bourée và Lý Hồng Chương ký tạm
ước Thiên Tân về Bắc Kỳ, theo đó Trung Hoa chiếm phía bắc sông Hồng
(vùng núi non và hầm mỏ), và Pháp chiếm phía nam sông Hồng (vùng châu thổ, sản
xuất nông phẩm). Lào Cai được xem là một thương cảng Trung Hoa, nhưng người
Pháp được quyền tự do buôn bán với Vân Nam.(4) tạm
ước Thiên Tân thật ra rất mơ hồ, chỉ lấy sông Hồng chia hai địa phận,
nhưng chưa vạch ra cụ thể ranh giới giữa hai bên Pháp và Trung Hoa ở Bắc Kỳ.
Tuy nhiên, chẳng
bao lâu, Tạm ước Thiên Tân bị Pháp bãi bỏ. Nguyên tại Paris , chính phủ Charles Duclerc
sụp đổ ngày 22-1-1883. Armand Fallières tạm thay một thời gian, thì Jules Ferry
trở lại làm thủ tướng lần thứ hai ngày 21-2-1883. Lúc đó, Pháp dứt khoát về vấn
đề Ai Cập (Egypt )
vì nước nầy đã do nước Anh đô hộ từ 1882. Jules Ferry dồn nỗ lực về phía Việt Nam .
Việc làm đầu tiên
về Việt Nam của chính phủ Jules Ferry là bãi bỏ tạm ước Thiên
Tân mà Bourée đã ký với Lý Hồng Chương, vì theo chính phủ nầy, tạm ước đã
giành cho Trung Hoa quá nhiều quyền lợi ở Bắc Kỳ. Quyết định bãi bỏ được Pháp
báo cho Trung Hoa biết ngày 5-3-1883. Hai tháng sau, đại sứ Bourée bị triệu
hồi. Chính phủ Pháp đưa Tricou, nguyên đại sứ Pháp tại Nhật, sang Bắc Kinh làm
đại sứ từ ngày 1-6-1883.
Ngày 18-8-1883, đại
sứ Trung Hoa là Tăng Kỷ Trạch giao cho chính phủ Pháp lập trường sáu điểm của
Trung Hoa về Bắc Kỳ, theo đó: (1) Ngoại trừ Nam Kỳ, Pháp không được chiếm bất
cứ phần lãnh thổ nào của An Nam; (2) An Nam là chư hầu của Trung Hoa; (3) Pháp
phải triệt binh khỏi những nơi đã chiếm của An Nam, mở một số hải cảng để giao
thương, và các cường quốc có quyền đặt tòa lãnh sự tại các cảng nầy; (4) Sông
Hồng phải được mở rộng để giao thương; (5) Trung Hoa sẽ bảo đảm việc tự do giao
thương trên sông Hồng; (6) Những hòa ước giữa Pháp và Việt Nam phải được Trung
Hoa chấp thuận.(Vũ Ngự Chiêu, sđd.tt. 328-329.)
Trong khi đó, Pháp
đưa quân từ Bắc Kỳ, tiến đánh cửa Thuận An (Huế) ngày 20-8-1883. Thất bại,
triều đình Huế đành xin điều đình và ký hòa ước Quý Mùi ngày
25-8-1883, gồm 27 điều khoản, trong đó điều 1 viết rằng “Nước Nam nhận và chịu sự bảo hộ của nước Pháp với những hậu quả của mối
tương giao nầy theo luật pháp ngoại giao Âu Châu, nghĩa là nước Pháp chủ trương
mọi sự giao thiệp của nước Nam với các nước ngoài, kể cả nước Tàu, và nước Nam
có giao thiệp ngoại giao với nước nào thì chỉ do một mình nước Pháp môi giới mà
thôi.”
Bảo hộ xong Việt Nam , hai ngày
sau, ngoại trưởng Pháp từ chối yêu cầu sáu điểm của Trung Hoa trong thư trả lời
ngày 27-8, và cho Trung Hoa biết rằng Pháp sẵn sàng giải quyết vấn đề an ninh
biên giới và quyền lợi người Hoa buôn bán trên sông Hồng.
Ngoại trưởng Pháp
còn gởi công văn ngày 15-9-1883 cho chính phủ Trung Hoa, một lần nữa xác nhận
rằng Pháp không chấp nhận tạm ước Thiên
Tân ngày 20-12-1882, giữa đại sứ Bourée và Lý Hồng Chương về Bắc Kỳ. Công
văn ngày 15-9 còn đưa ra đề nghị mới của Pháp gồm hai điểm: (1) Lập một khu phi
quân sự giữa hai vĩ tuyến 21 và 22, nếu một bên muốn động binh để đánh dẹp thổ
phỉ thì phải có sự đồng ý của bên kia. (2) Thị trấn Man Hao trên sông Hồng
trong lãnh thổ Trung Hoa sẽ được mở ra cho việc giao thương. Chính sách của
chính phủ Jules Ferry được Quốc hội Pháp hậu thuẫn mạnh mẽ trong cuộc đầu phiếu
tại Quốc hội ngày 31-10-1883. (Vũ Ngự Chiêu, sđd. tt. 330-332.)
Hai chính phủ Pháp
Hoa tranh cãi không dứt về vấn đề Bắc Kỳ. Pháp muốn độc quyền tại miền Bắc Việt
Nam, trong khiTrung Hoa muốn chia một phần Bắc Kỳ cho Trung Hoa, và bảo đảm an
toàn biên giới Việt Hoa. Trung Hoa tin tưởng rằng Pháp khó có thể chiến thắng
lực lượng Trung Hoa ở Bắc Kỳ. Ngoài ra, Trung Hoa còn hy vọng hai nước Anh và
Đức sẽ can thiệp, nhưng lúc đó, Anh đang bận rộn ở Ai Cập và Đức muốn Pháp bành
trướng ở Bắc Kỳ hơn là tập trung lực lượng để chống Đức ở biên giới giữa hai
bên.
Cuối cùng, tại Bắc
Kỳ, Pháp đã đánh đuổi quân Trung Hoa và quân Cờ đen chạy lên miền biên giới,
làm chủ tình hình Bắc Kỳ. Lúc đó, Trung Hoa thấy không thể kiếm lợi được ở Việt
Nam mà còn lo ngại Pháp sẽ tiến chiếm Đài Loan hay Hải Nam để đòi chiến phí,
nên Trung Hoa bắt đầu thay đổi chính sách.
4.- HIỆP ƯỚC THIÊN
TÂN LẦN THỨ NHẤT
(11-5-1884)
Đầu tiên, Lý Hồng
Chương, nhờ một thân hữu tên là Gustav Detring, người Đức, công chức cao cấp
trong ngành thương chánh Trung Hoa và đã phục vụ 20 năm ở Quảng Châu, vận động
với chính phủ Pháp. Vào tháng 4-1884, Gustav Detring đem việc nầy thảo luận với
một người bạn là trung tá Ernest François Fournier, hạm trưởng tuần dương
hạmVolta, đang đóng ở Quảng Đông. Fournier trình bày lại ý định của Lý Hồng
Chương với cấp chỉ huy là phó đô đốc Sébastien Lespès, tư lệnh hạm đội Pháp tại
Trung Hoa và Nhật Bản. Một mặt, Lespès thuận cho Fournier nói chuyện với Lý
Hồng Chương, một mặt Lespès trình về Paris.
Ernest Fournier nhờ
Gustav Detring chuyển cho Lý Hồng Chương một văn thư cho biết các điều kiện về
phía Pháp để đi đến một cuộc dàn xếp với Trung Hoa: giải nhiệm đại sứ Tăng Kỷ
Trạch, từ bỏ ưu quyền đối với Việt Nam, rút lui quân đội Trung Hoa khỏi Bắc Kỳ,
và bồi hoàn chiến phí.(5)
Để tỏ thiện chí,
triều đình Trung Hoa quyết định chấm dứt nhiệm vụ đại sứ ở Pháp của Tăng Kỷ
Trạch, mà vẫn giữ ông ta làm đại sứ ở Anh; và Trung Hoa cử Hứa Cảnh Trừng làm
đại sứ tại Pháp, Đức, Ý, Hòa Lan và Áo.
Cuộc nói chuyện
tiếp tục, Fournier đến Thiên Tân, gặp Lý Hồng Chương và nhanh chóng ký hiệp ước
ngày 11-5-1884, gồm năm khoản, thường được gọi là hiệp
ước Fournier hay hiệp ước Thiên Tân, đại để như sau: 1) Pháp hứa
tôn trọng biên giới Việt Hoa. 2) Trung Hoa cam kết rút quân khỏi Bắc Kỳ và tôn
trọng những hòa ước ký kết giữa Pháp và Việt Nam . 3) Pháp không đòi bồi thường
chiến phí. 4) Hủy bỏ những hiệp ước trước đây giữa Trung Hoa và Việt Nam , và nuớc
Pháp cam kết không làm tổn hại thể diện Trung Hoa. 5) Hai bên thỏa thuận sẽ gặp
nhau lại trong vòng 90 ngày để ký kết hiệp ước chính thức.
Ernest Fournier
tiếp tục thương lượng với Lý Hồng Chương về thời biểu Trung Hoa rút quân. Ngày
17-5, Fournier trao cho Lý Hồng Chương một giác thư (mémorandum) theo đó Pháp
sẽ tiếp thu Lạng Sơn, Cao Bằng ngày 5-6-1884, và Lào Cai ngày 1-7-1884.(Alfred
Schreiner, sđd. tr. 362.)
Nhận được tin nầy,
trung tướng Millot, tư lệnh lực lượng Pháp ở Bắc Kỳ nghĩ rằng Pháp có thể chiếm
đóng vùng Lạng Sơn, Cao Bằng khoảng từ 15 đến 20-6, nên ông cử quân đi tiếp thu
Lạng Sơn. Trên đường đi Lạng Sơn, ngang qua thị trấn Bắc Lệ ngày 22-6, đoàn
quân Pháp bị quân Trung Hoa tấn công dữ dội và gây thiệt hại nặng nề.
Chính phủ Paris
được tin Bắc Lệ, liền ra lệnh cho đại diện Pháp ở Bắc Kinh gởi cho triều đình
Mãn Thanh một tối hậu thư ngày 12-7, yêu cầu Trung Hoa phải ra lệnh quân đội
mình lập tức rời Bắc Kỳ, hạn chót là 31-7, và triều đình Trung Hoa phải bồi
thường 250 triệu quan chiến phí, nếu không Pháp sẽ đánh Trung Hoa.
Phó đề đốc Prosper
Courbet, đang chỉ huy hạm đội Pháp ở Bắc Kỳ, được cử kiêm luôn chỉ huy hạm đội
Pháp ở Trung Hoa, đem quân đến cửa sông Mân ở Phúc Châu (Fou-Tchéou), thủ phủ
tỉnh Phúc Kiến (Fukien) ngày 16-7, trong khi một hạm đội Pháp khác đến đảo Cơ
Long (Kélung) ở eo biển Đài Loan. Ngày 5-8-1884, Pháp bắt đầu tấn công, gây
thiệt hại nặng cho Trung Hoa.
Trên biển, hạm đội
Pháp truy lùng và tấn công các tàu của Trung Hoa, phong tỏa cửa sông Dương Tử
(Yang-tse), vùng Thượng Hải, và cho đến cuối tháng 3-1885, Pháp làm chủ hoàn
toàn quần đảo Bành Hồ ở eo biển Đài Loan. (Quân sử III, Sài Gòn: 1971, tt.
227-228.)
5. HIỆP ƯỚC THIÊN
TÂN LẦN THỨ HAI (9-6-1885)
Trong khi Pháp khó
thắng Trung Hoa, thì rõ ràng Trung Hoa thất thế cả ở Trung Hoa lẫn ở Bắc Kỳ. Cả
hai bên Pháp Hoa đều muốn tìm kiếm một giải pháp hòa bình vì hoàn cảnh riêng
của mỗi bên. Sau những cuộc thảo luận kéo dài, hai bên dự tính đi đến việc ký
kết hòa ước vào cuối tháng 3-1885, thì chính phủ Jules Ferry sụp đổ. Chính phủ
Brisson lên thay thế. Bộ trưởng ngoại giao vẫn là Charles Freycinet.
Cuộc đàm phán về
một hòa ước mới bắt đầu tại thành phố Thiên Tân từ ngày 13-5-1885 giữa hai bên
Pháp-Hoa; kết thúc bằng Hiệp ước hoà bình, hữu nghị và thương mại ký
ngày 9-6-1885 giữa Jules Patenôtre (đại diện Pháp) và Si Tchen, Lý Hồng Chương
(Li Hongzhang / Li-Hung-Tchang) và Teng Tcheng Sieou (đại diện Trung
Hoa).
Hòa ước Thiên
Tân lần thứ hai nầy gồm 10 điều khoản, có thể được tóm lược như sau: Trung
Hoa đồng ý rút quân về nước (điều 1). Trung Hoa nhìn nhận việc Pháp bảo hộ Việt
Nam
(điều 2). Hai bên sẽ tiếp tục hòa đàm về vấn đề biên giới Việt Hoa (điều 3).
Hai bên sẽ thảo luận về một hiệp ước thương mại (điều 5, 6, 8). Pháp đồng ý rút
quân khỏi Đài Loan và Bành Hồ (Pescadores )
(điều 9).
Như thế là chiến
tranh Pháp Hoa về vấn đề Bắc Kỳ kết thúc. Bắc Kinh gởi một phái đoàn đến Hà Nội
để giúp chấm dứt tranh chấp Pháp Hoa, và đưa quân đội nhà Thanh trở về Trung
Hoa.
KẾT LUẬN:
Dầu Việt Nam, quốc
hiệu của nước ta từ khi vua Gia Long lên ngôi năm 1802, là một nước độc lập,
Trung Hoa vẫn mặc nhiên tự xem Trung Hoa là thượng quốc và có ưu quyền đối với
Việt Nam. Khi người Pháp xuất hiện, Trung Hoa tự xem có quyền thương lượng với
Pháp về Việt Nam, muốn chia phần với Pháp và quyết định số phận Việt Nam. Cho
đến khi bị Pháp đánh bại, Trung Hoa đành nhượng bộ, nhưng những nhà cầm quyền
Trung Hoa không bao giờ từ bỏ mục tiêu truyền kiếp là đánh chiếm và đô hộ Việt
Nam.
--------------
Chú thích:
1. Yoshiharu Tsuboii, Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa,
Nguyễn Đình Đầu dịch, TpHCM: Ban Khoa học Xã hội, 1990, tr. 142.
2. Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối nhà Nguyễn 1883-1945, tập
1, Houston :
Nxb. Văn Hóa, 1999, tt. 273-274.
3. Alfred Schreiner, Abrégé de l’histoire d’Annam, Sài
Gòn: 1906, tr. 353.
4. Khối Quân sử, Quân dân Việt Nam chống Tây xâm (1847-1945), Quân
sử III, Sài Gòn: Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam
Cộng Hòa, 1971, tr. 164.
5. Alfred Schreiner, sđd.. tt. 371-372.
*
Mời thư giãn với nhạc phẩm KHÚC HÁT SÔNG QUÊ của
Nguyễn Trọng Tạo, thơ Lê Huy Mậu qua tiếng hát Anh Thơ:
*
TRẦN GIA PHỤNG
Nguyên quán: tỉnh Quảng Nam.
Định cư tại: Toronto, Canada.
Email: trangiaphung@gmail.com
.
............................................................................................................
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 27.07.2017.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang blog Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
0 comments:
Đăng nhận xét