(Nguồn ảnh: internet) |
NGÕ NHÀ NON LẠI MÀU RÊU
(đọc tập
thơ QUÊ của Đỗ Trọng Khơi)
(Nhà thơ Đỗ Trọng Khơi) |
… vườn nhà chim
ngỏ đủ điều ngây ngơ (Tựa). Khiêm cung và cẩn trọng, minh tuệ nhưng bay bổng,
tiếng chim lạ ấy cất lên, không lẫn với chiu chít những giọng hót khác trong
muôn thuở vườn nhà.
Thơ 6 & 8 viết hay quả thực khó, chú tâm, khôn hoạt quá dễ rơi vào
sạch sẽ, thậm chí láu cá, khôn vặt…, nhưng buông thả, hờ hững lại hay lẫn vào
nhạt suông, sáo rỗng… Vậy mà nhà thơ Đỗ Trọng Khơi vẫn “cầm lấy cây sào”, “cái
quạt”… đi trên “sợi dây mảnh” căng giữa hai đầu “Sáu” và “Tám” từ xửa xưa.
Đỗ
Trọng Khơi đã hành trình dưới trời rộng, cố sao tránh được cái bóng của những
đại thụ 6 & 8 như Nguyễn
Du, Nguyễn Bính, Bùi Giáng…, những thành công gần đây của Đồng Đức Bốn, Nguyễn
Duy…, lại không được trượt chân ngã xuống vực sâu của nhảm nhí, tầm thường...
Nhìn Đỗ Trọng Khơi đi trên “sợi dây” lục bát mỏng manh kia, chắc ai cũng có lúc thót tim, rồi đến nay phải
tán thưởng chặng đường diệu nghệ của ông; những bước đi nhuộm mờ
mặt đất tiếng con chim chiều (Thời gian);
trong ánh sáng mơ hồ mà trinh bạch của nắng đựng trong chiếc áo
lờ mờ sương (Chiều); hay theo gót chân mẹ
phủ ngập lối ngõ với gậy tre mẹ chống bềnh bồng ngõ quê (Ngõ quê)…
(Tác giả Mai Văn Phấn) |
Thơ
ông có lúc bảng lảng, mơ hồ mà tinh tế như một bức tranh lụa. Hình ảnh vầng
trăng trong câu thơ sau hiện ra mờ ảo dưới nét bút thanh thoát, tài hoa của
ông: mảnh trăng mỏng mảnh
xanh gầy/ phần treo đầu ngõ, phần bay cuối làng (Nét trăng thu); Giọng chim vẽ một nẻo
sương/ dải trăng thắp một nét buồn tinh mơ (Góc
ngày thu). Thường khi ông giữ cho mình một tâm thế hướng nội lặng lẽ, tuy cô
đơn, nhưng luôn tự tin đến được đích: Bây giờ dắt gió lông
nhông/ gió ơi, đáy của mênh mông chỗ nào? (Ở
thế gian). Hay như muốn săn đuổi đến tận cùng sự mông lung, mơ hồ: Đêm
qua bóng ngả đầy người/ người thì xoá bóng về nơi tuyệt cùng (Bóng); Bầu trời còn gọi khoảng không/ trong
không có khoảng rỗng không tuyệt vời (Thì
tin).
Ông
cũng là người giàu có “chữ”, thể hiện trong những câu thơ trau chuốt với trò
chơi chữ bất ngờ kiểu dân gian: trong
bao la một ta ngồi/ một ta chơi với một người là ta (Ta về cõi ta); cũng tự nhiên ngắt dòng, tạo hiệu ứng đột
ngột như cách “thay đổi hơi thở” trong thủ pháp “hiệu ứng cánh bướm” của thơ
Tân-hình-thức: Một ngôi đất lạ, nữa và/ hai ngôi đất lạ, nữa và…
ba ngôi (Tôi là).
Có câu
thơ nhuốm màu sắc Siêu thực: gặp
ngày ở đỉnh đọn cây rực vàng (Mai đông). Chữ
“ngây thơ” trong bài “Nhớ thương“ đã làm bạn đọc bất ngờ, thú vị: nhớ
người của chốn lòng sâu/ trời thì thẳm đến phai màu ngây thơ.
Cách
nói của cao dao, dân ca cũng thường thấy trong thơ Đỗ Trọng Khơi: học cây dù rách hay lành/ đùm ôm lấy cội lấy
cành mà tươi (Làng); Buồn thì
ra ngó mái đình/ mưa rây bao hạt trắng tinh cả trời (Buồn không mưa).
Từ bài
thơ “Ánh trăng”, viết năm 1988, từng “vỡ ra” trên đường làng, đến nay, bằng
nghị lực và tài năng của mình, ông đã đi những chặng đường dài, dành cho bạn
đọc một tiếng thơ riêng biệt. Ông đã vượt lên hoàn cảnh bệnh tật đặc biệt của
mình để tự tích lũy kiến thức và luôn đau đáu chiêm nghiệm, như con trai ngậm
ngọc lặng lẽ, lớn dần thành báu vật trong cái ao quê lặng lẽ, quen thuộc: Ta về ở ẩn trong ta (Ta về cõi ta); cầm thu chói rực bàn tay cội
cành (Cầm thu)…
Từ lâu
tôi đã coi nhà thơ Đỗ Trọng Khơi là tấm gương về nghị lực, tinh thần ham học và
tình yêu cháy bỏng dành cho thơ ca. Những lúc bị phân tâm, mất lòng tin, hay bi
quan chán nản… tôi thường nghĩ đến ông, tưởng tượng hoàn cảnh ông, và đặc biệt,
nhớ những câu thơ riêng biệt của ông nữa: ngày rơi mê mệt mê tơi/ ùn ùn khí đất thổi trời xanh xao (Chơi đêm); Hữu tình thoắt lại vô tình/ ta
thành chim đất nín thinh giữa trời (Cảm xúc
thời gian). Hay, Tôi nào đã biết gỉ gi/ người đi, chân cũng theo
đi phố phường (Đêm). “Đôi chân” trong câu
thơ ấy trước hết là tưởng tượng của ông về những chuyến du hành trên mặt đất,
là khát vọng lớn lao nhất mà Đỗ Trọng Khơi chỉ có thể thực hiện được trong thơ
ca. Nhiều bài thơ, câu thơ ông viết ra để tự biết cái “gỉ gi” làm ta ứa nước
mắt và càng cảm phục nghị lực và tài năng của ông hơn: từ lâu
tôi thả tôi trôi mịt mùng (Là về trăm năm); Đêm
qua bóng ngả đầy người/ người thì xoá bóng về nơi tuyệt cùng (Bóng); heo may ngậm mảnh trăng vàng rong
chơi…/ nắng nồng theo lối hồn ve lìa ngàn (Thu
sang); Tôi tự chèo lái tôi đi/ đi cho hết cõi không gì mới thôi (Cõi không gì).
Điều
tôi cảm phục nhất khi đọc thơ Đỗ Trọng Khơi là ít thấy cái bi phẫn nảy sinh từ
hoàn cảnh thực tại, mà ngược lại, luôn thấy rõ cái ung dung, tự tại của kẻ sỹ
phương Đông thường được hiển lộ với vẻ trầm tĩnh, tự tin. Điều đó đã làm nên
phong vị và cốt cách thơ Đỗ Trọng Khơi: Tôi hư ảnh, tôi xương da/ tôi khăn áo mỏng như là trần gian/ cầm
câu yêu xuống Địa đàng/ hỏi thăm, đây lối về làng tôi chăng? (Địa đàng vườn ấy…); Tôi đi về phía xa xăm/
Vâng, xa xa lắm, mù tăm tuyệt mù (Giờ đây).
Những
bài thơ tình thường hiếm thấy trong thơ Đỗ Trọng Khơi, nhưng tôi chợt gặp được
cảm xúc mạnh mẽ, tinh khiết, trinh nguyên trong khổ thơ này: Lòng tôi đã lắm phong rêu/ sao thu còn cũng nói
điều non xanh/ sao chiều chẳng đổ ánh nhanh/ sao người mắt cứ long lanh thế
người (Phố chiều thu). Ánh mắt
cứ long lanh ấy như sương buổi sớm tinh khôi
đón được ánh mặt trời. Câu thơ giàu nội lực và khát vọng đưa ông đến với tóc
dài ai thả để sương theo về... Tôi mừng cho ông
đã gặp được “tóc dài ai thả”, được hạnh phúc! Trời cũng chẳng bắt ai khổ quá!
Sống,
chịu đựng và vươn dậy viết như Đỗ Trọng Khơi càng minh chứng cho thấy, hoàn
cảnh, cao hơn là số phận bản thân cũng chỉ là cái cớ cho thi sỹ sáng tạo chứ
không phải là phương tiện hay mục đích để giải thoát. Đỗ Trọng Khơi vốn am
tường kiến thức văn hóa Đông-Tây, tích lũy có hệ thống và phong phú các tác
phẩm văn chương kim cổ, đặc biệt hiểu sâu về triết học cổ đại Trung Hoa… Nhưng
khi sáng tạo, ông thường đẩy tất cả những kiến thức và sự từng trải ấy về phía
sau, dùng cách diễn đạt trang trọng của người xưa cho những nội dung non tươi
đầy kinh ngạc: Lòng trời
như li như lau/ lòng người thoắt đã bợn màu ái ân (Trong gió may lộng).
Cách
ông quan sát và diễn giải những chuyển động xung quanh rất tinh tế và mẫn tiệp: Không gian y một cảnh chùa/ ngày lên thật mỏng,
chuông khua lại rền (Góc ngày thu) ; Những
bức tường đứng thẳng hàng/ và ăn nhẹ nhẹ nhàng nhàng bóng nhau (Những bức tường) là những câu thơ rất lạ và hồn nhiên của
ông. “Những bức tường” - vật vô tri vô giác, nhưng biết đứng “thẳng hàng”, và
chúng ăn “nhẹ nhẹ nhàng nhàng” (mượn cách nói của dân gian) những cái “bóng
nhau”, đã làm cho lý trí của người đọc như lui về phía sau, nhường chỗ cho một
khoảng không vô thức, trong suốt, đẫm màu tâm linh chế ngự. “Những bức tường” ở
đây bỗng trở thành xương cốt gắn bó những thân phận người, che chắn những phận
đời trong cái làng quê bé nhỏ mà giàu lòng nhân ái của ông. Những câu thơ, như không
em Hà Nội riêng tôi…/ liễu trăm tuổi chợt tập yêu/ lấy xanh tơ bẫy tiếng kêu
sâm cầm (Một chiều Hà Nội), hay Vóc
thành phố nhỏ và hiền/ và duyên dáng và dịu êm như là (Một thu) là cách nói thời @, cũng hiếm thấy trong tập thơ
Đỗ Trọng Khơi.
“Quê”, chính là nơi Đỗ Trọng Khơi đã Vai mang đầy ánh trăng mà không thấy nặng/ Mắt
chứa đầy ánh trăng mà không thấy chói trong
“Ánh trăng” cùng với “Hy vọng”, là hai bài thơ của ông từng đoạt giải Nhì cuộc
thi thơ tuần báo Văn nghệ (1989 - 1990). “Ánh trăng” đã gây ngỡ ngàng cho bạn
đọc lúc ấy và tới tận bây giờ, bởi cảm xúc tươi ròng rờn rợn cùng vẻ đẹp tinh
khôi của nó. Sau đó tôi cũng như nhiều bạn đọc chờ đợi nhà thơ Đỗ Trọng Khơi
tiếp tục thi triển cách viết này, và đã có lúc, chúng tôi sốt ruột vì cách đi
ngập ngừng, như cố tình tập cổ của ông…
Đỗ
Trọng Khơi đã thử sức trong nhiều thể loại thơ, nhưng có lẽ lục bát là thành công hơn cả, hợp với tạng của ông hơn cả. Thơ lục
bát của Đỗ Trọng Khơi ít cái ngơ ngẩn, chân quê của Nguyễn Bính, cái siêu hình,
ma quái của Bùi Giáng, cái giọng du ca, biến ảo ngôn ngữ đời thường của Đồng
Đức Bốn… Thơ Đỗ Trọng Khơi nhói sáng nét đẹp của nỗi đau thân phận với cách thể
hiện ung dung, tự tại, nhiều câu thơ ma mị đến u huyền ngỡ như mang nhịp sinh
học, hơi thở của ông.
Trong
không gian ngõ nhà non
lại màu rêu/ vườn nhà chim ngỏ đủ điều ngây ngơ (Tựa), ta thấy “Quê”, là đích đến của nhà thơ Đỗ Trọng
Khơi. Ông ra đi từ “Quê”, đi xa…, thật xa… rồi lại trở về “Quê” làm phục sinh
nét đẹp cổ xưa của thôn làng Việt vùng Châu thổ sông Hồng, để chúng trở nên
huyền hoặc hơn xưa, mới lạ hơn xưa. Đó chính là nơi ông xuất phát, vượt lên khó
khăn, số phận để trở thành nhà thơ tài hoa có bản sắc riêng.
*.
MAI
VĂN PHẤN
Địa chỉ: Số nhà 12/56 phố Cát Cụt,
Quận Lê Chân, TP. Hải Phòng.
Email: maivanphan@gmail.com
.
…………………………………………………………………………
- Cập nhật từ email quanboyman1992@yahoo.com.vn gửi ngày 19.05.2017.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang blog Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
0 comments:
Đăng nhận xét