NHỮNG CUỘC ĐỔI HỌ LỚN
TRONG LỊCH SỬ
1. Từ họ Lý ra họ Nguyễn
(Giáo sư Trần Gia Phụng) |
Đầu năm 1226 (tháng
12 năm Ất Dậu), Trần Thủ Độ tổ chức đảo chánh lật đổ nhà Lý, đưa Trần Cảnh lên
ngôi tức Trần Thái Tông (trị vì 1226 - 1258), lập ra nhà Trần (1226 - 1400).
Nguyên Trần Thủ Độ
ép vua Lý Huệ Tông (trị vì 1211 - 1224) nhường ngôi cho người con gái mới sáu
tuổi là Chiêu Thánh công chúa tháng Mười năm Giáp Thân (cuối 1224), tức Lý
Chiêu Hoàng (trị vì 1124 - 1225). Lý Huệ Tông lên làm thái thượng hoàng, xuất
gia đi tu tại chùa Chân Giáo, pháp danh là Huệ Quang thiền sư. Trần Thủ Độ sắp
đặt cho con cháu của mình là Trần Cảnh, mới tám tuổi, cưới Lý Chiêu Hoàng.
Chiêu Hoàng lại nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh tức Trần Thái Tông.
Để củng cố nhà
Trần, Trần Thủ Độ kiếm cách tiêu diệt tất cả con cháu nhà Lý. Việc đầu tiên là
Trần Thủ Độ bức tử thượng hoàng Lý Huệ Tông. Một hôm ngang qua chùa Chân Giáo
gặp thiền sư Huệ Quang đang nhổ cỏ trong vườn, Trần Thủ Độ nói rằng: “Nhổ cỏ phải nhổ hết rễ cái”. Nghe thế
thầy Huệ Quang trả lời: “Lời nhà ngươi
nói ta hiểu rồi”. Sau đó, Trần Thủ Độ cho người mời thầy Huệ Quang vào
triều bàn việc. Huệ Quang biết ý, vào sau chùa thắt cổ tự vận. (1)
Trần Thủ Độ ra lệnh
đem gả các cung nhân và con gái họ Lý cho các tù trưởng các bộ tộc ít người ở
các vùng núi xa xôi miền biên viễn. Tháng tư năm Nhâm Thìn (1232), nhân việc
ban chữ húy về tiên tổ họ Trần, ông nội của Trần Thái Tông tên là Trần Lý, nên
Trần Thủ Độ đưa ra biện pháp quyết liệt là buộc con cháu họ Lý phải đổi thành
họ Nguyễn.
Gần cuối năm Nhâm Thìn
(1232), tôn thất nhà Lý tập trung làm lễ tế tổ tiên ở thôn Thái Đường, xã Hoa
Lâm (nay thuộc Bắc Ninh). Trần Thủ Độ cho làm nhà tế lễ bằng tre lá trên một
cái hầm, khi con cháu nhà Lý tập trung hành lễ, Trần Thủ Độ ra lệnh chôn sống
hết con cháu nhà Lý để dứt điểm một vấn đề làm cho Trần Thủ Độ lo lắng bấy lâu
nay. Sau cuộc thanh trừng khủng khiếp này, con cháu nhà Lý không còn dám về Bắc
Ninh làm lễ tế hàng năm, và họ thay tên đổi họ sống lẫn khuất trong dân gian để
tránh bị tiêu diệt. (2)
Đặc biệt hoàng tử
Lý Long Tường, con trai thứ của Lý Anh Tông đã bỏ nước ra đi năm 1226, cùng
đoàn tùy tùng khoảng 40 người vượt biên sang lập nghiệp ở Triều Tiên hay Cao Ly
tức Korea. Tám trăm năm sau, con cháu của hoàng tử này đã về Việt Nam thăm lại
đất tổ. (3)
Một câu hỏi cần
được đặt ra là tại sao triều đình nhà Trần buộc họ Lý đổi thành họ Nguyễn mà
không qua họ khác?. Điều này rất khó trả lời vì không có tài liệu cụ thể, chỉ
biết được rằng họ Nguyễn là một dòng họ ít người bên Trung Hoa, và ngược lại họ
Nguyễn có nhiều và có sớm ở nước ta. (4) Phải chăng
Trần Thủ Độ muốn cho họ Lý hòa lẫn trong số đông người Việt rải rác khắp nước?
2. Họ Trần qua họ Trình
Để quân Minh chóng
rút về nước, cuối năm 1427, Lê Lợi chấp nhận giải pháp hòa bình trong danh dự
cho cả hai bên: trước đây quân Minh xâm lăng nước ta dưới chiêu bài “phù Trần diệt Hồ”, nay Lê Lợi đồng ý đưa
Trần Cao lên ngôi, xem như quân Minh viễn chinh đã đạt được mục đích ban đầu là
đưa người họ Trần trở lại ngôi báu, nay rút về nước trong vinh quang. (5)
Sau khi quân Minh
về nước, Trần Cao biết thân phận mình, bỏ trốn về châu Ngọc Ma (Nghệ An), nhưng
bi bắt lại, và uống thuốc độc chết. Lê Lợi lên ngôi vua, tức Lê Thái Tổ (trị vì
1428-1433).
Lê Thái Tổ được
nước không do một cuộc đảo chánh cung đình mà do công lao chiến đấu của chính
ông và gia đình, nên ông ít có thái độ kỳ thị với họ Trần là họ cầm quyền trước
đó. Ông có một sách lược rất khôn khéo là ban quốc tính rộng rãi cho các công
thần. Ngay khi vừa lên ngôi năm 1428, Lê Thái Tổ ra sắc chỉ cho ghi chép công
trạng của những người đã theo vua khởi nghĩa, ban chức tước và quốc tính (họ
của nhà vua) cho 221 người. Đây là đợt ban Quốc tính nhiều nhất trong lịch sử
nước ta, đến nỗi vua Tự Đức đã lên tiếng chê rằng “… cho Quốc tính nhiều quá như thế nầy thì nhàm lắm”. (6)
Việc làm nầy của Lê
Thái Tổ bề ngoài xem ra là một đặc ân, nhưng thật sự là một thủ đoạn chính trị
ràng buộc các công thần bằng cách đồng hóa các quan vào họ nhà vua để dễ kiểm
soát nhằm tránh hậu hoạn. Lê Thái Tổ là một người rất đa nghi. Những công thần
đã cùng ông dày công đóng góp cho công cuộc giải phóng đất nước mà có bất cứ
một biểu hiện nào khả nghi tức thì bị Lê Thái Tổ tiêu diệt ngay.
Nạn nhân đầu tiên
là Lê Hãn tức Trần Nguyên Hãn. Trần Nguyên Hãn dòng dõi Trần Nguyên Đán, lập
nhiều chiến công thời kháng Minh, được phong Hữu tướng quốc và họ Lê năm 1428,
sau khi Lê Thái Tổ cầm quyền. Lê Hãn cho rằng “nhà vua có tướng như Việt Vương Câu Tiễn, không thể cùng hưởng yên vui
sung sướng được”, nên ông bắt chước Trương Lương, xin rút lui về hưu dưỡng.
“Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng”, khi Lê Hãn về ấp Sơn Đông (Sơn Tây ngày
nay) hưu dưỡng, ông vẫn bị gièm pha là mưu toan làm phản. Lê Thái Tổ ra lệnh
cho người đến bắt. Khi thuyền đến bến sông Sơn Đông, Lê Hãn tự trầm mình qua
đời (7) Dĩ nhiên việc trầm
mình nầy cũng là một dấu hỏi lớn không bao giờ được trả lời.
Sau Lê Hãn đến Lê
Văn Xảo tức Phạm Văn Xảo, bị Lê Thái Tổ nghe lời gièm pha ra lệnh phải chết và
tịch thu nhà cửa cuối năm 1430. Dưới triều con của Lê Thái Tổ là Lê Thái Tông
(trị vì 1434 - 1442), thêm ba vị đại công thần bị giết là Lê
Nhân Chú (1434), Lê Sát (1437), và Lê Ngân (1437). Ngoài ra còn có Lê Khả và Lê
Khắc Phục bị triệt hạ vào năm 1451 thời vua Lê Nhân Tông (trị vì 1443 - 1459).
Sau khi Lê Nghi Dân
bị các tướng lãnh phản đảo chánh và lật đổ năm 1460, Lê Thánh Tông (trị vì 1460 - 1497) được sử sách
đánh giá là một minh quân, nhưng lại đi vào vết xe của nhà Trần. Vừa cầm quyền
được hai tháng, Lê Thánh Tông hạ chiếu ra lệnh đổi tên những họ nào đã phạm vào
chữ huý của Cung Từ hoàng thái hậu. Bà nầy tên huý là Phạm Ngọc Trần, người
làng Quần Lai, huyện Lội Dương (Thanh Hóa), vợ của Lê Thái Tổ, mẹ của Lê Thái
Tông, tức bà nội của Lê Thánh Tông. Nhà vua cho rằng bà nội của mình tên Trần
nên yết thị cho dân chúng khắp nước, nơi nào có họ “Trần” đều phải đổi chép
thành chữ “Trình”. (8)
Tại sao thời Lê
Thái Tổ, rồi đến Lê Thái Tông và Lê Nhân Tông, các vua không kỵ huý bà Cung Từ
mà Lê Thánh Tông lại kỵ huý ? Phải chăng sau những biến động của triều đình kể
từ khi Lê Thái Tông bất đắc kỳ tử năm 1442, và Lê Nhân Tông bị Lê Nghi Dân lật
đổ và bắt giết năm 1459, Lê Thánh Tông đã dùng cách kỵ huý (như Trần Thủ Độ
trước đây) để tách ảnh hưởng của họ Trần, hoặc để ngầm đe dọa con cháu họ Trần
đừng kiếm cách lợi dụng tình hình để phục hồi triều đại cũ.
Dầu sao, Lê Thánh
Tông chưa đi đến chỗ quyết liệt như Trần Thủ Độ, nghĩa là Lê Thánh Tông vẫn
chưa tận diệt họ Trần, và để cho những người họ Trần giữ những chức quan nhỏ
như trong đoàn sứ thần gởi sang nhà Minh năm nhâm ngọ (1462) có Trần Bàn, hoặc
trong viện Khâm hình của triều đình lúc đó có Trần Phong, nhưng không thấy có
nhân vật nào họ Trần giữ chức vụ quan trọng mãi đến thời kỳ loạn lạc sau khi
Mạc Đăng Dung đảo chánh (1527) mới thấy vài nhân vật họ Trần xuất hiện trở lại
trên sân khấu chính trị nước ta.
3. Họ Mạc đổi thành nhiều họ
Mạc Đăng Dung thuộc
dòng dõi Mạc Đỉnh Chi, đỗ cử nhân võ và làm đô chỉ huy sứ năm 1508 (mậu thìn),
nhờ thời thế dần dần được các vua nhà Lê tin dùng, thăng dần lên chức thái phó
tiết chế các doanh quân thủy bộ, tước Nhân Quốc Công triều vua Lê Chiêu Tông
(trị vì 1516 - 1522). Quyền hành càng ngày càng lớn, Mạc Đăng
Dung lấn ép vua Lê và cuối cùng đảo chánh lật đổ vua Lê Cung Hoàng (trị vì 1522 - 1527), tự mình lên
làm vua tức Mạc Thái Tổ (trị vì 1527 - 1530) lập ra nhà Mạc.
Nhà Mạc cầm quyền
từ thời Mạc Thái Tổ đến thời Mạc Mậu Hợp (trị vì 1562
- 1592), truyền được năm đời trong 65 năm. Trong
lịch sử, họ Mạc bị lên án về các lỗi lầm sau đây:
Tổ chức đảo chánh
lật đổ nhà Lê, không trung quân (1527).
Đầu hàng nhà Minh
và cắt đất chia cho nhà Minh (1540).
Trước hết, bất cứ
một cuộc đảo chánh nào cũng đều có phản ứng cả. Từ Lê Hoàn, Trần Thủ Độ đến Lê
Quý Ly, tất cả đều bị những cựu quan bảo thủ của triều trước, mất quyền lợi
đứng lên phản đối. Mạc Đăng Dung cũng nằm trong trường hợp đó.
Thứ đến, chúng ta
cần chú ý: ai là người đã lên án gắt gao họ Mạc? Câu trả lời rất rõ ràng là các
sử quan nhà Lê trung hưng là những người đầu tiên lên án họ Mạc. Việc nầy rất
dễ hiểu vì nhà Mạc dẹp nhà Lê, nay trung hưng được thì nhà Lê kết tội nhà Mạc.
Sau đó là các sử quan nhà Nguyễn vì nhà Nguyễn không muốn ai lật đổ ngôi báu
của mình nên lên án tất cả những ai đã tổ chức đảo chánh cung đình.
Nhưng “ở đời muôn
sự của chung”, một triều đại (chính quyền) yếu đuối, kém khả năng cần được thay
thế bằng một triều đại (chính quyền) khác hữu hiệu hơn để cai trị nước, đó là
lẽ tự nhiên, nên việc đảo chánh của Mạc Đăng Dung không đáng bị lên án như các
sách vở trước đây đã làm.
Việc đầu hàng nhà
Minh và cắt đất xin hàng cần được xét lại trong hoàn cảnh lúc bấy giờ. Sau khi
nhà Lê mất ngôi, hai vị cựu thần nhà Lê là Trịnh Ngung và Trịnh Ngang chạy qua
nhà Minh tố cáo hành động của Mạc Đăng Dung và xin nhà Minh đưa quân qua hỏi
tội họ Mạc năm 1529 (kỷ sửu). (9)
Năm 1533 (Quý Tỵ),
Nguyễn Kim tìm được con của Lê Chiêu Tông là Lê Duy Ninh, lập lên làm vua là Lê
Trang Tông (trị vì 1533 - 1648) trong lúc đang lưu vong tại Ai Lao. Lê Trang
Tông sai Trịnh Duy Liễu cùng hơn mười người đi đường biển từ Chiêm Thành theo
thuyền buôn Quảng Đông tới Trung Hoa xin thỉnh cầu nhà Minh xuất quân đánh nhà
Mạc. Năm 1536 (Bính Thân), một lần nữa Lê Trang Tông sai Trịnh Viên yêu cầu nhà
Minh đánh họ Mạc.
Hành động của vua
Lê, kêu gọi người nước ngoài về đánh nước mình, trong đó có ý kiến cố vấn của
Nguyễn Kim, không bị một sử gia nào lên án. Việc làm nầy đưa đến kết quả cụ thể
là nhà Minh cử Cừu Loan làm tổng đốc, Mao Bá Ôn làm tán lý quân vụ đem binh mã
sang ải Nam Quan năm 1540. Ngược lại, trong thế yếu, muốn tránh một cuộc chiến
mà mình nắm chắc phần thất bại, đồng thời dân Việt sẽ một lần nữa bị đặt dưới
ách thống trị trực tiếp của ngoại nhân như thời Mộc Thạnh, Trương Phụ, Mạc Thái
Tổ, lúc đó đã lên làm thái thượng hoàng, đành chấp nhận đầu hàng và chấp nhận
hy sinh danh dự cá nhân, lên ải Nam Quan (Lạng Sơn) chịu nhục. Nhờ sự nhẫn nhục
của Mạc Thái Tổ, nước ta trên danh nghĩa là lệ thuộc Trung Hoa, nhưng trong
thực tế vẫn độc lập một phương, vua Mạc vẫn cai trị đất đai từ Lạng Sơn trở
xuống, đâu có viên tướng Tàu nào bén mảng sang cai trị. Ai cũng bảo Mạc Đăng
Dung đầu hàng nhà Minh vì quyền lợi gia đình họ Mạc, nhưng giả thiết, một giả
thiết không bao giờ có thể quay lại được, Mạc Đăng Dung chống cự quân Minh như
họ Hồ, nước ta bị tái đô hộ, thì nhân dân ta còn khổ biết bao nhiêu nữa. Đàng
nầy, Mạc Đăng Dung một mình chịu nhục cho trăm họ bình yên. Người ta ưa ca tụng
Hàn Tín khi nghèo khổ đã lòn trôn tên bán thịt chợ Hoài Âm (Trung Hoa) như là
một gương nhẫn nhục đáng noi theo, nhưng chẳng một ai chịu chia xẻ với nỗi nhẫn
nhục vĩ đại của Mạc Đăng Dung. Mạc Đăng Dung rất buồn tủi về sự kiện Nam Quan
(Lạng Sơn) nên về nhà chưa được một năm, ông nhuốm bệnh từ trần năm 1541.
Cuối cùng việc cắt
đất nghe ra khá to lớn, nhưng đó chỉ là năm động của những sắc tộc ít người nằm
ở vùng biên giới Hoa Việt: Ty Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát, và La Phù thuộc
châu Vĩnh An, ở Yên Quảng. Chúng ta cần chú ý là những sắc tộc ít người sinh
sống trong các động dọc biên giới Hoa Việt không nhất định về theo chính quyền
Trung Hoa hay Đại Việt, mà chỉ bên nào mạnh thì họ triều cống để được yên thân.
Do đó, việc cắt đất nầy chỉ có tính cách giấy tờ chứ trên thực tế là bên nào mạnh
họ theo.
Trong khi đó, sau
khi trở về Thăng Long, năm 1596 vua Lê Thế Tông (trị vì 1573 - 1599) cử người đem
hình dạng hai quả ấn của nhà Mạc và vua Lê lên Nam Quan cho đại diện nhà Minh
khám xét, nhưng quan nhà Minh không chịu, bắt vua Lê phải thân hành đến gặp.
Vua Lê phải chấp hành, nhưng khi đến nơi đợi lâu quá không được gặp quan nhà
Minh, vua Lê đành trở về, rối năm sau (1597) lên một lần nữa mới được hội
kiến. (10) Sự kiện nầy chẳng khá gì
hơn việc Mạc Đăng Dung lên Nam Quan năm 1540.
Vì quá ham lên án
nhà Mạc, sử sách lơ là những công trạng đáng nhớ của nhà Mạc. Sau khi Trịnh
Tùng chiếm lại Thăng Long, nhà Mạc chạy lên Cao Bằng, rồi chạy sang Trung Hoa.
Trước khi từ trần năm 1594, đại tướng nhà Mạc là Mạc Ngọc Liễn để thư lại dặn
vua Mạc Kính Cung: “… Họ Lê lại trung
hưng, đó là số trời. Còn như dân ta là người vô tội, sao lại nỡ để cho dân mắc
vào vòng mũi tên hòn đạn lâu mãi như vậy! Chúng ta nên lánh ở nước khác, cốt
phải cẩn thận giữ gìn, đừng lại cố sức chiến đấu với họ nữa. Lại dứt khoát chớ
có đón rước người Minh kéo sang nước ta để đến nỗi dân ta phải lần than khốn
khổ …” (11)
Đây không phải lời
nói suông trong cảnh trà dư tửu hậu, nhưng đây là tâm huyết của một con người
sắp nằm xuống trong cơn hoạn nạn cùng cực vì mất nước. Suốt trong lịch sử Việt
Nam, chúng ta thường được nghe những lời nói của Trần Hưng Đạo, Trần Bình
Trọng, Đặng Dung, hào hùng như vó ngựa tổ tiên, nhưng ít khi được đọc những dặn
dò như Mạc Ngọc Liễn, nhân bản, đầy tình tự dân tộc không khác gì lời ru êm ái
trong những câu ca dao mộc mạc.
Điểm quan trọng
nhất là con cháu nhà Mạc đã không kêu nài van xin người Minh đem quan sang đánh
nước ta giống như nhà Lê đã làm. Họ chỉ yêu cầu nhà Minh can thiệp cho họ về
sinh sống đất Cao Bằng. Chính họ đã góp công phát triển Cao Bằng, tạo thế đoàn
kết kinh thượng và biến Cao Bằng thành một vùng biên giới vững chắc để chống
lại Trung Hoa. Công trạng nầy tuy không rực rỡ như đường về phương nam của chúa
Nguyễn, nhưng sử sách cũng không thể quên tuyên dương họ Mạc.
Khi Trịnh Tùng
chiếm được Thăng Long, trung hưng nhà Lê (1593), con cháu họ Mạc tẩu tán khắp
nước, một số lên Cao Bằng, một số chạy vào Thanh Hóa, Nghệ An ẩn trốn, và một
số vào Nam theo chúa Nguyễn. Con cháu họ Mạc đổi ra rất nhiều họ khác nhau.
Sách Thế phả ghi rõ là con của Mạc Đăng Doanh, em của Mạc Kính Điển là Mạc Cảnh
Huống vào Nam
theo Nguyễn Hoàng, sau con là Mạc Cảnh Vinh đổi là Nguyễn Hữu Vinh. (12) Không những chỉ một
họ Nguyễn, mà chắc chắn còn nhiều họ khác nữa. Trước đây, những họ nầy không
lên tiếng vì một mặt sợ các chính quyền quân chủ trả thù, và một mặt việc sử
sách lên án triều đại nhà Mạc ít nhiều gây những ưu phiền cho con cháu họ nhà
nầy. Hy vọng sẽ có một ngày nào đó, con cháu những họ nầy thấy rõ rằng nhà Mạc
không đáng bị lên án như người ta đã làm xưa nay, bỏ qua những ưu phiền không
đáng, sẽ lên tiếng để tìm về gốc gác ông bà mình.
Qua ba cuộc đổi họ
trên đây, lý do chính đưa đến việc đổi họ là do tiên tổ các họ nầy đã lên nắm
chính quyền, lập triều đại, sau bị truất phế và bị nghi ngờ nên con cháu bị bắt
buộc phải đổi họ. Ngược lại, trong lịch sử nước ta, có một dòng họ lớn từ thời
Ngô Quyền lập quốc cho đến nay không thay đổi mà mỗi ngày một phát triển, hưng
thịnh. Đó là họ Nguyễn Phúc ở Gia Miêu ngoại trang, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh
Hóa.
4. Một họ lớn không thay đổi
Theo Thế phả, “Đức Định Quốc Công huý là Nguyễn Bặc, thân
phụ và thân mẫu của ngài không được rõ, ngài được xem là thuỷ tổ của dòng họ
Nguyễn Phúc.” (13)
Nguyễn Bặc (924 - 979) là bạn chí
thân từ thuở hàn vi và là cận thần của Đinh Bộ Lĩnh tức Đinh Tiên Hoàng (trị vì
968 -
979). Khi Đinh Tiên
Hoàng lên ngôi vua, Nguyễn Bặc được phong Định Quốc Công, đứng đầu các công
thần. Năm 979, Đinh Tiên Hoàng bị ám sát, Nguyễn Bặc bắt giết ngay kẻ thích
khách là Đỗ Thích, và tôn phò con của Đinh Tiên Hoàng là Vệ Vương Đinh Tuệ. Lê
Hoàn có ý làm phản nhà Đinh, Nguyễn Bặc chống đồi, cầm quân đánh Lê Hoàn, nhưng
bị Lê Hoàn bắt giết.
Theo sách Thế phả,
tức sách gia phả của dòng họ nầy, từ thời Nguyễn Bặc cho đến ngày nay, thời nào
họ Nguyễn ở Gia Miêu ngoại trang (Thanh Hóa) cũng đều có người giữ những địa vị
cao trong các triều đại, và thường được phong tước công. Chỉ có một thay đổi
nhỏ so với lúc ban đầu là họ nầy lót thêm chữ “Phúc” vào thế kỷ 16. Tương
truyền rằng khi sắp sinh, vợ của Nguyễn Hoàng nằm mộng thấy thần nhân cho một
tờ giấy viết đầy chữ “Phúc”. Có người đề nghị bà lấy chữ “Phúc” đặt tên cho
con, thì bà trả lời rằng: “Nếu đặt tên
cho con thì chỉ một người được hưởng phúc, chi bằng lấy chữ “Phúc” đặt làm chữ
lót thì mọi người đều được hưởng phúc”. Bà liền đặt tên con là Nguyễn Phúc
Nguyên (1563 - 1635, cầm quyền 1613
- 1635). Từ đó, họ Nguyễn ở Gia Miêu ngoại trang
đổi thành họ Nguyễn Phúc. (14)
Dù có người nghĩ
rằng các tác giả Thế phả đương nhiên tâng bốc tổ tiên mình, nhưng không ai có
thể phủ nhận những khuôn mặt lớn trong quá trình lịch sử dân tộc như Nguyễn
Bặc, Nguyễn Nộn (? - 1229), Nguyễn Kim (1468
- 1545), Nguyễn Hoàng (1525
- 1613), Nguyễn Phúc Tần (1620
- 1687, cầm quyền 1648
- 1687) …
Thời điểm cực thịnh
của họ Nguyễn Phúc là việc llên ngôi năm 1802 của Nguyễn Phúc Ánh tức vua Gia
Long (trị vì 1802 - 1819), đóng đô tại Phú Xuân, cai trị một đất nước
rộng lớn nhất so với các triều đại trước, từ Lạng Sơn đến Cà Mau. Các vua
Nguyễn rất đông con nên ngoài việc lập Tôn nhân phủ (15) như các triều
đại trước để quản lý người trong hoàng gia, vua Minh Mạng (trị vì 1820 - 1840) còn làm một
bài đế hệ thi và mười bài phiên hệ làm chữ lót cho con cháu Nguyễn Phúc để phân
định thứ bậc các hệ phái từ con cháu của Gia Long trở xuống.
Năm 1945, vua Bảo
Đại (trị vì 1925 - 1945) thoái vị tại Huế, chấm dứt chế độ quân chủ
tại nước ta, nhưng họ Nguyễn Phúc, vốn rất đông người từ thời các vua Nguyễn,
vẫn cứ phát triển vững vàng, và có nhiều nhân vật nổi tiếng trong khắp các lãnh
vực chính trị, quân sự, văn hóa, học thuật, kinh tế, khoa học … chẳng những ở
trong nước mà cả trên thế giới.
CHÚ THÍCH:
1.- Quốc sử quán triều Nguyễn, Việt sử
thông giám cương mục, gọi tắt là Cương mục, bản dịch của Nxb Văn Sử Địa, Hà
Nội, 1957, tr. 448-449.
2.- Cương mục, bản dịch, tr. 456.
3.- Nguyệt san Làng Văn, Toronto , Canada ,
số 125, tháng 1-1995, tr. 17.
4.- Chỉ cần xem lịch sử danh nhân Trung
Hoa, chúng ta thấy rất ít người họ Nguyễn; trong các từ điển danh nhân Việt Nam ,
họ Nguyễn rất nhiều. Ngày nay, mở danh bạ điện thoại, chúng ta thấy họ Nguyễn
chiếm khoảng gần 50%.
5.- Thổ quan châu Ngọc Ma (Nghệ An), tên
là Hồ Ông, tự xưng là cháu ba đời vua Trần Nghệ Tông (trị vì 1370-1372). Cuối
năm bính ngọ (1426), để đáp ứng ý muốn của người Minh trong các cuộc thương
thuyết, Lê Lợi cho đón Hồ Ông về, đổi tên là Trần Cao, đặt lên làm vua, lấy
niên hiệu là Thiên Khánh. (Cương mục, bản dịch tr. 803-804)
6.- Cương mục, bản dịch tr. 864-865.
7.- Cương mục, bản dịch tr. 880.
8.- Cương mục, bản dịch tr. 1013.
9.- Cương mục, bản dịch tr. 1327.
10.- Cương mục, bản dịch tr. 1418-1419.
11.- Cương mục, bản dịch tr. 1411.
12.- Nguyễn Phúc tộc thế phả, Hội đồng
trị sự Nguyễn Phúc tộc, Nxb. Thuận Hóa 1995, tr. 126. Gọi tắt Thế phả.
13.- Thế phả, tr. 21.
14.- Thế phả, tr. 113. Chú ý: Chữ “Phúc”
còn được đọc là “Phước”.
15.- Sau năm 1954, Tôn nhân phủ đổi
thành Hội đồng Nguyễn Phúc tộc.
*
Mời thư giãn với nhạc phẩm VÌ BÀI CA TẾT CHO EM
của Quốc Dũng qua tiếng hát Quang Lê:
*
TRẦN GIA PHỤNG
Nguyên quán: tỉnh Quảng
Nam.
Định cư tại: Toronto,
Canada.
Email: trangiaphung@gmail.com
.
.
…………………………………………………………………………
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 27.07.2017.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang blog Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
0 comments:
Đăng nhận xét