đến SỐNG CHỤ SON SAO
(Nhà báo Phạm Cao Phong) |
Tôi muốn nhắc
đến tên tuổi Léopold Sabatier vì việc thiếu may mắn hay lệch lạc trong
học hành, dạy dỗ đôi khi lèo lái chúng ta đến bến bờ khinh bạc, xem
thường những dân tộc không phải như mình. Chúng ta vô tình hay quên
những công lao của những người đã đổi tuổi trẻ của họ để giữ lại
những vốn liếng văn hóa quý giá của các dân tộc sống dưới mái nhà
chung các dân tộc Việt nam?
Chúng ta đã vui
mừng nông nổi quá chăng khi một cái gì đó được UNESCO công nhận là
những giá trị vi vật thể, những giá trị văn hóa. Có nên hiểu đó là
vì những báu vật văn hóa ấy đang mai một, mất dần và mai sau sẽ
chẳng còn ai biết rằng những điều quý giá đó đã từng tồn tại?
Vẻ đẹp bước ra từ Trường ca Đăm San
Mới đây thôi, có
người còn miệt thị một đứa con của dân tộc ấy vì cô tự hào với
chiếc vương miện của cuộc thi sắc đẹp. Một việc làm thô thiển và
đáng trách. Song nỗi buồn đó như được khỏa lấp với thành công vượt
trội của ‘Đêm vô thức bản địa’
của đạo diễn âm nhạc Nguyễn Nhất Lý mà tôi đã có dịp giới thiệu
gần đây.
Tại sao một ‘kẻ
thực dân’ như Léopold Sabatier trong con mắt dung tục, hời hợt của những
điều dạy dỗ sai lệch, của sự ấu trĩ lại bỏ 15 năm sống một mình
với cộng đồng 150.000 người dân tộc, chỉ bảo họ, cùng họ xây đắp 600
km đường, trường học, bệnh xá? Những tư liệu này tôi tìm thấy trong
những thư viện ở Paris, mà sao không phải ở Việt Nam? Ông đã cặm
cụi chuyển ngữ từ tiếng Rhade sang tiếng La Tinh một sử thi mà ngày
nay chúng ta được cầm trên tay. Một cuốn sách mà người Pháp từ
năm 1929 đã được đọc.
Nếu không có
truyền thuyết ‘Sơn tinh, Thủy Tinh’,
‘Bánh chưng, bánh dầy’ ‘Đăm Săn’,
sau đó ‘Đẻ đất, đẻ nước’
và gần đây nhất ‘Sống chụ son san’
(Tiễn dặn người yêu), gia tài văn
hóa Việt Nam có côi cút lắm không?Chắc chắn.
Và hôm nay, tôi muốn đề cập tới một tác phẩm vừa được thêm vào trong kho tàng văn hóa dân tộc bản địa, để nhắc nhở rằng, sự miệt thị những di sản nghệ thuật ấy thật đáng trách biết bao.
Và hôm nay, tôi muốn đề cập tới một tác phẩm vừa được thêm vào trong kho tàng văn hóa dân tộc bản địa, để nhắc nhở rằng, sự miệt thị những di sản nghệ thuật ấy thật đáng trách biết bao.
Đến “Sống chụ son sao”
Tôi gặp nhà văn
Nguyễn Khôi tại Hà Nội. Bài thơ "Về Hà Nội" của ông sáng tác năm 2005 nhân
dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng
Long nhận giải thưởng Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Hà Nội, bộ sử
"Cổ Pháp Cố Sự"
đoạt giải thưởng Văn học nghệ thuật Thủ đô 2008.
Gần đây ông cho ra
mắt tác phẩm ‘Chân dung 99 nhà văn
Việt Nam đương đại’. Nhận định và đánh giá một số lượng đến
chóng mặt (99 nhân vật), những cá nhân làng văn theo đúng lời nói ông,
là mến mộ, tạc chân dung những người tài, thành danh. Kể từ
những soái ca của thi đàn như Tố Hữu, Chế Lan Viên, Sóng Hồng, Lê Đức
Thọ… đến những nhà thơ mới
chạm ngõ làng văn như Phạm Lưu Vũ.
Nghĩa cử can
đảm, khó khăn khi phải cô đọng mỗi người trong bốn khổ thơ cả văn tài
và dấu ấn của các khuôn mặt góp sức dựng lên hình hài văn học Việt
nam đương đại.
Khi ông tặng
tôi ‘Sống chụ son sao’,
tôi đã cầm nó hờ hững. Cảm giác đối nghịch, xấu hổ thế chỗ
cho điều này sau khi đọc hết cuốn sách. Xấu hổ về nhận thức
mông muội, mang chất thực dân khi đánh giá các sắc dân khác. Điều
day dứt ấy bắt tôi phải đi đến những bản dân tộc miền núi phía Bắc,
gặp gỡ người dân và ngắm những phong cảnh núi rừng bằng một cảm
nhận hoàn toàn mới, như thu nhận sự rộng lượng của đất trời mà
chiếu sáng cho những góc còn tăm tối trong suy nghĩ. Tôi còn quay
lại gặp nhà văn Nguyễn Khôi thêm một lần nữa, trao đổi với ông để
đoạn tuyệt với những ấu trĩ cá nhân.
Từ những vần thơ
trong ‘Sống chụ son sao’, tôi
cảm động như bắt gặp một giọt mưa dung dị, theo cánh mây mầu cánh bạc
rơi xuống lòng bàn tay. Giọt nước phôi thai cả ngàn năm trước,
hoặc xa xưa hơn nữa đã một lần chạm xuống trái đất này, thấm qua những tầng
đất, róc rách theo dòng suối nhỏ, nhập vào đại dương cuộn sóng, hẹn
hò với những cơn dông vần vũ, rồi chợt nhớ đến mảnh đất đầu tiên đã đáp xuống
mà lần tìm về. Và hôm nay, tôi may mắn thấy giọt nước ấy, long lanh
trong bàn tay mình, bồi hồi lật từng trang thơ cổ, được ví
như 'Truyện Kiều' của dân tộc Thái.
Những vần thơ không
giấy giáng sinh, những vần thơ người nghệ sĩ viết lên không để lại một chữ
ký. Và cả ký tự lưu giữ cuộc đời, lưu giữ khắc khoải, đau đớn viết về thân
phận, về ngang trái ấy có bao nhiêu năm tuổi?
Tôi không
biết. Tôi chỉ đọc được những vần thơ cổ như lịch sử của mảnh đất Việt từ
một bản dịch. May thay, còn những người tìm lại hình hài của một văn hoá
thể hiện qua ngữ nghĩa, hình hài một dân tộc ghi nhận thăng trầm, thơ ca của
họ qua chữ viết. Không nhiều dân tộc, đất nước có may mắn như vậy. Nếu
không, việc biết đến những câu chuyện thần thoại, những vần thơ chỉ tồn tại từ
thế hệ này qua thế hệ khác qua văn học truyền miệng. Và ai khẳng định vốn
liếng đó không bị méo xệch đi?
Bây giờ tồn tại
một dị bản, Thánh Gióng thắng giặc xong, đi tắm ở Hồ Tây đấy sao?
Người mắc nợ lịch sử
Người dịch thơ đôi
khi như người mắc nợ cái nghiệp của lịch sử. Làm thơ, ừ thì chỉ phải nhận câu
khen, câu trách. Dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác chữ khen chưa thấy
đâu, đã ám cái bóng của kẻ giết người, tội đồ tan hoang gia tài mang nặng
đẻ đau của nhà văn, nhà thơ đi trước. Dịch hỏng, chuốc hoạ vào thân, nhận gạch đá tanh lòng, đắng mật.
Thơ mà dịch là mắc nợ
bậc tiền bối, kẻ đương thời. Hiểu cái ý của người xưa, đong đầy câu chữ mà xao
xuyến lòng người nay. Bước từ thời con người chỉ lấy trăng làm bạn bắc
cầu qua thời đương đại, con người khắc khoải nhìn vào không gian xanh
thẳm, băn khoăn ‘không lẽ chỉ trái
đất này sự sống là độc nhất’.
Nhọc nhằn, gian
truân ấy, dễ ai tỏ mà sẻ chia ???
Kiếp hoa rơi vương mầu ca dao
Hiếm có một
trường ca nào có cái tên ‘ngộ nghĩnh’ như vậy.
Nói là trường ca
vì ‘Sống chụ son sao’ gồm
tới 1840 câu thơ. Cái tên cũng gây tò mò ‘Tiễn dặn người yêu’.
Yêu là yêu, là
trái tim xẻ nửa, là nền dân chủ thánh thiện, nhường nhịn, đam mê.
Tình yêu là phiêu lưu, chiếm đoạt, nhà đề biển ‘Có chó dữ’ cũng
mặc.
Tình yêu ấy ở
đây đẹp, tinh tế, hình tượng như trong không gian ba chiều, cuộn xoắn,
quấn quýt khát vọng ngày trầu cau. Viên ngọc ấy, ai đã được nâng niu?
Dây trầu leo cuốn hồn yêu
Ai lại tiễn dặn
người yêu đi lấy chồng? Nhường đam mê, nhường một nửa của mình
cho tình địch mà còn tỉnh, căn với dặn? Hay đó là cao thượng giả
dối, biết thân, biết phận? Hay sự lên gân dối trá được viết
thành lời?
Không phải! Đằng
sau những câu chữ ấy là một nền văn hóa mộc mạc, sơ khai, không bị
Hán hóa, Kinh hóa, tha hóa…Vẫn nguyên sơ, kỳ ảo như Loa thành An Dương
Vương và nàng Mỵ Châu thẫn thờ chờ Trọng Thủy. Ừ mà những câu thơ
này chắc cũng được viết cùng thời đó, thời vương quốc Mân Việt hoang
tàn, Thục Phán xuôi gềnh sông Đà, có Long Môn, nước sâu ‘trăm tầm’, cá
chép vượt lên hóa thành rồng. Mảnh đất nhờ núi sông che
chắn mới tồn giữ được nền thanh bình trầm tĩnh đi qua thời gian, với
ngọn gió khô sảng khoái không làm mục nát những trang chữ, để bây
giờ dưới ánh mặt trời uể oải mà sinh trở lại trong những âm vực
khác.
Nợ 21 năm trai
trẻ xứ Thái, nợ cái chữ, vần thơ mà ít ra ba lần các bậc lắm chữ,
bén duyên càng lần càng thấy tơ vò, chưa đi hết chiều sâu con chữ
ngàn xưa để lại. Xuyên từ bản dịch đầu tiên ‘Sống chụ son sao’ với Điêu Chính
Ngâu (1914-1958), ra mắt năm 1957, một năm trước khi ông mất. Bản
thứ hai của nhà văn Mạc Phi (1928-1996) ra mắt
1960, chỉ ba năm
sau bản dịch lần đầu của nhà thơ Thái Điêu Chính Ngâu. Bản này
bổ sung thêm 242 câu thơ, so sánh và chỉnh lý từ các văn bản sưu tầm
trong các năm 1957, 1958, và năm bản chép tay khác tìm thấy được ở
Thuận Châu, Mai Sơn, Mường La.
Nguyễn Khôi đã
chuyển thể khác góc chuyển ngữ của hai tác giả trước, mà xuôi theo
dòng dân ca, như cái chất quan họ trong ông, để cái hồn, cái chất mộc
mạc xứ Thái vào dòng chảy dân ca đất Kinh Bắc, đất Thăng Long, đất
Việt.
Phảng phất đâu
đây một nàng Kiều của Nguyễn Du.
Cũng 'những điều trông thấy mà đau đớn lòng’
phận bạc kiếp hoa rơi người thiếu nữ sinh ra không phải ngày:
Cúng gà người cũng
chẳng xem
Cúng voi người
ngoảnh mặt xem gọi là
Những thứ ấy sao mà
em có
Phận nghèo hèn khốn
khó kiếm đâu
Người xui chồng nện
thật đau
Gậy phang chập tối,
đêm thâu sáng mờ
Chồng đánh em như
vồ nện bịch
Như Tạo Mường vui
thích đánh chuông
Đuổi em, dao quẳng
xuống sàn
Guồng tơ khung cửi
đạp tan ... đuổi về
Người con gái về
làm dâu bàng hoàng khi thấy lưỡi dao oan nghiệt ném trước mặt như một lời đe
dọa sinh tử của kẻ thất phu. Phận bẽ bàng như khung cửi hàng ngày cúi mặt,
nuốt tủi cực vào câm nín, mong yên bề trong tan hoang, kiếp rạc, thân đợ nhà
người.
Rời nhà này, về
làm dâu nhà khác, cũng vẫn chỉ ‘phận
mỏng cánh chuồn’
"Về chồng mới
em buồn, cáu gắt
"Phơi thóc thì
mắng cót chửi sân
"Hạch chồng
giữa chốn làm quan
"Vào nhà cười
bác, ra sàn khích anh
"Nói xấu mẹ,
đành hanh với bố
"Vào bếp chân
đá đổ chậu nồi
"Dỡ xôi làm vỡ
mâm xôi
Khách vào, mặc áo
để lòi vú ra
Vú quả mướp vòng ba
vòng bảy
Ngủ đệm chê... rận
chấy như sung
Tỉnh ra lại mắng
nhiếc chồng
Tóc em chải ngược,
ghế lồng lật ngang
Cha mẹ than :mua
nàng dâu dữ
Nhà chẳng yên, xấu
hổ, cơm toi
Bạc mười ta trả đủ
rồi
Thôi tống ra chợ
lấy mươi ba đồng
Đổi gạo chẳng ai
màng đến đổi
Đổi muối chẳng ai
tới đổi cho
Nghìn lần, chín chợ
vòng vo
Lá dong một cuộn
đổi cho xong đời...
Con đường nghệ
thuật làm dâu trầy trật trong uất ức, tủi nhục. Cô gái Thái mong ngày cưới
để được búi tóc lên đỉnh đầu như vệt son đỏ của cô gái Ấn bên dòng sông Hằng,
cái hãnh diện yên bề gia thất, lại bị nhà trai coi như cái ‘chải ngược’, bất
cần đời. Cái giá nhà trai mua cô con dâu từ 10 đồng bạc trắng ngày đầu thoắt
cái đem ra chợ bán không được nắm gạo, nhúm muối. Thân gái dặm trường chỉ
còn mỏng tang như những chiếc lá dong cắt bìa rừng gói tròn một bó.
Cái 'duyên mơ' bồng bềnh tình đầu úa
tàn trong xa xôi, chợt thức với nghịch cảnh. Người tình thất thế không lấy được
vì cái nghèo không đồ sính lễ ngày nào thành kẻ đứng ra mua, đứng ra
chuộc 'phận lá dong' gói
những đau buồn, nhức nhối.
Cay đắng hơn,
thoắt sau thời để yêu, thời để say, thời lấy tiếng khèn bên suối, đầu
nương trấn yểm khao khát gặp gỡ thì nay gặp lại cũng chẳng còn nhận
ra mặt. Chỉ còn biết gửi lòng vào vô định, gửi hy vọng vào một hẹn
hò kiếp sau.
Dù thành vợ người
ta, cứ xẻ lòng chờ, em ạ!
Mùa hoa bưởi ngắt
hoa bưởi ngồi mong
Mùa hoa vông ngắt
hoa vông ngồi đợi
Mùa hoa mạ, ngắt
hoa mạ ngồi chờ
Hoa sắp héo, sương
mai em nhúng
Hoa sắp tang, nước
rượu em ngâm
Hoa gói khăn đào 20
năm không phai
19 đời Tạo quan vẫn
thắm
Những câu chữ ấy
tìm ở đâu, trong bể sóng văn học các nhánh dân tộc khác? Cô gái ấy
đáp gì với những dòng nhắn nhủ người tình, lúc kiếp đời
chung tách bến?
Đôi ta yêu nhau,
anh gửi chiếc đàn môi đồng
Còn thương anh, đàn
môi đồng nhớ mãi
Duyên mai sau, đàn
môi đây, hãy lấy nhận người
Cất kỹ trong lòng,
em ơi, đừng nhầm lẫn nhận sai !
Con khóc giơ đàn
môi dỗ nín
‘Sống chụ son sao’ như đi vào một
cuộc vong thân ngậm ngùi, có hàng nghìn giọt nước mắt, con đường đi
tìm một hạnh phúc không thật. Song phải chăng, chính cái hư thực
ấy là giá trị thực của tác phẩm.
Ngày về Trời theo
cánh ngựa bay
Lời thương em nhớ
đừng phai
Hồn thương đừng có
đổi thay cõi trời
Như hóa phép vàng
tươi cánh bướm
Qua hè về đông đến
cưới nhau
Lên cao nguyên Mộc
Châu, tôi gặp nhiều nụ cười của những cô gái Thái.
Ai cũng
biết ‘Sống chụ son sao’.
Phải chăng những
câu thơ ấy có thể chữa lành và an ủi nỗi đau tâm hồn từ thế hệ
này, qua thế hệ khác?
Cám ơn nhà văn Nguyễn
Khôi và công sức của ông đã bỏ ra để chúng ta có một tác phẩm cho
ngày hôm nay.
*
Mời thư giãn với nhạc phẩm GẶP NHAU TRONG RỪNG MƠ
của Bảo Chung qua tiếng hát Tân Nhàn và Trọng Tấn:
*
PHẠM CAO
PHONG
Địa chỉ: Nhà báo tự do thành phố Paris, Pháp.
Email: caophongphotoreporter@gmail.com
............................................................................................................
- Cập nhật từ email khoidinhbang@gmail.com gửi ngày 19.01.2018.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang blog Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
0 comments:
Đăng nhận xét