(Tranh vẽ: Danh nhân Ngô Thì Nhậm ; Nguồn ảnh: internet) |
NGÔ THÌ NHẬM
(1746-1803) HOÀNG HOA ĐỒ PHẢ
KÝ SỰ
ĐI SỨ BÁO TANG VUA QUANG
TRUNG
VÀ CẦU PHONG VUA
CẢNH THỊNH NĂM 1793
*
(Giáo sư Phạm Trọng Chánh) |
Vua Quang Trung từ trần ngày 29 tháng 7 nhuần năm Nhâm Tý
(1792), Ngô Thì Nhậm được triều đình cử làm Chánh sứ sứ bộ sang báo
tang vua Quang Trung và cầu phong vua Cảnh Thịnh.
Ngày 20 tháng 3 năm Quý Sửu (1793) khởi hành từ Thăng Long.
Ngày 27 tháng 3 qua cửa ải Nam Quan.
Ngày 8 tháng 5 tới Yên Kinh. Ở kinh đô nhà Thanh 12 ngày.
Ngày 20 tháng 5 lên đường
về nước.
Tháng 9 mùa thu Quý Sửu về đến kinh đô Phú Xuân.
Sứ bộ được vua Càn Long và
triều đình trọng đãi. Sứ bộ được xem hí kịch, ban thưởng vật báo,
mỗi ngày thực phẩm ba lần, suốt tuần ca nhạc, yến tiệc. Vua Càn Long
làm thơ, viết văn vào thiếp ban cho.
Đọc biểu báo tang vua Càn
Long phê : “Đáng tiếc”, vua tặng một tấm lụa quý “đại cát đạt “của người Mãn Thanh, và
ba nghìn lạng bạc để làm chay. Vua phong ngay cho vua Cảnh Thịnh Quốc
Vương.
Cuộc đi sứ này được Ngô
Thì Nhậm chép trong Hoàng Hoa đồ phả.
“Sứ bộ đi qua các đất
Việt, Sở, Tống, Ngụy, Trịnh, Triệu, Yên tính dài đến hơn một vạn hai
ngàn hai trăm dặm (khoảng gần 6000
km) kể cả đường về tăng gấp đôi, ngày đêm rong ruổi không lúc nào
nghỉ ngơi..
Trên đường đi phàm những nơi
núi sông hiểm yếu, dịch quán dừng chân, những di tích của người xưa,
những cảnh người nay trông thấy, nhất nhất đều vẻ lại rồi đem những
vần thơ đã làm được, cùng những điều ghi chép được trên lầu vách,
bia ký, chép lại ở phía trên bản đồ, để sau này có ai vào công việc
ấy có thể lấy đó làm kim chỉ nam cho đường đi sứ chăng ? “
Ngô Thì Nhậm tự là Hy Doãn, hiệu Đạt Hiên, khi nghiên
cứu thiền học có danh hiệu là Hải Lượng, sinh năm 1746 nguyên quán làng Tả Thanh Oai, huyện
Thanh Trì, Hà Đông. Con quan Ngự Sử
Ngô Thì Sĩ, một gia đình đại thế tộc nhiều đời đỗ đại khoa,
nhận tước lộc cao nhất triều đình. “Gia tộc họ Ngô một bồ Tiến sĩ,”
Năm Ất Dậu 1765 ông đỗ đầu
kỳ thi Hương,
năm 1769 đỗ khoa sĩ vọng
được bổ làm Hiến sát phó sứ Hải Dương.
Năm 1775 ông đỗ tiến sĩ
được bổ làm Hộ Khoa cấp sự trung rồi thăng Giám sát Ngự sử đạo Sơn
Nam, sau đổiu làm Đốc đồng Kinh Bắc.
Năm 1780 xãy ra vụ án Trịnh
Tông, ông được thăng Hữu thị lang bộ Công. Thân phụ mất ông xin về chịu
tang tránh sự dèm pha dư luận.
1782 chúa Trịnh Sâm mất,
kiêu binh nổi loạn ông trốn tránh về quê vợ ở Sơn Nam suốt 6 năm.
Năm 1788 Nguyễn Huệ ra Bắc
lần II, ông được Trần Văn Kỷ tiến cử. Nguyễn Huệ trọng dụng phong ông
làm Tả Thị lang Bộ Lại, tước Trình Phái hầu. Trong giai đoạn giúp
vua Quang Trung tài năng ông được phát huy cao độ trên các lãnh vực
chính trị ngoại giao. Ông được thăng chức Thượng Thư bộ Binh. Nào ngờ
chưa đầy 4 năm vua Quang Trung mất
đột ngột sau một cơn bệnh. Ông được triều đình cử làm Chánh sứ đi
báo tang và cầu phong vua Cảnh Thịnh.
Tình hình chính trị rối
ren triều Tây Sơn, năm 1796 ông rút lui về dinh cũ của cha tại Bích Câu
lập thiền viện, em rễ là Phan Huy Ích lập Bảo Chân quán. Ông viết
Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh và Cúc Thu Bách Vịnh gồm 50 bài Ngô Thì
Nhậm xướng họa với 50 bài Phan Huy Ích.
Năm 1802 triều đại Tây Sơn
sụp đổ, vua Gia Long từ Phú Xuân ra Bắc cùng Nguyễn Nể, ông được gọi
đến cùng Phan Huy Ích dò xét ý
kiến hỏi việc đi sứ, nhưng vua Gia Long chỉ dùng em con họ là Ngô Thì
Vị , Phan Huy Chú, Phan Huy Vịnh. Nguyễn Du, Nguyễn Ức.
Sau đó không lâu ông bị Đặng
Trần Thường, Binh Bộ Thượng Thư triều Gia Long vì có thù riêng, đem ra
kể tội và đánh tại Văn Miếu cùng Phan Huy Ích, Nguyễn Gia Phan.. Sau
trận đánh ông về nhà không lâu thì mất năm 1803 hưởng dương 57 tuổi.
Ông để lại đời các tác
phẩm: Nhị thập nhất sử toát yếu,
Bút Hải Tùng đàm, Ung văn nhàn vịnh, Ngọc đường xuân khiếu, Cúc hoa
thi trận, Thu cận dương ngôn, Cẩm đường nhàn hoài, Hoàng hoa đồ phả,
Hàn Các Anh hoa, Kim mã hành dư, Xuân thu quản kiến, Trúc Lâm tông chỉ
nguyên thanh đều là những sách giá trị trong văn học cổ nước ta.
Trong bài này tôi xin dịch lại thơ đường luật, phú các bài thơ đi sứ của Ngô Thì Nhậm để
tìm hiểu con đường đi sứ của nhà thơ hàng đầu nước ta, mà tiếc thay
toàn bộ sáng tác bằng chữ Hán, thế hệ chúng ta ngày nay đọc các
bản dịch nghĩa như đọc thơ người
ngoại quốc, không thấy được cái hay của một thi tài danh tiếng thời
Tây Sơn.
Đến Lạng Sơn, trước khi qua cửa ải ngày 27 tháng ba. Ngô Thì
Nhậm làm hai bài thơ : Núi sông hai
xứ Lạng. Lạng Sơn và Lạng Giang (nay là Bắc Giang) bờ cõi tiếp nối.
Thông với Kinh Châu, Quảng Đông, Quảng Tây , nối liền hai xứ Cao Bằng
và Tuyên Quang. Tranh đổ ra biển dòng khe chảy xiết. Vươn thẳng lên
trời, đường núi thang treo. Hòn đá tướng Minh Liễu Thăng còn hằn vét
chém. Hòn đá tại đèo Yên Ngựa, tương truyền Lê Lợi chém Liễu Thăng
nơi đây. Tương truyền hồn Liễu Thăng thành hòn đá không đầu có hằn
vết chém. Ngô Thời Vị em Ngô Thì Nhậm, 17 năm sau năm 1807, khi sứ qua đây có làm bài thơ về hòn
đá Liễu Thăng. Khói đền tướng Hán Mã Viện tỏa chặt không qua được
ải Quỷ Môn Quan. Nam Bắc sau khi mở thông cửa ải, có người dẫn đường
đưa xe sứ tới Yên Kinh. Mỗi đoàn sứ sau khi qua cửa ải, vật quà cống
phẩm được quan nhà Thanh mở ra xem xét ở đài Chiêu Đức và đóng dấu
khèn khóa chặt lại. Triều đình nhà Thanh cử ông Vân Trường một vị tướng chỉ huy tiếp đón với quân
hộ tống, đưa từ Nam Quan tới Bắc Kinh và đưa về, qua mỗi địa phương
có quan cung cấp thuyền bè xe ngựa,
phu dịch, bày cổng chào, dịch quán tiếp đón, quân lính canh phòng
nghiêm ngặt đề phòng thảo khấu cướp bóc.
ĐƯỜNG ĐI LẠNG SƠN
Bài I
Sông núi Lạng Sơn
cảnh nối liền,
Đường thông Kinh
Quảng nối Cao Tuyên.
Băng băng khe suối
dồn ra biển,
Đường thẳm thang
treo vút núi lên.
Hòn đá tướng
Minh còn vết chém,
Khói đền tướng
Hán, Quỷ môn ngăn.
Sau khi Nam Bắc
thông qua ải,
Người đưa xe sứ
tới Yên Kinh.
Nguyên tác phiên
âm Hán Việt”
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
LẠNG SƠN ĐẠO TRUNG
Kỳ nhất
Nhị Lạng giang sơn cảnh
giới liên,
Bàng thông Kinh Quảng tiếp
Cao Tuyên,
Khê lưu bôn sứ tranh qui hải,
Lĩnh đạo thùy thê trực
hướng thiên.
Thần kiếm thượng lưu Minh
tướng thạch,
Quỷ môn không tỏa Hán từ
yên.
Tự tùng Nam Bắc thông quan
hậu,
Chỉ điểm tinh biền đái tự
Yên.
Bài hai: Giáp ranh Bắc Lạng có đài tướng Hán,
Mã Viện. Cỏ hoang nước đọng ngỡ hạt ý dí rơi. Tương truyền Mã Viện
thích hạt bo bo, khi về nước có chỡ theo vài xe ý dĩ là hạt bo bo
để dùng. Ông mất, bị người vu cáo là vơ vét chỡ trân châu Giao Chỉ
làm của riêng, nên con cháu không dám đem ông về chôn nơi quê quán. Cây
cối héo tươi xưa nay vẫn thế. Người qua lại khe núi đông đúc chẳng
quen nhau. Đường cái ra đi từ đám cỏ biếc. Ruộng nương bậc thang lộ
khỏi tầng mây xanh. Cảnh quan đẹp nhất sắc trời một dãi. Ban đêm trông
vòm tinh tú rực rỡ sao Đẩu, sao Thai.
Bài II
Bắc Lạng giáp
ranh đền tướng Hán,
Cỏ hoang nước
đọng , hạt bo rơi,
Vô cùng kim cổ,
cây tươi héo,
Không đổi núi khe
người với người,
Từ bãi đường
ra, bờ bát ngát,
Trên cao nương
ruộng, biếc mây trôi,
Cảnh quan kỳ tuyệt
trời xanh thẳm,
Tinh tú đầy đêm
rực Đẩu Thai.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
Kỳ nhị
Bắc Lạng giao cương Hán
tướng đài,
Thác nghi ý dĩ lạc vu lai.
Vô cùng kim cổ thụ vinh tụ,
Bất lão sơn khê nhân vãng
lai.
Đạo lộ kiến tòng thanh
thảo xuất,
Điên trù vãn lục tự vân
khai.
Kỳ quan tối thị trường
thiên sắc,
Trung cực kinh tinh huyến
Đẩu Thai.
ĐĂNG MẪU TỬ SƠN. Lạng Sơn có hai núi
liền nhau gọi là núi Mẹ và núi Con. Cờ sứ buổi sớm lên đường vượt
vòm trời cao, mây khói cảnh vật sát trong tầm mắt. Ngọn núi cao sừng
sững truyền rằng đó là núi Mẫu Tử. Sông chảy quanh co không rõ nước
chảy hướng Đông hay hướng Tây. Ngắm khắp bảy châu không đâu bằng phẳng.
cười vui muôn dặm bỗng gặp gió lành. Đục đẽo từ năm nào mà chuyển
tới. Muốn rõ nhờ Khoa Phụ hỏi Ngu Công. Khoa Phụ là nhân vật thần
thoại có sức lực, thấy mặt trời trước mặt và đuổi theo, giữa đường
thấy đầm Đại Trạch dừng lại uống nước, uống xong ngã lăn ra chết.(
Sơn Hải Kinh). Tích Ngu Công, nhà ông
phía nam Châu Ký có hai núi cao, ông quyết tâm dời núi, có
người cười ông nói : “Tôi không làm xong thì có con tôi, con tôi lại
sinh cháu, cháu lại sinh chắt, mà ngọn núi thì không cao hơn, sao không
san bằng được.”(Liệt Sử)
LÊN NÚI MẪU TỬ
Trời cao xe sứ
bước thong dong,
Cảnh vật trong
tầm mắt ngắm trông.
Sừng sững núi
cao truyền Mẫu Tử,
Quanh co sông chảy
chẳng Tây Đông,
Bảy châu nhìn
khắp không đâu phẳng,
Vạn dặm cười vui
gặp gió trong.
Đục đẽo từ bao
giờ chuyển tới,
Muốn nhờ Khoa
Phụ hỏi Ngu Công.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
ĐĂNG MẪU TỬ SƠN
Tinh mao hiểu phát độ khung
lung,
Vạn vật hoành từ chỉ cổ
trung.
Điệp trĩ mạn truyền sơn
Mẫu Tử,
Hồi lưu bất biện thủy Tây
Đông.
Thất châu mãn nhãn cô di
địa,
Vạn lý hân nhiên hữu cốc
phong.
Khai tạc hà niên di đáo
thử,
Dục bằng Khoa phụ vấn Ngu
Công.
Cờ sứ ruổi rong đường xa, tạm dừng trên núi Thanh Sơn. Sớm
dậy dục tùy tùng đóng yên ngựa. Hình cỏ cây phản phất, bóng hoa
thấp thoáng. Núi đồi xen lẫn nhau chim chóc hót véo von. Lầu canh
lính thú vừa dứt tiếng trống canh năm. Giấc mộng mây sớm trong xóm
hoa còn chưa tàn. Triêu vân là áng mây buổi sớm, tích Sở Hoài Vương đi
chơi nơi Cao Đường đầm Vân Mộng, thấy mình giao hoan cùng thần nữ núi
Vu Sơn: “Sớm làm mây, chiều làm mưa”, ở đây tác giả chỉ giấc ngủ sum
vầy dân chúng trong xóm. Bỗng một vầng đỏ từ đâu nhô lên. Xua tan sương
khói, lộ rõ mặt núi non.
BUỔI SỚM ĐỨNG NGẮM TRÊN
NÚI THANH SƠN
Tạm dừng cờ sứ
trú Thanh Sơn,
Mai sớm dục đoàn
ngựa đóng yên,
Phản phất cỏ cây
hoa thấp thoáng,
Chập chùng đồi
núi tiếng chim muông.
Lầu canh tiếng
trống canh năm dứt,
Gối mộng thôn hoa
mây sớm vương.
Đỏ chói vầng
dương đâu đó tới,
Xua tan sương khói
lại xanh non.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
THANH SƠN HIỂU VỌNG
Sứ tinh thiều đệ trú thanh
san, (sơn)
Tảo khởi thôi đồng sức ngã
an.(yên)
Thảo thụ y hy hoa ẩn ước,
Phong loan tùng tạp điểu
miên man.
Thú lâu dạ cổ thanh sơ yết,
Hoa ổ triêu vân mộng vị
tàn,
Hà xứ hồng luân thôi nhất
khởi,
Bát khai yên vụ kiến sơn
nhan.
Ngô Thì Nhậm đi qua cửa ải,
các bạn từng đi sứ Phan Huy Ích,
Vũ Huy Tấn, Đoàn Nguyễn Tuấn.. tiễn đưa. Ngô Thì Nhậm làm thơ tặng
các bạn: Cờ mao tinh có ngù lông
đưa đoàn sứ lên đường. Ngẫng đầu trông con đường mây nghìn núi thẳm.
Dương Quan tên một cửa phía Tây Trung Quốc trên đường đi Tây Vực, phía
đông nam Nhạn Môn quan đây chỉ Trấn Nam quan. Bờ cõi Trung Quốc xưa giới
hạn đến núi Ngũ Lĩnh. Uy đức bản triều tràn ngập cả cõi xa. Đạo
vua sòng phẳng, đường lối không thiên lệch. Người bề tôi có tấm lòng
trung chính bền vững sẽ vượt mọi gian nan. Lọ phải rót chén rượu
tiễn khi lên đường. Tại cửa ải quan này các bạn từng cưỡi xe sứ đi
rồi lại về.
QUA CỬA ẢI LÀM THƠ LƯU TẶNG
CÁC BẠN
Phất phơ cờ sứ
vượt Dương Quan,
Ngoãnh lại đường
mây núi chập chùng.
Trung Quốc cõi
xưa ranh Ngũ Lĩnh,
Bản triều uy đức
đến muôn trùng.
Đạo vua rộng
phẳng đường không lệch,
Thần tử trung
trinh vượt hiểm nan.
Chẳng phải biệt
ly nâng chén rượu,
Ải quan các bạn đã từng sang.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
QUÁ QUAN LƯU TẶNG CHƯ CÔNG
Mao tinh liệp liệp xuất
Dương Quan,
Nhương phủ vân trình bát
vạn san.(sơn)
Trung thổ đề phong cương
Lĩnh kiệu,
Bản triều uy đức dật khu
hoàn.
Đãng bình vương đạo tuân vô
trắc,
Trinh cố thần tâm lợi khắc
gian.
Bất dụng lâm kỳ châm biệt
tửu,
Chư quân tằng thử cận thiều
hoàn.
Thành Thụ Hàng trên đường
qua Mạc Phủ, nơi Tôn Sĩ Nghị từng đóng binh, cách Nam Quan hai mươi dậm
vào tới Bằng Tường. Thành Thụ Hàng cũ nguyên là bờ cõi nước ta.
Núi non giống như Lạng Sơn nhưng khe suối ít hơn. Mốc đá gọi là mốc
Hạ thạch dậm đường cũng khá dài. Mốc đá Hạ Thạch trên đường Lạng
Sơn đi Bằng Tường, nay nằm trên đất Trung Quốc. Vũ Huy Tấn đời Tây Sơn
có làm bài thơ về mốc đá này tương truyền đó là trụ đồng Mã Viện
phân định biên giới, có ghi: “Trụ đồng chiết Giao Chỉ diệt”. Trụ đồng
ngã nước Giao Chỉ bị diệt vong, vì thế nên mỗi người Việt đi qua,
đều bỏ một viên đá nên lấp cả trụ đồng. Xe nước chuyển trục bên bờ
sông ầm ầm như tiếng sấm. Đài hỏa hiệu trên đường, tàn bay như tuyết
rơi đầy sở canh. Tại Trung Quốc
ngày xưa cứ 10 dặm hoặc 3, 4 dậm có xây đài hỏa hiệu bằng
gạch trên nhọn dưới vuông, đốt lửa trộn phân chồn khói bốc thẳng lên
cao, khi có cấp báo các phong hỏa đài nối nhau đốt lửa truyền tin
đến kinh đô. Một vị đô thống xin hàng còn ra trò trống gì ? Đây chỉ
Mạc Đăng Dung, chức vụ nhà Minh phong An Nam Đô Thống sứ tư đồ thống
sứ. Khiến nghìn đời sau người ta còn nguyền rủa đất Nghi Dương, tỉnh
Kiến An quê hương Mạc Đăng Dung.
THÀNH THỤ HÀNG
Đường qua Mạc
Phủ tới Bằng Tường,
Thành Thụ Hàng
xưa ấy cố cương.
Núi tựa Lạng Sơn
nhưng ít suối,
Đá ghi Hạ thạch
dặm đường trường.
Thủy xa chuyển
trục ầm ầm sóng,
Lửa hiệu tàn bay
tựa tuyết sương,
Đô Thống xin hàng
trò tủi nhục,
Nghìn sau nguyền
rủa đất Nghi Dương.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
THỤ HÀNG THÀNH
Lộ kinh Mạc phủ nhập Bằng
Tường,
Cố Thụ Hàng thành thị cố
cương,
Sơn tự Lạng Sơn, khê giáo
thiểu,
Thạch xưng Hạ thạch lý
thiên trường.
Thủy xa chuyển trục lôi
thiên ngạn,
Hỏa hiệu tiêu đài tuyết
mãn đường.
Đô thống hành thành thành
thậm sự,
Linh nhân thiên tải mạ Nghi
Dương.
Ngày giỗ thân mẫu, đầu canh
năm, Ngô Thì Nhậm đặt hương án trong thuyền hướng về phương Nam bái
vọng. Từ ngày mẹ mất đến nay đã ba kỷ, (một kỷ 12 năm, ba kỷ 36
năm). Kẻ du tử đến nay tóc đã lốm đốm. Ngoài nghìn dặm chỉ có thể
ngữa trông vầng nhật nguyệt. Một thìa canh cúng mẹ khôn dễ rút ngắn
quan san. Trên bến sông bờ bãi quanh co bao bọc. Mơ màng như mặc áo xiêm
cúng tế nơi nhà thờ tự. Trông ngóng mộ mẹ cây tùng bách lên tươi
tốt. Theo gia phả họ Ngô Tả Thanh Oai, mộ của thân mẫu Ngô Thì Nhậm
được đặt tên là Nhân Phần. Thực nhờ tiên ấm hộ trì tốt lành trở về.
TRÊN BẾN NAM NINH CẢM HOÀI
Ba kỷ từ xa
khuất mẹ già,
Người đi tóc bạn
điểm sương hoa.
Ngưỡng trông nhật
nguyệt từ nghìn dậm,
Cúng mẹ thìa
canh tự chốn xa.
Bờ bãi bên sông
quanh quất bọc,
Mơ màng xiêm áo
tế quê nhà.
Nhân Phần tùng
bách xanh tươi tốt,
Cầu mẹ bình an
ban phúc ta.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
NAM NINH CHU THỨ CẢM HOÀI
Tự lai, tam kỷ cách từ
nhan,
Du tử như kim phát dĩ ban.
Thiên lý chỉ kham chiêm nhật
nguyệt,
Nhất đề na đắc súc quan
san.
Tầm giang khâm đái loan ao
xứ,
Thanh miếu y thường mộng mị
gian.
Cảnh ngưỡng Nhân Phần tùng
bách mậu,
Thực bằng tiên ấm bảo khan
hoàng.
Bài phú Ngỡ là tuyết hay trăng
của Ngô Thì Nhậm là một bài thơ hiếm có trong thi ca Việt Nam
tả cảnh tuyết, một sứ thần Việt Nam thấy cảnh tuyết rơi trên đường đi
sứ. Do việc báo tang phải ra đi gấp rút trong mùa đông giá lạnh, không
thể đợi qua tháng nóng. Từ trong xe nhìn ra ngoài trời ngỡ ngàng
không biết đêm tối hay sáng ngày, nhìn lên bầu trời cả sao hôm sao mai
đều biến mất, cây cỏ núi cao bao phủ chập chùng một màu trắng xoá.
Đêm dài chưa dứt canh ư ? sao đã nghe chim chóc hót. Hay trời vừa rạng
sáng ư ? sao đường Bản kiều vắng lặng không một bóng người .(Bản
kiều là đường đi qua các làng người miền núi) Nghi hoặc là tuyết hay
là ánh trăng, ông kêu người đánh xe mà hỏi, người này trả lời khó
nghe, Ngô thì Nhậm đành tự hiểu. Ông đặt những câu hỏi theo Khuất
Nguyên, theo quan niệm Hình Nhi Thượng của người xưa: Xưa đời hồng hoang
vũ trụ còn chưa phân chia. Dưới đất ai tạo thành sông núi. Trên trời
ai bày ra sao mây ? Ở giữa lấy gì làm vật ? Lấy hình gì mà làm
người ? Lại sao chia trên, dưới và ở giữa ? Khiến cho muôn vật đều
họp thành từng loài và chia thành từng đàn? Cái ” lý “ấy sao mà ngô
nghê khó giải ! Cái “khí” ấy sao mà hổn độn không phân ? Sao có cuộc
lợi danh đua đuổi nhau ? Ai là người sơ, ai là người thân? Sao có cuộc
đưa đón nhau phiền phức ? Ai là người giả dối, ai là người chân thật?
Từ khi có thuyền có xe đường giao thông rộng ra. Mới phân biệt đây là
dòng Miêu (người Tam Miêu, người Mèo vùng Tây nam Trung Quốc, vì họ đi
đường núi thoan thoát như mèo,) kia là dòng Huân, (dòng Hung Nô phía
Bắc Trung Quốc).Vừa có cuộc chiến tranh dáo mác sát phạt nhau. Nay
lại bày lễ ngọc lụa hòa hiếu với nhau. Rồi trên đường dài muôn dậm
đi sứ mới phải qua ba lần dịch, đời Chu Thành Vương, xứ Việt Thường
đem cống bạch trĩ, ngôn ngữ bất đồng phải qua ba lần phiên dịch mới
hiểu nhau và gióng ngựa tốt đi sứ. Nơi nào có vết chân người là đều
có cuộc lặn lội xông pha bụi hồng. Thế thì còn nghi ngờ gì tuyết
hay trăng, và suy tính đêm khuya cùng tảng sáng. Chỉ nguyện tấm thân
này luôn luôn mạnh khỏe. Bắc chước xe họ Cừ Bá Ngọc quan đại phu
nước Vệ, giữ lễ ngay cả đêm tối để ruổi rong yên ổn trên dặm trường.
May ra việc đi sứ không mắc phải lỗi lầm. Để chút đền đáp cái ơn
trời cao. Chờ ngày qui lai sẽ sum vầy trong hội Bạch Liên thi xã như
Tuệ Viễn cao tăng chùa Đông Lâm núi Lư Sơn hội 123 thiền sư và danh nho
ngâm vịnh. (Ngô Thì Nhậm thực hiện điều này về sau lập thiền viện
tại Bích Câu, xưng danh Hải Lượng thiền sư viết Trúc Lâm Tông Chỉ
Nguyên Thanh, quy tụ giới sĩ phu Bắc Hà đương thời). Học làm dân ở
đất Hữu Sằn như Y Doãn hiền thần nhà Thương khi chưa giúp vua Thang
cày ruộng vui thích đạo Nghiêu Thuấn.
BÀI PHÚ NGỠ LÀ TUYẾT HAY
TRĂNG
Man mác một màu
ta nào biết ảnh hình gì chừ !
Đêm tối hay sáng
mai ?
Ta muốn nhìn lên
bầu trời thì chừ,
Sao hôm sao mai
đều biến mất.
Ngoảnh nhìn núi
cao trước mặt chừ,
Cây cỏ bao phủ
chập chùng màu trắng móc.
Há phải đêm dài
chưa dứt canh ư ?
Sao đã vang vang
chim chóc hót,
Hay trời vừa
rạng sáng chừ ?
Sao đường Bản
Kiều chẳng thấy bóng ai ?
Ta nghi là tuyết
hay trăng chừ,
Liền gọi người đánh
xe mà hỏi lời,
Nhưng tiếng nói
nghe chừng khó hiểu chừ,
Tay chỉ trỏ,
miệng líu lo hoài,
Thôi thì lòng ta
tự hiểu chừ !
Xưa thuở hồng
hoang vũ trụ chưa phân chừ,
Ai tạo núi sông
dưới đất chừ,
Ai sắp tinh vân
trên trời cao,
Ở giữa lấy gì
làm vật chừ ?
Lấy gì mà tạo
nên con người ?
Lại phân trên
dưới ở giữa chừ,
Muôn vật chia đàn
và hợp loài.
Lý ấy ngô nghê
khó giải chừ.
Khí ấy sao hổn
độn khắp nơi.
Sao có lợi danh
tranh đua chừ ?
Sơ là ai mà thân
là ai ?
Đưa đón làm chi
phiền phức chừ ?
Ai người giả dối
ai chân thật ?
Từ thuở thuyền
xe giao thông chừ !
Dòng Miêu, dòng
Huân biệt giống nòi.
Giáo mác sát
phạt giết nhau chừ.
Ngọc lụa hòa
hiếu bày lễ tân,
Đường dài ngàn
dậm ruổi rong đi.
Rong ngựa vượt
ngàn sóng dặm băng.
Xứ sở nơi nào
vết chân người.
Sương xanh, bụi
hồng lặn lội hoài.
Vậy còn nghi gì
tuyết hay trăng chừ.
Là ngày là đêm
suy tính hoài.
Chỉ nguyện thân
này luôn mạnh khỏe,
Bắt chước xe Cừ
rong ruổi thảnh thơi.
May ra việc sứ
không lỗi lầm,
Chờ ngày quy lai
Bạch Liên Xã,
Làm dân đồng Sằn
cày thảnh thơi.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
TUYẾT NGUYệT NGHI PHÚ
Nhất sắc phân phân, ngô bất
tri kỳ hà vi hề.
Tiêu dữ thần.
Ngô dục quan kỳ thái hư hề.
Trường canh dữ khải minh,
nhi câu dân.
Chỉ tiền sơn nhi thí chiêm
hề.
Thảo thu đôi bạch dĩ luân
huân.
Khởi trường dạ chi vị ương
hề.
Hồ vi hồ điểu thanh ước
lược tương văn.
Tương thanh thần chi sơ hy
hề.
Hồ vi hồ Bản Kiều quýnh
bất kiến nhân.
Dư hữu nghi hồ tuyết nguyệt
hề,
Hoán dư giả nhi tư tuân.
Nãi thù ly chi bất biện
hề,
Thủ chỉ nhi khẩu vân vân.
Hành độc hội ư dơ tâm hề
Vũ trụ hồng hoang chi vị
phân hề,
Hạ thùy vi xuyên nhạc hề,
Thượng thùy vi tinh vân ?
Trung dĩ hà trạng vi vật
hề,
Dĩ hà hình vi nhân ?
Hựu hà vi hồ thượng hạ
trung hề,
Sử loại tụ nhi quần phân ?
Thị “ lý” để không đồng hề,
Thị “khí” để hồn luân ?
Hà danh lợi chi tương trục
hề,
Thục vi sơ nhi vi thân ?
Hà tống nghinh chi tương
phiền hề ,
Thục vi ngụy nhi vi chân ,
Tự chu xa chi ký trần hề,
Bỉ vi Miêu nhi thử vi Huân ?
Ký mâu kích chi tương tầm
hề,
Nải ngọc bạch chi tương lân.
Thủy hữu vạn thiên lý chi
tu đồ hề,
Trùng tam dịch nhi sách hoa
nhân.
Cẩu nhân tích chi sở đáo
hề.
Giai khả lý thanh sương nhi
đạp hồng trần.
Hựu hà nghi kỳ tuyết
nguyệt hề,
Kế hiệu thâm tiêu chi dữ
đại hân.
Nguyện cường khang hồ thử
thân hề.
Hiệu Cừ xa chi lân lân.
Hạnh tư tu chi vô cừu hề,
Kỳ thiểu đáp phù hồng
quân.
Phú Liên Xã chi qui lai hề,
Hiêu hiêu nhiên hy Sằn dã chi
thiên dân.
Buổi sớm thuyền khởi hành ở Tuyền Châu. Tuyền Châu tên một
châu ở phủ Quế Lâm, tỉnh Quảng Tây.
Nhìn chim âu bơi lênh đênh giữa dải Trường giang. Vụt bay đi không
nhớ là bãi nào. Lục xục réo bên thuyền, dòng sông nổi sóng chảy
gấp. Bập bềnh xô mạn thuyền, tiếng thác chảy qua đá kêu sầu. Khi
thuyền đi giữa sông, nghe dưới đáy nước có tiếng kêu lục xục. Đó là
tiếng những hòn đá bị dòng nước cuốn mạnh mà chuyển động. Cuộc thế đầy vơi luân chuyển, há phải
sự bỗng dưng. Cơ trời khép mở dường có an bài, không thể mưu cầu
được. Mấy quyển đồ thư (sách vở văn học), tạm làm thú tiêu khiển.
Lòng ta như chiếc thuyền không, chẳng lo gì nghiêng đổ hiểm nghèo.
Sách Trang Tử, chương Dịch sở : “Dĩ trung tín nhi tế nạn, nhược thừa
hư chu dĩ thiệp xuyên.” Lấy đạo trung tín mà vượt qua hoạn nạn, khác
nào cưỡi chiếc thuyền không mà vượt qua đòng sông.
BUỔI SỚM THUYỀN KHỞI HÀNH Ở TUYỀN CHÂU
Chim âu trôi nổi
giữa trường giang,
Một thoáng vụt
bay chẳng bãi ngàn.
Nước cuộn xô bờ
ghềnh sóng dạt,
Dội thuyền qua
đá thác sầu vang,
Đầy vơi sự thế
ai người hiểu,
Khép mở cơ trời
mưu chẳng bàn,
Mấy quyển đồ thư
khuây khỏa đọc,
Lòng ta thuyền
rỗng chẳng lo toan.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
TUYỀN CHÂU TẢO PHÁT
Trường giang phiếm phiếm
thủy trung âu,
Khoảng khắc phi bôn bất ký
châu.
Đấu ngạn cổn lai thoan thế
cấp,
Lược chu luân khứ trách
thành sầu.
Doanh hư lưu động phi vô sự.
Hấp tịch an bài bất dụng
mưu.
Sổ quyển đồ thư liêu giải
thích,
Na quan khuynh hiểm đáo hư
chu.
Lệ Giang còn gọi là Tả
Giang một con sông tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Tôi đã đi thăm vùng này
năm 2009, vùng Quế Lâm nổi danh Trung Quốc : “Quế Lâm cảnh đẹp nhất
trần gian “, phong cảnh rất giống miền Bắc Việt Nam, làng mạc với
lũy tre xanh, vườn chuối, ao sen, nhà nào cũng có hai câu đối đỏ
trước cửa, nông dân cày bừa trên những mảnh ruộng nhỏ với con trâu,
cái cày. Hai bên bờ sông Lệ Giang là núi đá vôi chạy thẳng tới Vịnh
Hạ Long, phong cảnh tranh thủy mặc vẽ từ các núi đá vôi vùng này.
Dân cư 18 triệu người Tráng còn gọi là Nùng hay Nông có chữ nôm riêng,
là thiểu số đông dân nhất Trung Quốc. Trên sông họ nuôi giống ngỗng đen để bắt cá. Ngô Thì
Nhậm viết : Dãi núi dốc đá dài
năm dậm, bờ đê dài mười dậm. Nhà thôn xóm xen lẫn, ẩn trong bụi tre.
Chòm cây rợp áng mây chiều, vẳng nghe tiếng chim hót. Quanh bến đò xưa
thường thấy từng bầy cá dỡn bên thác đá lạnh. Đoàn chèo thuyền hò
đua nhau, nhiều tiếng người Ngạn. Trung Quốc còn gọi người Miêu là
người Ngạn. Bán cũi đổi gạo phân nửa người ăn mặc sắc áo Nùng.
Nước sông Lệ chảy xiết, thuyền sứ vượt sông rất mau lẹ. Tưởng như
cưỡi chiếc bè sông Ngân có ánh sao Bắc Đẩu lấp lánh. Tích Trương
Tịch cỡi bè ngược sông Hoàng Hà đi sứ sang Tây Vực (đến A Phú Hãn )
đời Hán.
NHÀN VỊNH CẢNH SÔNG LỆ
Núi dài năm dặm
đê ngàn trùng,
Xóm nọ nhà kia
tre trúc lồng.
Cây rợp ngàn mây
chim chóc hót,
Giỡn bờ thác đá
cá tung tăng.
Thuyền đua hò
hét lời dân Ngạn,
Gạo đổi cũi
rừng áo kẻ Nùng.
Thuyền sứ vượt
dòng sông Lệ xiết,
Ánh sao Đẩu ngỡ
vượt sông Ngân.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
LỆ GIANG NHÀN VỊNH
Ngũ lý huyền nhai thập lý
đường,
Thôn lư thác lạc ẩn tùng
hoàng.
Mộ vân mật thụ văn đề
điểu,
Cổ độ hàn cơ kiến hý
phường.
Đấu trạo hô đoàn nhiêu Ngạn
lỵ,
Mãi sài hoán mễ bán Nùng
trang.
Lệ xuyên thủy cấp thừa lan
khoái,
Nghi thị Ngân xa phiếm Đẩu
quang.
Sông Ly Giang thuộc tỉnh Quảng Tây, phát nguyên từ Toàn Châu
chảy đến Ngô Châu thì hợp dòng với Tầm Giang. Bài Mùa thu đi thuyền
trên sông Ly Giang viết : Một núi
một sông thay đổi nhau đón tiếp ta. Màu sông sắc núi cùng một vẻ
thanh tú. Thu tháng tám lửng lờ làn khói nhẹ. Đêm canh ba đầm đìa
hạt sương lạnh. Thuyền bè chật bến, buộc tấm ván dài. Đàn tỳ bà
tiễn khách ca hát nơi đoản đình. Cuộc chơi tang bồng vùng vẫy, thường
mong ước đến cái đêm thả thuyền trên sông Xích Bích. Một khúc ca
Thương lương, rắp những giặt bụi ở giải mũ ta. Sách Mạnh Tử, bài
Hữu nhu tử ca viết: ‘Thương lương chi thủy thanh hề, khả dĩ trục ngã
anh”. Có em bé hát rằng: “sông
Thương Lương nước trong chừ, có thể giặc dải mũ ta”.
MÙA THU ĐI THUYỀN TRÊN SÔNG LY GIANG
Một núi một sông
đón tiếp ta,
Màu sông sắc núi
vẻ thanh hòa.
Mùa thu tháng
tám bay sương khói,
Khí lạnh canh ba
sương móc sa.
Ván dài đông
chật thuyền neo bến,
Đoãn đình tiễn
khách tiếng tỳ bà.
Vùng vẫy tang
bồng thuyền Xích Bích,
Giặt mũ Thương
Lương một khúc ca.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
LY GIANG THU PHIẾM
Nhất sơn nhất thủy diệt
phùng nghinh,
Thủy sắc sơn quang nhất
dạng thanh.
Đạm đãng khinh yên thu bát
nguyệt,
Tư nhương hàn lộ dạ tam
canh.
Mê tân kha trạm duy trường
bản,
Tống khách tỳ bà xướng
đoản đình.
Hồ thỉ tráng du hy Xích
Bích,
Thương lương nhất khúc trạc
trần anh.
Bài ngâm mĩm cười . Buổi
sáng khởi hành từ thành Nam Ninh tỉnh Quảng Tây. Buổi chiều tối năm
nghỉ ở cửa sông Tam Giang, nơi hợp lưu ba con sông Uất Giang, Lãng Giang
và Trinh Giang cũng thuộc tỉnh Quảng Tây. Nước mùa thu trong suốt và
yên lặng. Sắc núi mùa thu xanh tươi, trông xa thấy rõ. Trên khoảng trời
rộng không có khói mây. Dưới làn ao tĩnh lặng ít bụi bậm. Đẩy mui
thuyền nhìn xem màu sắc núi non. Ngồi ngẫm nghĩ trước cảnh vũ trụ
bao la. Ta đi sứ con đường muôn dậm. Mùa qua mùa lại kể phải ba mùa.
Những điều mắt thấy và tai nghe. Cõi Nam cõi Bắc thật là thú vị.
Mặt trời, mặt trăng ở chỗ nào cũng là ở giữa. Núi sông tùy mặt
đất mà tụ lại. Lời nói đất “ Lạc Dương như lòng đỏ trứng gà “ chia
đều là sai. Nguyên chú :” Hoặc nói đất Lạc Dương là giữa cõi đất,
như quả trứng gà phân đôi tròng đỏ với tròng trắng. Nhưng đất Hứa
Xương chỉ cách Lạc Dương 40 dặm lại không như thế.” Trung Quốc so sánh
Trung Châu là vùng các kinh đô cũ
Hoa Hạ Trung Quốc trong đó có: Lạc Dương, Khai Phong, Hứa Đô, Hàng
Châu.. là vùng tròng đỏ trứng gà. Người Hoa ví nước mình là trung
tâm của thế giới nên gọi tên nước
là Trung Quốc. Do kiến thức hạn hẹp ngày xưa, nước nào cũng cho nước
mình là cái rốn của vũ trụ cả. Lời nói “ba gái một trai “ là lầm.
Nguyên chú sách Kiên Hồ tập nói : “Vùng đất Kinh, Dương con trai hai,
con gái ba, ngoài vùng Bách Việt thì con gái ba con trai một”, nhưng
xét số sinh trai gái của nhân dân thì vùng Yên, Triệu và vùng Sở,
Việt đều như nhau cả. Lời nói “man di và Trung Quốc âm dương khác nhau”
cũng là lời nông cạn, quê kệch. Xưa nay lẽ trời đều ở tại “lòng
người”. Chỉ phong khí có nơi khai hóa trước, nơi khai hóa sau. Nhưng
đều biết tôn quân vương, đều biết yêu cha mẹ. Tiếng nói thì âm “dấu
“khác mà “thanh” vẫn giống nhau. Mọi kiến thức cũng do một khiếu tâm
tình mà ra. Đường hoàng thay Chu Phu Tử, tức Chu Hy danh nho đời Tống.
Lời nói một đại hiền thật thấu suốt. Ông khen ngợi những dân tộc miền
Tây Nam, có nhiều người giỏi văn tự. Chắc nền văn hiến của họ đã mở
mang từ lâu. Há chỉ riêng Trung Quốc mới có tiến hoá sao ? Lời nói
thật khoáng đạt rất hợp lòng ta. Ta về bảo với các bạn hữu ta :
Chúng ta may mắn được sinh ở nước Nam. Nghiễm nhiên là người lưng đai,
dải ấn. Đừng bảo chúng ta kém văn phong Trung Quốc, đất Việt Thường
xưa có nhiều bậc “hoàng cẩu “(người già tuổi thọ cao). Đời Chu Thành Vương có họ
Việt Thường sang hiến chim trỉ trắng nói là vâng lệnh các bậc hoàng
cẩu trong nước, phải qua ba lần phiên dịch mới hiểu nhau. Hãy xem sông
Minh Ninh kia, dòng nước cuồn cuộn chảy về đông. Sông ấy bắt nguồn từ
đâu ? Từ phương Canh Dậu chuyển sang Ngọ Đinh. Ngọ Đinh và Canh Dậu chỉ
hai phương vị tây và nam của Việt Nam. Câu này nói Việt Nam có truyền
thống văn hóa, phát triển song song với Trung Quốc.
BÀI NGÂM MĩM CƯỜI
Sáng từ thành
Nam Ninh,
Chiều đến Tam
Giang Khẩu.
Mùa thu dòng
nước trong,
Sắc núi thu xanh
thẳm.
Trời xanh không
khói mây,
Ao lạnh không bụi
vướng,
Đẩy mui nhìn núi
xanh,
Trầm ngâm nghĩ
vũ trụ.
Đi sứ muôn dậm
đường,
Ba mùa qua lại
đủ,
Mắt nhìn và tai
nghe,
Nam Bắc đều lý
thú.
Nhật nguyệt cùng
giữa trời,
Non sông mạch hội
tụ.
“Lòng đỏ “ chia
đều sai,
“Ba gái, một trai
“ ẩu,
Di Hạ khác âm
dương,
Lời này thật
nông cạn,
Lẽ trời ở lòng người,
Phong khí trước
sau có.
Cùng biết tôn
quân vương,
Cùng kính yêu cha
mẹ.
Âm khác thanh
giống nhau,
Kiến thức do tâm
có.
Chu Phu Tử đường
đường,
Lời hiền thật
hiểu thấu.
Khen ngợi dân Tây
Nam,
Nhiều người giỏi
văn tự.
Có văn hiến từ
lâu,
Há chẳng riêng
Trung Quốc.
Lời ấy thực
lòng ta,
Về nói cùng bạn
hữu,
May ta sinh nước
Nam,
Nghiễm nhiên lưng
đai ấn,
Đừng bảo ta văn
kém,
Việt Thường
nhiều kỳ tài,
Hãy nhìn sông
Minh Ninh,
Cuồn cuộn về
đông chảy,
Bắt nguồn từ nơi
đâu ?
Ngọ Đinh đến Canh
Dậu.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
HOÃN NHĨ NGÂM
(Ngũ ngôn cổ phong, nhị
thập vận)
Triêu phát Nam Ninh thành,
Mộ tức Tam Giang Khẩu.
Thu thủy tối trừng ngưng,
Thu sơn diệc thanh sấu.
Trường không vô vân yên,
Tĩnh đường thiển trần cấu.
Tôi bồng khán thúy vi,
Trẩm ngâm tưởng cao hậu.
Ngã hành vạn lý trình,
Lai khứ tam thời hậu.
Mục đỗ dữ nhĩ văn,
Nam Bắc vô thù thú.
Nhật nguyệt đảo xứ trung,
Sơn hà tùy lý thấu.
“Kê noản bình phân” ngoa.
“Nữ nam tam nhất” mậu.
“Di hạ âm dương phân”,
Thử ngôn thái thiển lậu.
Thiên lý tại nhân tâm,
Dân khí phong tiên hậu.
Giai tri tôn quân vương,
Giai tri thân phụ mẫu.
Âm dị thân tác đồng,
Kiến thức nhất tình đậu,
Đường đường Chu Phu Tử,
Hiền ngôn cực suy thấu.
“Thịnh suy tây nam phiên,
Văn tự đa cao thủ,
Tất hữu khai kỳ tiên,
Bất độc quốc trung hữu.”
Khuếch nhiên dung ngã tâm,
Qui ngô ngứ ngã hữu :
Hạnh tai sinh Nam bang,
Nghiễm nhiên hội thân thụ.
Vật vị ngã bất hoa,
Việt thường hữu “hoàng
cẩu.”
Thí khán Minh Ninh giang,
Cổn cổn thủy đông tẩu,
Phát nguyên hà sở tự,
Ngọ đinh chuyển canh dậu.
Từ Tân Chân thuộc Quảng
Đông trở đi đường qua các đồi núi, và nhiều khe lạch. Đi giữa dòng
sông, mỗi khi nước lũ ở các khe lạch dồn về, dòng sông không chảy
thoát kịp, xô vào thác đá, gây thành tiếng sóng ì ầm, ngày đêm không
ngớt, nhất là mùa mưa nhiều. Bài Tiếng nước, ông viết : Nước vốn không tiếng mà lại có tiếng.
Vì ai mà kêu ầm ỉ trên sông kia. Thuận dòng chảy xuống nguyên vẫn yên
lặng. Gặp tảng đá chắn ngang, mới nổi cơn bất bình. Khi chưa trừ
được vật chướng ngại nước liền giận dữ. Chỗ có lượng bao dung, khúc
sông lớn không tranh giành gì. Người quân tử thái hòa, hãy nên hiểu
thấu nội chất. Một làn ánh bạc sông trong suốt tận đáy.
TIẾNG NƯỚC
Nước không tiếng
lại reo thành tiếng,
Ầm ỉ vì đâu réo
bến sông.
Sông chảy xuôi
dòng thường lặng lẽ,
Đá ngăn, dòng
xiết bất bình dâng.
Chưa trừ chướng
ngại sông cuồng giận,
Khúc rộng bao
dung chẳng đấu tranh.
Quân tử thái hoà
nên tự hiểu,
Thấu suốt lòng
sông bạc sắc trong.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
THỦY THANH
Thủy bản vô thanh khước hữu
thanh,
Tăng oanh giang thượng vị
thùy minh.
Trường lưu thuận chú nguyên
thường tĩnh,
Đoạn thạch hoành lan, nãi
bất bình.
Ngạch vị khứ thời, ưng hữu
nộ,
Lượng năng vô xứ tiện vô
tranh.
Thái hoà quân tử tu tiềm
hội,
Thấu triệt ngân quang đáo
đề minh.
Ngô Thì Nhậm lúc qua phía Bắc thành Ngô Châu có một núi
gọi là Cửu Nghi. Ở đây là quận Thương Ngô nhân đó mà biện luận hư
thực về chuyện này. Ông chú thích: ‘Thuyết vua Thuấn chết chôn ở Cửu
Nghi xuất phát từ thơ Ly Tao của Khuất Nguyên’. Sử ký đời Hán viết:
‘Thuấn chết chôn ở cánh đồng Thương Ngô’, Thạch Lượng Vương (?) biện
luận sâu sắc về cái sai của ý kiến trên. Lại theo Anh Đài Yên Thoại
của Bùi Quỹ (1796-1861) chú về Cửu Nghi như sau : ‘Tương truyền ở phía
Bắc thành Ngô Châu có một núi gọi là Cửu Nghi, Thuấn chết chôn ở
đấy, nay xét Cương Mục tập lãm : Thuấn băng ở Thương Ngô, chôn ở Linh
Lăng và lời chú nói : Thương Ngô là tên núi, lại có tên là núi Cửu
Nghi, ở huyện Ninh Viễn, phủ Vĩnh Châu tỉnh Hồ Nam.. Vả lại quận
Thương Ngô là đất Bách Việt cổ, nhà Tần gọi là Quế Lâm, nhà Hán
gọi là Thương Ngô, ở ngoài hoang phục mấy nghìn dậm, mà vua Thuấn
chỉ đi hành thú đến Hành Sơn, Hồ Nam thôi. Người sau lầm núi Thương
Ngô ở Hồ Nam với quận Thương Ngô ở Quảng Tây.
Ông viết: Núi Cửu Nghi chôn vua Thuấn từ lâu đã truyền mối
ngờ. Hư thực nên theo sự lý mà suy. Ngoài ngũ phục, ngọc hoàn khuê
chẳng phải thuộc đất Việt. Ngoài kinh đô đất vương kỳ ra thì có năm
phục mà cuối cùng là hoang phục. Theo thiên Vũ Cống, Kinh Thư thì ‘năm
phục’ đến Hành Sơn, ngoài ra là ở hoang phục. Hoàn khuê là thứ hốt
ngọc vua ban cho chư hầu cầm lúc vào chầu. Ý nói Ngũ phục vào chầu
không có đất Việt (Quảng Đông và Quảng Tây) như vậy làm gì có việc
vua Thuấn đi tuần tới Thương Ngô của đất Việt. Bảy tuần nhảy múa là
rút quân về. Theo Ngu thư, Kinh Thư, dân Miêu nghịch mệnh, vua sai Vũ đi
đánh ba tuần (một tháng) mà chưa được, cuối cùng lui quân, múa ‘can
vũ’ (múa lễ nhạc), sau bảy tuần
thì Miêu quy thuận. Thế tức là không có chuyện vua Thuấn đem quân ra
ngoài hoang phục. Như vậy làm gì có chuyện các vua chư hầu đến chầu
Thuấn ở Thương Ngô tận đất Việt ngoài hoang phục, cũng không có
chuyện hai bà phi Nga Hoàng và Nữ Anh khóc vua Thuấn nhỏ nước mắt
trên cây trúc thành trúc đốm. Đặt ra lời xuyên tạc rất nhảm nhí. Đó
là chuyện các nhà nho đời Hán đặt ra để bán sách. Tiền người ta mua
sách chỉ để cứu đói các nhà Nho đời Hán.
NGỜ NÚI CỬU NGHI
Vua Thuấn truyền
chôn núi Cửu Nghi.
Thực hư theo lý
sự mà suy.
Ngọc khuê, Năm
phục không quê Việt,
Nhảy múa ba tuần
quân rút đi,
Chẳng chuyện
Thương Ngô chư chúa đến,
Làm gì trúc đóm
khóc bà phi.
Đặt bàn nhảm
nhí lời xuyên tạc,
Cứu đói Hán nho
sách đặt bày.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
NGHI CỬU NGHI
Cửu Nghi táng Thuấn cửu
truyền nghi,
Hư thực tu lòng sự lý suy.
Ngũ phục hoàn khuê phi nội
Việt,
Thất tuần can vũ thủy ban
si.(sư)
Thương Ngô ná đắc triều
quản hậu,
Ban trúc hà tầng khấp nhị
phi.
Xuyên tạc xuất lai thù mạnh
lãng.
Cầu kim chỉ liệu Hán Nho ky
(cơ).
Đi trên sông Tiêu Tương . Buông mắt nhìn lên bầu trời, mái
chèo nhẹ thả xuôi theo dòng nước. Sông Tiêu, sông Tương rộng dần dần,
đến huyện Kỳ Dương và huyện Hành Dương chảy chầm chậm. Phía sau đều
là núi Việt thời Chiến Quốc, phía trước mặt là đồi gò nước Sở.
Cảnh vật sáng sủa đáng yêu, nhưng làng xóm lại thưa vắng. Chim én
làm tổ nơi cửa lầu canh. Cá ẩn mình dưới sàn nhà nhà buôn. Lẽ tẻ
thấy trâu cày ruộng, Lờ mờ nhận ra nhà trên đảo giữa sông. Hứng cạn
lại rót thêm rượu. Gió lạnh thì ôm bầu rượu ấp. Vang tai nghe oanh hót, kêu hoài xuân
sắp tàn. Khắp nơi người ta trồng tùng, tùng sẽ lớn lên vào đầu hè.
Ta từ phương Nam đến, nơi quan ải bến đò đều hỏi giấy tờ. Ngày nào
đến Trường Sa, trân trọng đến thăm nhà Giả Nghị, chim phượng hoàng bay
lượn trên cao nghìn tầm, nơi nào chẳng đỗ được. Sông núi có phụ ông
đâu, chỉ sợ chuốc lấy nỗi thổn thức vào mình. Giong ruổi là phận
bầy tôi, ở Xích Bích cũng như ở Thạch Cừ (Bài Tiền Xích Bích của
Tô Đông Pha). Trên sông có gió mát, tạo hóa vốn để dành. Huyền Hạc
đạo nhân đến,(Bài Hậu Xích Bích của Tô Đông Pha) vái chào rất thong
dong. Chẳng cần mối sầu Thiếu Du, cỡi ngựa hèn bịn rịn nơi làng
xóm. Thiếu Du em họ Mã Viện. Khi Viện đã già còn xin đi đánh giặc,
Thiếu Du bảo : “Kẻ sĩ sinh ra ở đời, chỉ cần đủ ăn đủ mặc, ngồi xe gỗ dùng ngựa
hèn kéo làm kẻ thư lại ở quận, giữ phần mộ, làng xóm khen là tốt
thế là đủ, còn như ước muốn cao xa, chỉ làm tự khổ mình mà thôi.”
Việc trong vũ trụ là phận sự của nhà Nho chúng ta. Có khó nhọc mới
để lại sự nghiệp. Tâm quý ở chổ không yên, không động. Ý ấy có ông
thuyền chài Vũ Lăng đến Đào Nguyên
hiểu. (Truyện Đào Nguyên Ký của Đào Tiềm đời Tấn)
THẢ THUYỀN TRÊN SÔNG TIÊU
TƯƠNG
Mắt nhìn lên bầu
trời,
Chèo lan thả
nước trôi.
Tiêu Tương dần
dần rộng,
Kỷ Hành chầm
chậm xuôi.
Phía sau là núi
Việt,
Trước mặt là Sở
đồi.
Cảnh vật thật
tươi sáng,
Làng xóm vắng
tanh thôi.
Cửa lầu canh, tổ
én,
Nhà sàn cá ẩn
mình.
Lác đác trâu cày
ruộng,
Trên đảo nhà xa
xăm.
Hứng cạn rót
thêm rượu,
Gió lạnh ấp bầu
chăn.
Vẳng tai nghe oanh
hót,
Kêu hoài xuân sắp
tàn.
Khắp nơi trồng
tùng bách,
Tùng lớn cao đầu
hè.
Ta từ phương Nam
tới,
Ải đò hỏi giấy
tờ.
Ngày nào đến
Trường Sa,
Hỏi thăm Giả
Nghị nhà.
Phượng hoàng
nghìn tầm lượn,
Nơi nào chẳng đổ
sa.
Giang sơn phụ ông
đâu,
Sợ chuốc phận
tủi sầu.
Phận bầy tôi rong
ruổi,
Xích Bích hay
Thạch Cừ.
Trên sông có gió
mát,
Tạo hóa vốn để
dành.
Huyền Hạc đạo
nhân đến,
Vái chào rất
thong dong.
Chẳng mối sầu
Thiếu Du,
Ngựa hèn ở làng
xóm
Vũ trụ phận nhà
Nho,
Khó nhọc nên sự
nghiệp.
Tâm quý ở chỗ
yên,
Ngư ông Đào Nguyên
hiểu.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
TIÊU, TƯƠNG TÌNH PHIẾM
(ngũ ngôn cổ, nhị thập
vận)
Tùng mục quan thái hư,
Tiêu Tương thủy tiệm khoát,
Kỳ, Hành lưu chuyền từ.
Hậu đầu giai Việt sơn,
Tiền diện thị Sở khư.
Cảnh vật tối minh mị,
Ấp lý khước tiêu sơ.
Thú điệp muôn lâu yến,
Thương khỏa sàn ẩn ngư.
Đoạn tục kiến ngưu canh,
Vi mang nhận đảo cư.
Thường khứ hoàn thiêm tửu,
Lương sinh phục ủng lô.
Quát nhĩ văn lưu oanh
Khổ khiếu xuân tương trừ,
Mãn nhãn khai tài tùng,
Kế trưởng hạ thiên sơ.
Ngã tòng Nam phương lại,
Quan tân vấn giản thư.
Hà nhật đáo Trường Sa,
Trụng phỏng Giả Nghị lư ?
Thiên nhận tường phượng
hoàng,
Hà địa bất phương chư ?
Giang sơn khởi phụ công ?
Ưu ụy đồ hi hư !
Tri khu thần tử phận,
Xích Bích do Thạch Cừ.
Giang thượng hữu thanh phong,
Tạo hoá nguyên trừ tư.
Huyền hạc đạo nhân lai,
Củng ấp thù an thư.
Bất dụng Thiếu Du sầu,
Khoản đoạn hoài cố lư.
Ngô Nho vũ trụ sự,
Cần lao lưu hữu dư.
Thiên quân quý thái nhiên,
Để ý Đào Nguyên ngư.
Theo sông Tiêu Tương đi đến Mịch Giang ông viết bài thơ viếng Khuất Nguyên.
Chẳng phải là Hoài Sa mà oán Sở Vương. Hoài Sa: nhớ Trường Sa là một thiên trong Cửu
Chương của Khuất Nguyên. Trời kia khó hỏi nên hỏi sông Tiêu Tương. Nghĩ
đem miệng lưỡi giúp nước tổ. Tiếc gì lông da mà ở lại trong miếu
đường. Thơ “Tích Vãng Nhật” bao lần bi ai cùng dòng nước chảy (Tiếc
ngày qua, một thiên trong thơ Cửu chương). Thiên Ly Tao muôn đời viếng
những buổi chiều tà.( Thiên Ly Tao, Sở Từ) . Núi Cửu Nghi nếu có gặp
vua Nghiêu Thuấn, thì lại có thêm một bề tôi hiền nữa.
ĐIẾU QUAN TAM LƯ ĐẠI PHU
NƯỚC SỞ
Chẳng phải Hoài
Sa oán Sở Vương,
Trời kia khó
hỏi, hỏi Tiêu Tương.
Nghĩ đem miệng
lưỡi phò tông quốc,
Đâu tiếc lông da
chốn miếu đường.
Tích vãng bao
lần thương nước chảy,
Ly tao muôn thuở
viếng tà dương.
Cửu Nghi nếu có
phò Nghiêu Thuấn,
Thêm một bề tôi
bậc thánh hiền.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
ĐIẾU TAM LƯ ĐẠI PHU
Bất thị Hoài Sa oán Sở
Vương,
Bỉ thiên nan vấn, vấn Tiêu,
Tương.
Nghĩ thương khẩu thiệt phù
tông quốc,
Khẳng aí bi mao xử hú
đường,
Vqng nhật kỳ hồi bi thệ
thủy,
Ly tao chung cổ điếu tà
dương.
Cữu Nghi hữu lộ phùng
Nghiêu Thuấn,
Tể lễ ưng thiêm nhật khởi
lương.
. Ngô Thì Nhậm đi qua huyện Cát Thủy tỉnh Giang Tây, quê hương Văn Thiên Tường, nhìn núi Văn
Sơn ông cảm xúc. Văn Thiên Tường được vua Tống đi sứ sang Nguyên (Mông
Cổ) để cầu hòa, bị thừa tướng nhà Nguyên giữ lại, Toa Đô dụ dỗ,
nhưng Văn Thiên Tường không chịu khuất phục Thiên Tường đóng quân ở núi
Ngũ Pha, Trương Hoàng Phạm đến đánh lén bắt được đem về giam ở Yên Kinh. Văn Thiên Tường có làm bài
Chính Khí Ca nói lên chính khí của trời đất cùng với người tiết
nghĩa đời xưa.(Xem bài cùng tác giả: Nguyễn Du qua sông Hoài nhớ Văn
Thiên Trường, có dịch bài Chính Khí ca và các bài thơ khác của ông).
Ngô Thì Nhậm viết : Đất sinh vị
danh hiền lừng danh tên Cát Thủy. Trời đem chính khí chung đúc vào
ngọn núi Văn Sơn. Đỗ Trạng nguyên làm Tể tướng, một thân nặng đạo
cương thường. Hoằng Phạm bắt giam, Toa Đô dụ dỗ, sự thế rất khó khăn.
Thật đáng lưu danh nghĩa liệt trên sang sử xanh. Văn Thiên Tường có câu
thơ: Nhân sinh tự cổ thùy vô tử, Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh. Người
đời tự cổ ai không chết, lưu lại lòng son với sử xanh. Hãn thanh,
người xưa khi chưa biết làm giấy dùng thanh trúc xanh hong lửa cho ra
mồ hôi rồi viết, chép sử gọi là hãn thanh. Đâu chịu đội mũ hoàng
quan để về quê hương trong cảnh an nhàn. Tấm lòng cô trung từ lâu vẫn
rọi soi với đất trời. Bọn người đua theo làn sóng thời thế phải
biết thẹn mặt.
QUA HUYệN CÁT THỦY VIẾNG VĂN THỪA TƯỚNG
Cát Thủy lừng
danh đất kẻ hiền,
Trời đem chính
khí đúc Văn Sơn,
Trạng nguyên, Tể tướng lòng xem trọng,
Hoằng Phạm, Toa
Đô thế sự nan.
Thanh sử đáng lưu
danh liệt sĩ.
Hoàng quan chẳng
chịu bước an nhàn.
Cô trung lòng
chiếu soi trời đất,
Hổ thẹn xu thời
ai thế gian.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt
:
KINH CÁT THỦY HUYệN VÃN VĂN THỪA TƯỚNG
Địa xuất danh hiền xưng Cát
Thủy,
Thiên tương chính khí dục
Văn Sơn.
Trạng nguyên, Tể tướng cương
thường trọng,
Hoằng Phạm, Toa Đô sự thế
nan.
Thanh hãn bất phương lưu
nghĩa liệt,
Hoàng quan phi cẩu nguyện an
nhàn.
Cô trung chiêu yết kiền khôn
cửu,
Ba lãng trung nhân nhất nản
nhan.
Đình
Tỳ Bà ở ngoài thành Cửu Giang, tỉnh Giang Tả, ngay bên bờ sông Trường
Giang (Dương Tử Giang) nơi Bạch Cư Dị, còn gọi là Bạch Lạc Thiên, thi
hào đời Đường, tiễn khách lúc đêm trăng, gặp người ca kỷ già, nghe
tiếng đàn xúc động làm bài Tỳ Bà Hành. Cảnh tơ liễu xanh trên ngôi
đoản đình, soi bóng xuống dòng sông buổi trời tạnh. Cảnh sắc nơi này
riêng được truyền danh muôn thuở. Vầng trăng bạc còn chứa đựng giọt
lệ quan Tư Mã Bạch Lạc Thiên. Ông bị triều đình biếm trích ra làm
quan Tư Mã Hàng Châu. Tiếng nước sông vẫn nghẹn ngào với khúc đàn
người ca kỷ già. Chiếc thuyền chài đượm làn khói lúc hoàng hôn. Lận
đận góc trời xa, xưa nay cùng chung một nỗi niềm cảm khái. Mỗi khi
đọc bài hành Tỳ Bà, tâm hồn lại bùi ngùi vô hạn.
ĐỀ ĐÌNH TỲ BÀ
Đoãn đình soi
bóng liễu tơ xanh,
Cảnh sắc lưu bao
thuở tiếng danh.
Trăng bạc vương
sầu Tư Mã lệ,
Sông xanh nức nỡ
Lão Cơ đàn.
Mái lầu xanh phủ
hoàng hôn đỏ,
Ngư phủ thuyền
về sương khói xanh.
Luân lạc chân
trời cùng cảm khái,
Tỳ Bà Hành đọc
ngẩn ngơ lòng.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
ĐỀ TỲ BÀ ĐÌNH
Đoãn đình nộn lục hám
tình xuyên,
Độc thiện phong quan vạn cổ
truyền.
Nguyệt sắc thượng hàm Tư
mã lệ,
Giang thanh trường yết lão
cơ huyền.
Thú lâu đê phú tà dương
ảnh,
Ngư khả nùng phân bạc mộ
yên.
Luân lạc thiên nhai kim tích
phát,
Ca hành thời tụng tứ du
nhiên.
Vùng
giáp giới Vĩnh Châu và Toàn Châu ở rẻo núi hai bên đường, mọc nhiều
cây thông, cây bách có biển đề “Vạn tùng sơn giáp đạo”. Núi vạn cây
thông bên đường. Núi non vùng Sở,
Việt sinh nhiều giống cây thông. Sừng sững đứng hai bên đường, tỏa
bóng xanh um. Cây già cao ngất trời, nẩy nở tươi tốt. Cành cứng vươn
rợp đất, càng rậm rạp xum xuê. Kết tụ từng khối nhỏ dưới gốc cây
nhiều hổ phách quý báu. Thật ra đó chỉ là nhựa thông, rừng thông bị
chôn vùi hàng trăm ngàn năm, nhựa thông mới thành ra đá quý hổ
phách. Khinh cả sương tuyết da cây
cũng thành những điểm vẩy rồng san sát. Ta quý giống cây này có cốt
cách ngang tàng độc lập. Không sợ cái uy lực giá rét của mùa đông
cuối năm.
NÚI VẠN TÙNG
Sở Việt núi non
rợp bóng tùng,
Bên đường sừng
sững bóng xanh râm,
Cội già cao ngất
trời tươi tốt,
Rợp đất cành
vương cứng cáp thân.
Kết tụ gốc cây
nhiều hổ phách.
Coi thường sương
tuyết vẩy da rồng.
Yêu cây cốt cách
ngang tàng đứng,
Chẳng sợ chi
trời giá rét đông.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
VẠN TÙNG SƠN
Sở, Việt cương loan thịnh
sản tùng,
Đinh đinh giáp đạo lục âm
nùng.
Tham thiên lão cán phương
điều đạt,
Phấn địa trình kha cánh
uất thông.
Tụ bảo đoàn đoàn căn hữu
hổ,
Lăng sương điểm điểm giáp
thành long.
Ái cừ đặc lập ngang chiên
cốt,
Bất phạ hàn uy thế hữu
đông.
Miếu
thờ Chư Cát Lượng tự Khổng Minh,
giỏi mưu lược giúp Lưu Bị thời Tam Quốc gây dựng cơ nghiệp nhà
Thục Hán, làm Thừa Tướng tước Vũ Hương Hầu, gọi tắt là Vũ Hầu.
Miếu thờ ở núi Hồi Nhạn thuộc dãy núi Hành Sơn, trên hữu ngạn sông
Tương, thuộc huyện Hành Dương, phủ Hành Châu, tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc.
Chim nhạn bay tới đây đậu bãi cát “Bình sa lạc nhạn” rồi quay về
lại. Bài thơ viết : Rồng người thác đi lại hiện rồng thần. Khổng
Minh khi chưa ra giúp Lưu Bị, ẩn ở Ngọa Long Cương, đất Nam Dương. Bàng
Đức Công và Tư Mã Huy giới thiệu Lưu Bị
bảo: “Ngoạ Long là con rồng nằm”. Cơ mưu Bắc phạt thâm trầm
đường như muốn xua cả bầy trận chim nhạn. Chỉ việc Khổng Minh nhiều
lần tiến quân lên phía Bắc đánh nước Ngụy Tào, 6 lần ra quân khỏi
núi Kỳ Sơn , mong khôi phục trung nguyên nhà Hán. Chim hồng nhạn, ngỗng trời bay từng hàng có đường lối chỉnh tề.
Hình chữ V, con ở giữa thay đổi nhau để chịu sức gió, mùa thu bay từ
phương Bắc tới phương Nam, đến núi Hồi Nhạn thì ở lại đó, đợi sang
xuân thì bay trở lại phương Bắc. Tác giả trông thấy đàn chim nhạn bay,
tưởng đến cơ mưu Khổng Minh muốn xua cả bầy nhạn ra trận. Nổi giận
đông chinh còn sót lại cũng toan bắt cơn gió heo may bên sông phải nổi
lên. Chỉ việc Khổng Minh làm phép cho gió nổi lên đốt thuyền trận
Xích Bích. Đồn phong là trận gió con lợn. Đồn tức giang đồn, loài
thú ở sông giống hình con lợn, mỗi khi nó phun nước lên mặt sông, thì
sẽ có gió to, nên người lái thuyền thấy nó phun nước thì chuẩn bị
tránh gió. Hứa Hồn đời Đường có câu thơ : Giang đồn xuy lãng dạ hoàn
phong. Con lợn sông phun nước sóng, đêm lại nổi gió. Trung Quốc ngày
xưa có con hyppopotame chăng ? con này ngày nay chỉ thấy ở trên sông Phi
Châu. Cái thế chân vạc xưa kia, đã khôn tranh sức với trời xanh. Khổng
Minh tạo ra thế chia ba Thục, Ngụy, Ngô thời Tam Quốc nhưng cuối cùng
việc thống nhất về tay cha con Tư Mã Ý lập nên nhà Tấn. Ngôi miếu
ngất cao tầng mây này còn lòng nào nghĩ đến. Trông bóng cây tùng
bách, phản phất ngày vua Thục, Lưu Bị
ba lần đến thâm. Làn nước thu đất Hành Dương soi sáng tấm lòng
cô trung. Khuynh cái là nghiêng mui xe, dừng xe. “Khuynh cái nhi ngữ” chỉ
việc Khổng Tử dừng xe nói chuyện với Trình Tử giữa đường, đây chỉ
việc Lưu Bị gặp Khổng Minh.
MIẾU THỜ CHƯ CÁT VŨ HẦU
Nhân long đã
khuất hiện Thần long.
Núi đá bờ sông
ngóng Hán Trung.
Bắc phạt muốn
xua bầy nhạn trận,
Đông chinh nổi
giận dậy đồn phong.
Khôn chia chân vạc
trời tranh sức,
Miếu ngất tầng
mây lòng tưởng lòng.
Tùng bách vẫn
thời vua Thục đến,
Hành Dương thu
nước, sáng tôi trung.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
CHƯ CÁT VŨ HẦU MIẾU
Nhân long hoá khứ hiện thần
long,
Tiểu thạch lâm lưu miện Hán
Trung.
Bắc hướng trầm cơ khu nhạn
trận,
Đông thôn di nộ dịch dồn
phong.
Đỉnh phân vô lực tranh thương
hiệu,
Miếu tự hà tâm ỷ bích
không.
Tùng bách y hy khuynh cái
nhật,
Hành Dương thu thủy chiếu cô
trung.
Trường Sa thuộc tỉnh Hà
Nam, sông Tương chảy qua. Đời Hán đặt tên nước Trường Sa. Giả Nghi
thường gọi là Giả Sinh đời Hán tinh thông thi thư giỏi văn từ, năm hai
mươi tuổi đỗ Tiến sĩ, làm Thái Trung đại phu. Sau vua cử lên chức Công
khanh, bọn đại thần Chu Bột và
Quán Anh dèm pha nói Giả Sinh là người ít tuổi, muốn chuyên quyền
làm rối loạn chính sự, nên Sinh phải đổi ra làm Thái phó cho vua
Trường Sa. Ngô Thì Nhậm viết : Không
phải đổi ra đất Trường Sa làm già đời Giả Nghị. Một vua thiên tử
chưa lúc rảnh việc, thường ghét sự đổi thay quá vội vàng. (vị hoàng
là chưa lúc rảnh việc, ý nói còn nhiều việc khác). Triều Hậu nguyên
tuy còn thiếu sót về lễ văn. Việc đổi năm nguyên niên bắt đầu từ đời
Hán Văn Đế nên gọi vua Văn Đế là vua Hậu nguyên. Nhà Tuyên thất nơi
dành cho các quan Đông các, dâng sách vua đọc, cố vấn nhà vua, trước
cung Vị ương của vua. Sau khi Giả Nghị ra Trường Sa. Vua tưởng nhớ cho
triệu vào nhà Tuyên thất để hỏi việc. Giả Nghi dâng sớ nói : “Thế
sự ngày nay có một việc đáng thương, hai việc đáng chảy nước mắt,
sáu việc đáng thở dài”. Nhưng nhà Tuyên thất lại không phải là nơi
thương khóc. Chỉ vì tuổi trẻ tính quá hăng hái. Luống để thương tâm
đến một chức vụ của mình. Muốn tìm ngôi nhà cũ xưa thăm viếng. Chòm
cây bên sông vẫn còn lẫn quất nỗi bất bình. Các sứ thần Việt Nam qua
đây đều làm thơ viếng Giả Nghị.
QUA ĐẤT TRƯỜNG SA NHỚ ĐẾN GIẢ NGHỊ
Chẳng chốn
Trường Sa, Giả Nghị già,
Đổi thay vua
chẳng muốn bày ra.
Hậu nguyên văn tế
còn sơ sót,
Tuyên thất ai
người nhỏ lệ sa.
Tuổi trẻ hăng say
mang chí cả,
Thương tâm chức
mọn buộc tình ta.
Muốn tìm nhà cũ
xưa thăm viếng,
Cây cỏ bên sông
vẫn hận xưa.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
QUÁ TRƯỜNG SA ỨC GIẢ NGHỊ
Bất thị Trường Sa lão Giả
Sinh,
Vị hoàng thiên tử ố phân
canh.
Hậu nguyên tuy khuyết lễ văn
sự,
Tuyên thất hoàng phi thống
khốc đình.
Tất cánh thiếu niên đa hiệp
khí,
Toại giao nhất chức khổ
quan tình.
Dục tầm cố trạch lai bằng
điếu,
Giang thụ y y thượng bất
bình.
Tô Thức tức Tô Đông Pha văn
hào đời Tống. Khi bị biếm trích ra Hoàng Châu làm nhà ở đất Đông
Pha, nên lấy hiệu là Đông Pha cư sĩ. Mùa thu năm Nhâm Tuất, cùng hai
người bạn, Đông Pha thả thuyền chơi đêm trăng bên núi Xích Bích có làm
hai bài phú Tiền Xích Bích và Hậu Xích Bích. Ở huyện Hoàng Cương
thuộc Hoàng Châu có đình Pha Tiên, nơi kỷ niệm Tô Đông Pha có bình
phong khắc hai bài phú này. Ngô Thì Nhậm viết : Trước thường ca ngợi
người khách chơi thuyền đêm Nhâm Tuất. Nay được viếng thăm ngôi đình cổ
tích ở ngoại thành Hoàng Cương. Trăng trong gió mát dành kho tạo hóa.
Thuyền con, rượu đấu (vò) tưởng nhớ dấu thơm. Dung mạo người đạo đức
nghìn thu còn in trên vách núi lạnh. Di tác hai bài phú cũng được ghi
trên tấm bình phong trong gác vẽ. Nhìn lại lại nơi phẩm đề năm ấy.
Chỉ thấy một làn khói sóng lẫn với màu trời xanh.
BUỔI CHIỀU CHƠI ĐÌNH PHA TIÊN
Nhâm Tuất chơi
thuyền khách ngợi ca,
Hoàng Cương dấu
cũ nay thăm qua.
Trăng trong, gió
mát kho tạo hóa,
Đấu rượu, thuyền
con nhớ thuở xưa.
Dung mạo nghìn
thu non vách lạnh,
Di tác hai bài
ghi gác hoa.
Tìm lại nâm xưa
ngày phác bút,
Chỉ làn mây khói
vẫn vơ qua.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
VÃN DU PHA TIÊN ĐÌNH
Diễm đàm nhâm tuất dạ du
khách,
Hỷ đổ Hoàng Cương cổ tích
đình.
Minh nguyệt thanh phong tàng
tạo hóa,
Biên chu đẩu tửu ức phương
hinh.
Thiên thu đạo mạo hàn sơn
bích,
Nhị phú di văn họa các
bình.
Điểm kiểm đương niên đề
phẩm xứ,
Yên ba nhất sắc hỗn thanh
minh.
Đêm ấy lại qua đò cửa
sông Xích Bích.. Bãi cát dài mam mác, lau lách lưa thưa. Bài hát chèo
đò lúc trăng lên. Cảm thấy tình tứ mênh mang. Chiến địa Tào Tháo, Tôn
Quyền xưa mơ màng trong khói lạnh. Ải sông đất Kinh, Sở đang dâng nước
lụt đầu mùa, Sóng bạt cao ngất trời, cánh buồm gió cứng cõi. Đèn
đỏ sáng đầy bờ, ngôi thủy đình trông trống không. Sau cuộc chơi của Pha Tiên ai người kế
tục. Kìa chiếc thuyền chài cô đơn kia, đang quăng lưới đêm ở đầu
ghềnh.
ĐÊM ẤY LẠI QUA ĐÒ CỬA SÔNG
XÍCH BÍCH
Bãi dài man mác
bóng lau thưa,
Dưới nguyệt mênh
mang khúc hát ca.
Chiến địa Tôn
Tào chìm khói biếc,
Bên sông Kinh Sở
khúc ngâm nga.
Sóng bạc ngút
cao buồm gió lộng,
Đèn hồng rực
sáng bóng đình hoa.
Pha Tiên sau đó ai
người tiếp,
Thấp thoáng
ghềnh khuya thuyền lướt qua.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
DẠ PHỤC ĐỘ XÍCH BÍCH GIANG KHẨU
Sa chử miên diên địch vĩ sơ,
Trạo ca thừa nguyệt tứ mang
như.
Tào, Tôn chiến địa hàn ôn
lý,
Kinh Sở giang quan thịnh lạo
sơ.
Bạch lãng phù không phong
phạm kính,
Hồng đăng mãn ngạn thủy
đình hư.
Pha Tiên du hậu tương thùy
tục,
Cô đỉnh tiền than kiến dạ
ngư.
Nhìn con ngựa trên sườn núi
trở về. Ngô Thì Nhậm nghĩ đến thân phận mình vì có chút thiên tư
trời ban, như ngựa kỳ, ngựa ký mà phải luôn luôn bận rộn công việc,
đi sứ ngàn dậm, không được như các con ngựa ngu si được phúc an khang,
suốt ngày vô sự, ăn no lại về chuồng. Ông viết : Ăn no cỏ ngoài đồng
nội rồi, chiều tối dẫn thân về chuồng. Khen con ngựa kia, suốt ngày vô
sự, coi bộ vui thú lắm. Cũng trời đất sinh ra mà được hậu đãi như
thế. Con tạo đâu có một chút thiên tư. Vốn là giống ngựa hèn nên
nhiều ngày rỗi. Nếu thực là loài kỳ ký, ít có lúc nhàn. Người
đời đừng oán vì thông minh mà lầm lỡ cả cuộc đời. Tô Đông Pha có câu
thơ : “Nhân giai dưỡng tử vọng thông minh, ngã vị thông minh ngộ nhất
sinh”. Nuôi con ai cũng muốn con thông minh, ta trót thông minh lỡ phận
mình. “ Thường thường những kẻ bụng dạ thô tục lại được nhiều sự
may mắn an nhàn.
CON NGỰA BÊN SƯỜN NÚI TRỞ VỀ
Cỏ đồng no bụng
tối về chuồng,
Vô sự suốt ngày
thật rãnh rang.
Hậu đãi đất
trời sinh kếp ngựa,
Thiên tư đâu có
chút trời ban.
Dòng tầm thường
ngựa nhiều khi rỗi,
Giống ký kỳ kia
ít lúc nhàn.
Chớ oán thông
minh đời lỡ việc,
Ngu si lại được
phúc an khang.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
SƠN PHA QUI MÃ
Bão thực giao nguyên, bạc
mộ qui,
Tiễn cừ vô sự độc hy hy.
Giáng tài nãi hữu giá ban
hậu,
Tạo vật hà tằng nhất điểm
ty.(tư)
Tự thị nô thai đa hạ nhật,
Nhược giao kỳ ký thiểu
nhàn thì.
Thế nhân mạc oán thông minh
ngộ,
Đại để thô trường chiếm
tiện nghi.
Đường đi sứ ngang qua huyện Thang Âm, tỉnh Hà Nam, quê hương
Nhạc Phi. Ông viết : Màu sắc mùa thu đang lấn tới con đường cổ xưa.
Khách lại lên yên ngựa, vội vã ruổi rong. Bóng tà dương nhạt nhạc mờ
bên sườn núi. Làn gió vàng lạnh lẽo thổi buổi hoàng hôn. Đồng cỏ một
dãi màu xanh, trông mờ nơi cuối trời. Rặng liễu ở bờ đê rụng lá.
Tàn rữa trong bên nước. Trông con cò bay lượn một mình trên tầng mây.
Lòng nhớ quê hương khó mà khuây được. Gió mùa thu, mùa thu thuộc hành
kim nên còn gọi là kim phong.
DỌC ĐƯỜNG THANG ÂM BUỔI CHIỀU MÙA THU, NGẮM CẢNH ĐỒNG NỘI
Lối xưa thu nắng
dội,
Khách lại lên yên
cương,
Bóng tà nghiêng
dáng núi,
Gió lạnh buổi
hoàng hôn.
Cỏ đồng xanh
ngút mắt,
Liễu rũ bến đê
tàn,
Nhìn cò mây bay
mãi,
Lòng chợt nhớ
quê hương.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
THANG ÂM ĐẠO TRUNG, THU VÃN
DÃ VỌNG
Thu quang xâm cổ đạo,
Hành khách xúc chinh an.
Tịch chiếu hàm sơn đạm,
Kim phong bạc mộ hàn,
Dã vu thiên mạt tận,
Đê liễu thủy trung tàn.
Cô lộ vân du khứ,
Hương tâm dục khiển nan.
Qua huyện Yển Thành tỉnh
Hà Nam, nơi Nhạc Phi, danh tướng từng thắng quân Kim 126 trận, phá được quân Kim ở Yển Thành và Chu
Tiên trấn, có cơ khôi phục được toàn cõi Trung Nguyên, mừng nói với
tướng sĩ : “Trực để Hoàng Long phủ, dữ chư quân thống ẩm.” Nghĩa là
tiến thẳng tới phủ Hoàng Long cùng các người uống rượu thật say để
ăn mừng. Tấm lòng khảng khái hùng tráng muốn uống rượu mừng ở
Hoàng Long, kinh đô nhà Kim. Áo giáp, dáo dài gầm thét vang trời.(Đâu mâu là giáo
dài, người chiến binh ngày xưa có hai vũ khí chính là mâu để đâm và
thuẩn để đỡ, nên có chữ mâu thuẩn. Các bản chú thích đâu mâu là mũ
đội đầu không đúng). Các phụ lão hai miền Hà Nam, Hà Bắc đầu đội
lò hương và đưa trâu bò, lương thực ra đón quân Nhạc Phi. Tên gian thần
Tần Cối chủ trương hòa, bèn giả mạo chỉ nhà vua, trong một ngày
phát tới 12 đạo kim bài ra mặt trận, triệu Nhạc Phi về, rồi hạ ngục
giết chết tại Phong Ba Đình. Kim bài là bài gỗ sơn vàng viết chữ
đỏ, truyền lệnh nhà vua. Bài vàng vâng chiếu chỉ, người anh hùng
phải than khóc. Một chữ “ hoà “ lảm u mê vua Cao Tông nhà Nam Tống,
trời đã xui nên. Ai cũng tiếc cái chiến công có thể khôi phục được
cõi trung nguyên. Bao nỗi phẩn uất còn để lại nơi vẫy vùng cung kiếm
xưa. Mấy khóm tùng bách trước sân đang gào gió buổi chiều tà.
ĐỀ MIẾU NHẠC VƯƠNG Ở YỂN
THÀNH
Lòng mừng hùng
tráng, rượu Hoàng Long,
Giáp trụ dáo
dài miệng thét lừng.
Hương đội đón
chào mừng phụ lão,
Kim bài đọc
chiếu khóc anh hùng.
Trời xui Nam Tống
ngu hòa giặc.
Người xót Trung
Nguyên tiếc chiến công.
Phẩn uất còn đây
nơi chiến địa,
Một sân tùng
bách gió chiều phong.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
ĐỀ YỂN THÀNH NHẠC VƯƠNG
MIẾU
Tráng hoài khảng khái ẩm
Hoàng Long,
Thiết giáp, đâu mâu, khiếu
xá không.
Hương đính nghinh sư, hân phụ
lão.
Kim bài phụng chiếu, khấp
anh hùng.
Thiên giao Nam Tống ngu hòa
tự,
Nhân vị trung nguyên tích
chiến công.
Liệt phẩn do di cung kiếm
địa,
Nhất đình tùng bách ván
hào phong.
Tại một trạm mai lạnh lẽo,
tạm dừng cuộc khách trình. Trạm mai là một trạm trên đường đi sứ, đi
sứ còn gọi là hoàng hoa, trạm dừng chân gọi là mai dịch.. Trên cành
ngô biếc, nghe tiếng lá xào xạc báo tin thu về. Bích ngô : cây ngô
đồng biếc cứ đến mùa thu rụng lá, báo tin mùa thu tới. Sách Hoài
Nam Tử viết : Nhất diệp lạc nhi, thiên hạ tri thu. Một lá cây rụng
xuống mà thiên hạ biết là tiết thu đã tới. Cây ngô đồng trồng rất
nhiều hai bên đường ở Trung Quốc, Tây phương, Canada, mùa thu lá xanh
đổi màu vàng đến đỏ. Thu thanh, tiếng thu. Âu Dương Tu đời Tống có
bài Thu thanh phú. (Xem bài Nguyễn Du qua mộ Âu Dương Tu, cùng tác giả
có dịch nguyên bài phú này. Site tapchivanhoanghean, chimvietcanhnam..)
Làn gió sông thoáng đưa, bóng trăng trên sông như dải lụa phẳng chập
chờn trước cửa sổ. Vầng trăng biển mới mọc, ánh sáng lạnh như sờ
soạn bên gối nằm. Nổi lòng tưởng nhớ, một ngọn đèn chong trên án.
Tiếng sáo canh ba từ đâu vọng đến trước lầu. Ai người hát khúc ly câu
ngoài xa xa. Ly câu là ngựa đen, một khúc hát khi khách biệt chủ : Ly
câu tại môn, bộc phu cụ tồn, ly câu tại lộ, bộc phu chỉnh giá. Ngựa
đen ở cổng ngoài, tôi tớ chờ đó rồi, ngựa đen lên đường lộ, tôi tớ
cầm cương đợi. Trông ra một làn khói sóng vắng lặng, không sao yên
giấc được.
ĐÊM THU Ở QUÁN TRỌ
Trạm mai hiu hắt
khách dừng chân,
Xào xạc cành
ngô, thu tiếng vang.
Sóng dãi dòng
trăng sông ánh lụa,
Bóng soi biển
lạnh nguyệt sờ chăn.
Ngọn đèn bên án
lòng nhung nhớ,
Tiếng sáo canh ba
vọng trước mành
Ai hát ly câu lời
vọng lại,
Khói sóng trông
xa mộng chẳng thành.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
THU DẠ LỮ ĐÌNH
Mai dịch thê lương đậu khách
trình,
Bích ngô chi thượng báo thu
thanh.
Song hàm tĩnh luyện giang
phong bạch,
Chẩm lộng hàn quang hải
nguyệt minh.
Án thượng hữu hoài đăng
nhất điểm,
Lâu tiền hà xứ dịch tam
canh.
Thùy nhân viễn xướng ly câu
khúc,
Lao lạc yên ba mộng bất
thành.
Đề Miếu Nhạc Phi. Cái sự thế vua Cao Tông chạy qua sông, dời
đô đến đất Hàng Châu làm cho tướng quân hổ thẹn. Muốn uống rượu say
tại phủ Hoàng Long, có cái khí mạnh xung lên tận sao Ngưu, Đẩu. Đang
cơ hội trương cờ báo đền ơn nước. Dân quân và hào kiệt hai miền Hà
hưởng ứng hàng trăm ngàn quân, trương cờ có chữ Nhạc, hẹn ngày khởi
sự cùng khôi phục đất Trung Nguyên. Nhưng khốn nỗi nhà vua đã can tâm
mặc áo gấm mà bỏ quên mối thù rồi. Vua Cao Tông sợ nếu Nhạc Phi
thắng, cha và ông là vua Khâm Tông
và vua Hy Tông bị giam cầm tại Hoàng Long trở về mình sẽ mất ngôi nên
theo Tần Cối, hoà với nhà Kim. Sau
khi nhân dân hai miền Hà khóc lóc, thì đến tù trưởng nước Kim reo
mừng. Cái tin vui được mùa lại để nỗi sầu cho hai vua Tống. Suốt
nghìn năm qua ai đi qua dưới đình Phong Ba. Nhìn bóng hồ Tây Hồ và sắc
núi Thê Hà, vẫn cảm thấy mối hận còn dài dằng dặc.
ĐỀ MIẾU NHẠC VŨ MỤC VƯƠNG
Tủi nhục khi vua
chạy đất Hàng,
Hoàng Long rượu
uống khí ngang tàng.
Trương cờ toan
báo đền ơn nước,
Áo gấm mối thù
vua đã quên.
Khóc lóc lưỡng
Hà, Kim nở mặt,
Được mùa một
thuở, Tống tang thương.
Phong Ba nghìn
thuở ai qua đó,
Sắc núi bóng hồ
hận chẳng quên.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
ĐỀ NHẠC VŨ MỤC VƯƠNG MIẾU
Độ Hàng sự thế tướng quân
tu,
Thống ẩm Hoàng Long khí
quán Ngưu.
Chính hữu yết kỳ kham báo
quốc,
Kỳ như ý cẩm dĩ vong cừu.
Lưỡng Hà khóc bãi chư tù
hạ.
Nhất nẫm hoan lai, nhị đế
sầu.
Chung cổ Phong ba đình hạ
quá.
Hồ quang sơn sắc hận du du.
Mộ Tỷ Can ở ngoài thành
Vệ Huy năm dậm bên đường có tậm bia đá lớn khắc bảy chữ “Ân thái sư
Tỷ Can chi mộ “ Tỷ Can là hàng chú
bác vua Trụ, làm quan thái sư. Trụ dâm loạn vô đạo. Tỷ Can can gián
luôn ba ngày, Trụ cả giận nói : Tỷ Can tự cho là thánh nhân, ta nghe
nói tim thánh nhân có bảy lổ, không biết có thật không ? Rồi giết Tỷ
Can mổ xem trái tim. Bài thơ viết : Không nỡ ngồi nhìn sự đảo điên,
suy đồi của nhà Thương. Tấm lòng trung tiết như ánh sáng mặt trời, mặt
trăng rạng rỡ mà chuyển vòng. Các quan người giả dại, người trốn đi
còn ai lo việc tổ quốc. Cơ Tử hàng chú bác vua Trụ can gián không
nghe bèn xỏa tóc giả điên dại làm người nô dịch, Vi Tử anh vua Trụ
thì mang đồ tế tự chạy đến nhà
Chu, để giữ lấy tông thống nhà Thương. Khổng Tử nói : “Ân hữu tam
nhân,” nhà Thương có ba người nhân là : Cơ Tử, Vi Tử và Tỷ Can. Can
gián thẳng lời, đâu dám phụ nhà vua đương thời. Nếu lổ trái tim bậc
thánh nhân không bị mổ xem, Thì áo nhung phương bá nhà Chu cũng đến
xếp xó (vì không có cớ chống vua Trụ tàn bạo). Phương bá là trưởng
chư hầu một vùng đất phong, đây chỉ Vũ Vương nhà Chu. Trụ phong Văn
Vương cha Vũ Vương làm hầu bá phương Tây, còn gọi là Tây bá chuyên
việc chinh phạt. Văn Vương chết, Vũ
Vương kế vị chức Tây bá. Sau đánh Trụ lập nên cơ nghiệp nhà Chu. Nhung
y tức quân phục Kinh thư có câu :
“Nhất nhung y, thiên hạ đại định”
một tấm nhung y mà thiên hạ đại định. chỉ việc Vũ Vương đánh Trụ.. Di tích
sáu bảy đời vua hiền thánh nhà Thương nay đều mai một. Chỉ tấm bia
rêu mọc nơi xóm vắng đầu gò, còn để danh tiếng thơm. Mạnh Tử có câu
: Do thang chi ư Vũ Đinh, hiền thách
chi quân lục thất tác, Nhà Ân từ Thang đến Vũ Đinh, các vua hiền
thánh sáu bảy đời dấy lên.
NGÔI MỘ TỶ CAN NHÀ ÂN
Chẳng nỡ nhìn
triều Ân đảo điên,
Tấm lòng trung
tiết sáng trời trăng.
Điên cuồng, trốn
tránh ai lo nước ?
Can gián thẳng
lời chẳng phụ vương.
Nếu tim bậc
thánh không bị mổ,
Nhà Chu nhung
giáp cớ chi hòng,
Tám đời hiền
thánh đều mai một,
Bia rêu đầu xóm
tiếng còn thơm.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
ÂN THÁI SƯ TỶ CAN CHI MỘ
Bất kham điên đảo thị suy
Thương,
Trung tiết chiêu hồi nhật
nguyệt quang.
Cuồn, độn cánh thùy ưu cố
quốc.
Qui châm hà cảm phụ thời
vương.
Nhân nhân tâm khiếu phi
thường ngược,
Phương bá nhung y thả hối
tàn.
Lục thất thánh hiền di
tích diểu,
Lũng đầu cô ổ tiểu bi
hương.
Hạo thành là một toà thành cổ thuộc tỉnh Hà
Bắc. Nguyên chú : Cửa thành có chữ đề : Quang Vũ thụ xích phù cố
xứ, nơi Quang Vũ vua trung hưng nhà Đông Hán nhận xích phù khi xưa, lại
có tấm bia mờ hết chữ, chỉ nhận được hai chữ “Đông quang” thôi. Xích
phục hay xích phù là loại sách sấm ký nhà Hán thuộc “ hỏa” đức, “
Xích” là sắc đỏ của “hỏa”, còn “phục” là ẩn phục, tân sách có hàm
ý về nhà Hán. Vương Mãn cướp ngôi nhà Hán, Quang Vũ khởi binh diệt
Mãn, khi đến đất Hạo nơi Hạo Thành có người dâng trình lời sấm
“Xích phù”, đại ý nói Quang Vũ được mệnh trời mà nổi lên, dựng cơ
nghiệp trung hưng nhà Hán. Sau đó Quang Vũ lên ngôi hoàng đế tại Hạo
Thành.
Lời sấm “Xích phục” dâng
trình, sự việc ấy đã mờ mịt rồi. Một toà thành cổ vắng lậng,
cỏ mọc um tùm. Đồn thú tan hoang
gạch ngói, nay kể nghìn năm. Lâu đài vang khúc nhạc ca, từng một thời
kia. Con đường bụi lầm nơi đất Bắc đã thành lối tắt cổ xưa. Hai chữ
triện “Đông quang” còn để rêu mờ trên tấm bia tàn. Đại để cuộc đời
thịnh hay suy, đều là sự thế đương nhiên. Chỉ khen cho sợi dây câu trăm
thước ở sông Đồng giang còn mãi danh cao. Đồng giang tên sông phía nam
huyện Đồng Lư, tỉnh Chiết Giang, nơi Nghiêm Quang câu cá. Nghiêm Quang tự
Tử Lăng, người đời Hán bạn cũ Quang Vũ, khi Hán Quang Vũ lên làm vua,
Nghiêm Quang đổi họ tên đi ở ẩn, ba lần nhà vua cho sứ đến mời ra,
phong quan chức, Quang từ chối lại về câu cá sông Đồng giang và cày
ruộng ở núi Phú Xuân bên sông. Lưu Định Chi có câu: “Đồng giang nhất ty, phù Hán cửu đỉnh.”
Một sơi dây câu cá ở sông Đồng giang phù trì được chín vạc. Chín vạc
đồng tượng trưng cho chín châu, cõi đất Trung Quốc của nhà Hán. Ý
nói khí tiết cao thượng của Nghiêm Quang, có thể khích lệ chi sĩ
phong, bồi đắp giáo hóa, nhờ đó mà cơ nghiệp nhà Hán được bền vững
lâu dài.
THÀNH HẠO
“Xích phục” dâng
trình chuyện đã xa,
Một toà thành
cổ, cỏ bao la.
Lầu cao gạch
ngói nghìn năm đổ,
Khúc hát cung xưa
một thuở ca.
Đất Bắc bụi mờ đường lối cũ
Cửa Đông đài cũ
bia phôi pha.
Thịnh suy thế sự
đời như thế,
Sợi cước Đồng
Giang tiếng chẳng nhòa.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
HẠO THÀNH
“Xích phục” trình phù sự
dĩ phi,
Cổ thành lao lạc thảo uy
nhi,
Thú lâu ngỏa lịch kim thiên
tải,
Giáp đệ ca chung bỉ nhất
thì.
Bắc thượng trần đồ thành
cổ kính,
“Đông quang” đài triện ủy
tàn bi.
Đại đô thịnh vãn đương nhiên
sự,
Khước tiễn Đồng giang bách
xích ty.
YÊN SƠN là một núi ở tỉnh Hà Bắc, nơi
đây Triệu Khuông Dẫn tức Tống Thái Tổ, một đêm trời mưa tuyết, Thái
Tổ vi hành đến chơi nhà Tể tướng Triệu Phổ, đem địa đồ ra bàn tính
việc khôi phục lại hai vùng đất U, Yên. Bài thơ viết : Xưa kia Nghệ
Tổ trù mưu trong một đêm mưa tuyết.
Muốn khôi phục lại hơn mười châu phía trước và phía sau núi Yên Sơn:
16 châu vùng đất U, Yên trước là đất Trung Quốc, sau Thạch Kính Đường
(nhà Thạch Tấn thời Ngũ Đại) cắt cho nước Khuất Đan, một nước nhỏ
ở phía Bắc Trung Quốc sau gọi là Liêu. Bên giường nằm không cấm được
người khác ngủ ngáy. Do chuyện khi Tống Thái Tổ sai Tào Bân đánh Nam
Đường, vua Nam Đường sai Từ Huyền đến xin hòa, Thái Tổ nói : “Ngọa
tháp chi trắc, khởi dung tha nhân hãn thụy.” Nghĩa là bên giường nằm
của mình, không thể để người khác ngủ ngáy, ý nói thiên hạ phải
thống nhất làm một. Ở đây tác giả nói Tống Thái Tổ muốn khôi phục
lại vùng đất U, Yên thống nhất thiên hạ, không cho người khác ngủ
ngáy bên cạnh giường của mình. Cõi đất cũ khó đem của cải thu tính
hàng năm mà chuộc lại, Tống Thái Tổ đặt kho Phong Xoang, tích chứa
của cải, dự định dùng của này đưa cho Khuất Đan để chuộc lại 16 châu
vùng U, Yên nhưng không thực hiện được. Phong cảnh nay cũng như xưa không
kể gì thịnh suy. Cuộc đời Nam với Bắc, thường vẫn thay đổi được
thua. Ngẫm xem chỉ có đám mây bay kia là tốt hơn cả, lững lơ che phủ
cả nghìn ngọn núi, lúc nào cũng tự do.
YÊN SƠN
Nghệ Tổ bàn mưu
đêm tuyết mưa,
Yên sơn khôi phục
mười châu xưa.
Giường bên khôn
cấm người nằm ngáy,
Đất cũ trông mong
chuộc lại vừa.
Suy thịnh xưa nay
nào kể đến,
Bắc Nam thay đổi
được hay thua.
Ngẫm nhìn mây
trắng bay vui sướng.
Che phủ núi non
trôi lững lơ.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
YÊN SƠN
Nghệ Tổ đương sơ tuyết dạ
trù,
Yên Sơn tiền hậu thập dư
châu.
Bàng biên bất cấm tha nhân
thụy,
Cố nhưỡng nan tương tuế tệ
thu.
Kim cổ phong quang vô thịnh
vãn,
Sóc nam sự cục diệc doanh
thâu.
Nhàn khan duy hữu hành vân
hão,
Phi tráo thiên phong chỉ tự
do.
Trên đường đi sứ nhân ngày
sinh nhật cha, Ngô Thì Nhậm cảm tác bài thơ: Xe hạc đã chơi xa làng mây cách biệt. Hạc
ngự người tiên cỡi hạc bay lên,
người đã khuất, quy tiên. Vân hương là làng tiên Trang Tử có câu : Thùa
bỉ bạch vân, chí ư đế hương, Cưỡi mây trắng kia bay tới làng trời..
Không còn các khách văn thân đến dâng chén rượu mừng thọ như trước
nữa. Nàng dâu cả ở quê, đang thành kính dâng lễ rau tảo suối nam tại
nhà thờ. Giản tảo là rau tảo ở khe suối nam. Kinh Thi, thơ Thái tần :
Vu dĩ thái tần, nam giản chi tân, vu dĩ thái tảo, vu bỉ hàng lạo. Đi hái
rau tần ở khe suối nam, đi hái rau tảo ở dòng nước bên đường(hái rau
này về cúng tổ tiên). Trai; lòng thành kính. Tông dũ: Tông là nhà
thờ dòng họ, dũ là góc tây nam, nơi để thần chủ tôn quí. Thơ Thái
tần Kinh Thi: Vũ dĩ điện chi, tông thất dũ hạ, thùy kỳ thi chi, hữu
trai quí nữ. Nghĩa là Đặt bày rau
tế ở góc tây nam nhà thờ đại tông, ai chủ trì việc này, có người
con gái trẻ một lòng thành kính. Câu này tác giả nói ở nhà có cô dâu
cả làm lễ tế sinh nhật cho cha. Người con đi sứ chưa có tin cành mai
gửi về đất Lũng Đầu. Lấy ý thơ Lục Khải đời Tấn: “Chiếc mai phùng
dịch sứ, ký dữ Lũng Đầu nhân.”Bẻ cành hoa mai, gặp người sứ nhà
trạm gửi cho người ở Lũng Đầu. (Miền núi hiểm trở miền Thiểm Tây,
Cam Túc). Tác giả nói mình chưa có tin tức về nhà, như chưa gửi cành
mai đến Lũng Đầu. Tấc lòng hiếu đạo, đối với công đức cù lao như
trời đất to lớn. Cuộc sứ trình học hỏi, trải bao đường thủy, đường
bộ vội vàng. Non quê muôn dậm luôn luôn hiện về trong giấc mộng. Tại
nơi quán trạm, một buổi sớm sợ thấy hơi thu lạnh lẽo.
. GẶP NGÀY SINH NHẬT CHA
CẢM TÁC
Xe hạc chơi xa
biệt cách mây,
Lấy ai rượu thọ
chén dâng đầy.
Rau thơm dâu cả
bày mâm cổ,
Cõi ngoài khách
sứ vắng tin mai.
Hiếu đạo nhờ
công trời biển vọng.
Sứ trình đi khắp
núi sông nay,
Quê nhà vạn dậm
tìm trong mộng,
Quán khách ban
mai thu lạnh bay.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
TIÊN KHẢO SINH THẦN CẢM TÁC
Liêu liêu hạc ngự cách vân
hương,
Phi phục văn thân hiến thọ
trường.
Giản tảo hữu trai, tông dũ
phụ,
Lũng mai vô tín sứ tình
lang.
Hiếu tư đối việt kiền khôn
đại,
Công sự tư chu thủy lục
mang.
Vạn lý gia sơn tần nhập
mộng,
Dịch đình thiên hiểu kiếp
thu lương.
Đến tỉnh Bắc Trực Lệ, nay
là tỉnh Hà Bắc. Ngô Thì Nhiệm nhân chuyện học hỏi về nghề nuôi la
được béo tốt, giúp đỡ nhiều cho việc chuyên chỡ đồng áng mà muốn
viết một bản điều trần dâng vua về việc khoan sức cho dân.
Chú lái kia nuôi la được việc hơn mười người nô bộc. Người
nô bộc thường đòi hỏi, rét thường kêu ca.
Chú lái dùng la làm bất cứ việc gì. Tải củi, chở nước, chạy
hoài trên đường trường. Có khi quqy bqnh xe đá để xay bột lúa mì. Có
khi kéo cày bừa cho người nông phu. Mùa hè kéo xe auq đường chân núi
nhiều đá cỏi, mồ hôi nhễ nhãi, da lông bụi bám đầy. Thân phục dịch
rất là lao khổ. Nhưng chưa bao giờ thấy nó kêu ca vì sự thiếu cỏ rơm. Hãy xem bầy la đều
béo tốt. Có phải la sinh ra đã có da thịt béo tốt đâu ? Đó là nhờ
chủ nhân nuôi dưỡng có điều độ. Thường chỉ cho la làm việc đến buổi
chiều thôi, sau đó tháo dây cương cho la nghỉ ngơi, rồi cho ân đậu lúa
trộn với dầu mỡ. Lại cho nầm nghỉ ngơi trong chuồng suốt mấy trống
canh. Rồi mới lần lượt theo giờ giấc sắp xếp, rồi mới cho la rong
ruổi. Thời trước, tiên vương dùng sức nhân dân cũng phương pháp này.
Sao dân khó nhọc mà không oán, có phải bỗng không mà được như thế đâu
? Phàm việc đời hễ có sinh là
phải có dưỡng. Người xưa chả từng nói : cỏ, nước, các thức uống
phải đầy đủ ư ? Cơm ăn, áo mặc là
hai điều căn bản để nuôi dân, dân không đói rét thì đều vui tươi. Người
quân tử lo việc nhân ái với dân trước việc quí trọng loài vật. Cao
Dao một hiền thần nhà Nghiêu từng dốc lòng bày tỏ cái mưu đồ chính
sự với vua Vũ : “Tại tri nhân, tại an dân”. Cốt ở biết người và an
dân.(Kinh Thư, thiên Cao Dao mô). Cuộc sứ trình học hỏi này có điều gì
sở đắc. Nguyện dâng bảng điều trần nuôi la của người Bắc Trực.
BÀI HÀNH NUÔI LA Ở BẮC TRỰC
Nuôi la được việc
hơn mười tớ,
Tớ thường đòi
hỏi, rét kêu la.
Sức la dùng mọi
việc nhà,
Chở cũi, xe nước
chạy xa đường trường.
Quay xe đá để xay
bột lúa,
Khi kéo bừa cho
kẻ nông phu,
Hè xe qua núi
hoang vu,
Mồ hôi nhễ nhãi
mịt mù bụi bay.
Thân la phục dịch
nhiều lao khổ,
Chẳng kêu ca vì
thiếu cỏ rơm,
Bầy la béo tốt
cả đàn,
Sinh ra nào có
mở màng tốt tươi.
Chủ nhân vốn
giỏi chăn nuôi,
Thường thì làm
việc ngừng chơi buổi chiều.
Tháo dây cương
chgo la ngơi nghỉ,
Rồi cho ăn đậu
lúa mở dầu,
Trong chuồng thơi
thả canh thâu,
Mới cho lần lượt
bắt đầu ruổi rong.
Tiên vương như thế
dùng dân.
Dân dù khó nhọc
cũng không oán hờn.
Phàm việc đời
có sinh có dưỡng,
Có thức ăn nước
uống đủ đầy,
Cơm ăn áo mặc
hằng ngày,
Dân không đói rét
cuộc đời vui tươi.
Nhân ái dân,
trước yêu loài vật.
Cao Dao xưa bàn
việc yên dân.
Những điều sở
đắc sứ trình,
Nuôi la Bắc Trực
xin dâng điều trần.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
BẮC TRỰC DƯỠNG LA HÀNH
Cừ dưỡng nhất loa thắng
thập nô,
Nô cơ tri khiếu, hàn tri hô.
Cừ dụng loa lực vô trạch
sự,
Vận sài, cấp thủy, bôn đạo
đồ.
Diệc hữu ma miến chuyển
luân thạch,
Thả chí hạ sừ bạn canh
phu.
Hạ nhật vãn xa thiệp xa
lộc,
Hãn lai mao bì triêm trần .
Loa thân phục dịch thậm lao
khổ,
Thảo liệu bất văn minh hữu
vô.
Tế khan loa quần tổng phì
trạch,
Khởi loa sinh lai hảo cơ phu.
Chủ nhân dưỡng loa hữu tiết
độ,
Tầm thường hành tẩu đáo
nhật bô.
Vị giải cơ mi phóng an dật,
Đậu, mạch đoạn tạp cao du
bô.
Phục lịch thư nhàn nhất
nhị cổ,
Thứ đệ tựu sách phương trì
khu.
Tiên vương dụng dân diệc thử
thuật,
”Lao nhi bất oán “ phù khởi
đồ,
Đại phàm hữu sinh tu hữu
dưỡng,
“Dụ thủy phong thảo” bất
vân hồ.
Y thực dưỡng dân đại bản
lĩnh.
Dân bất cơ hàn tất hoan ngu.
Quân tử nhân dân tiên ái
vật,
Cao Dao cần thỉ “an dân” mô.
Tư tu thử hồi hà sở đắc,
Nguyện thượng Bắc Trực
dưỡng loa đồ.
Ban chiều ngồi buồn rót
rượu uống, chống cửa sổ lên mà ngắm cảnh. Một vầng trăng tròn với
hình ảnh cây quế, đang rọi bóng xuống nghìn dòng sông. Người xưa Trung
Quốc nhìn những vết xám trên mật trăng tưởng tượng có cây quế của
người tiên nên gọi là quế phách, nước ta là cây đa chú cuội và chị
Hằng .Lòng khách bồi hồi muốn dạo chơi trên cầu Lư Câu, bỗng đâu nghe
tiếng sáo từ ngôi lầu thanh vắng vọng tới. Lư Câu là tên sông và cũng
là tên cầu ở tỉnh Hà Bắc TQ, còn gọi là sông Tang Can hay Vĩnh Định,
có cây cầu đá dài xây dựng từ đời Kim. “Lư Câu hiểu nguyệt”, vầng
trăng buổi sớm ở Lư Câu là một trong tám cảnh đẹp Yên Kinh.
TRĂNG THU
Nâng chén song
chiều rượu giải sầu,
Vầng trăng bóng
quế rọi sông sâu.
Bồi hồi khách muốn Lư cầu dạo,
Vọng sáo nhà ai
tự mái lầu.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
THU NGUYệT
Sầu bả hồ tôn thác vãn
song,
Nhất luân quế phách ảnh
thiên giang.
Khách hoài dự phóng lư câu
bộ,
Hà xứ nhàn lâu địch sổ
xoang.
Thu Thủy, Nước mùa thu. Đầm lạnh qua
trận lụt, làn nước ánh bạc trong trong suốt. Câu này lấy ý ờ câu thơ
Vương Bột, bài Đằng Vương Các :
“Lạo thủy tận nhi hàn đàm thanh.” Nước lụt hết mà đầm lạnh trong
veo. Lại cả bầu trời lộn bóng dưới đáy, cảnh sắc này vẻ sao cho
giống được. Râu tóc bị mối u sầu tới đã đổi màu nhiều. Chẳng mấy
khi buồn đi dạo bước buổi chiều ngoài bến hoa thơm.
NƯỚC THU
Đầm lạnh sau cơn
lũ nước trong,
Bầu trời lộn
bóng vẽ sao thành.
Râu tóc ưu sầu
lên sắc bạc.
Buồn khi tản bộ
bến hoa thơm.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
THU THỦY
Hàn đàm lạo tĩnh thủy như
ngân,
Đảo ảnh trường không họa
bất chân.
Tu mấn xâm sầu đa cải hoán,
Kỷ kham tản bộ hưởng phương
tân.
Bài Cúc Thu. Một giống
hoa tiết tháo thanh cao, phá tung
trời rét nở ra đầy núi. Điểm riêng cảnh sắc mùa thu, vượt hẳn các
loài cây cỏ khác. Sực nhớ vào năm ngoái, ngồi dưới châu hoa bên đông
nơi vườn cũ. Đào Tiềm có câu: Thái cúc đông ly hạ hái cúc dưới dậu
bên đông. Nhắp chén rượu nhai bông cúc nonm suốt ngày ngàn rỗi.
CÚC THU
Tiết cao xông rét
núi hoa đầy,
Điểm sắc mùa thu
vượt các loài.
Sực nhớ vườn
đông năm ngoái ấy,
Thưởng hoa nhắm
rượu suốt ngày dài.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
THU CÚC
Cao tiết xung hàn phóng mãn
sơn,
Độc siêu quần hủy điểm thu
nhan.
Hốt tư cựu tuế đông ly hạ,
Đối tửu xan anh tận nhật
nhàn.
Bài Đêm Thu. Khí trời heo
hắt, đêm đến lại càng thêm lạnh lẽo. Móc trắng rơi đầy vườn rừng,
trăng soi đầy sân. Tiếng ốc thổi não ruột, làm lạnh cả tấm lòng năm
canh. Người nằm quán khách không thể nào nghe được khi mối sầu đang
nặng bên mình.
ĐÊM THU
Hiu hắt trời
khuya hơi lạnh căm,
Trăng soi sân
rộng, móc vườn rừng.
Năm canh tiếng ốc
lòng thêm buốt,
Người nằm quán
khách thấy sầu dâng.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
THU DẠ
Nghiêm thiên nhập dạ bội
thanh lãnh,
Lộ mãn viên lâm, nguyệt mãn
đình.
Hàn ngũ canh tân la giác
vận,
Bất kham lữ quán đới sầu
thinh.
Tiếng đập vải mùa thu. Tiếng đập vải đêm trăng từ ba nghìn
hộ đưa tới. Vang động cả mười hai
phố Trường An. Lý Bạch bài Tử dạ ngô ca có câu: Trường An nhất phiến
nguyệt, vạn hộ đảo y thanh, Một tấm trăng thanh kinh đô Trường An, vang
tiếng đập vải của vạn nhà. Tiếng này chưa chắc đã đến tai người
lính thú phương xa. Chỉ nện vào tâm tình nhớ thu của người đi sứ
hoàng hoa nằm quán trạm. Hoa dịch, hay mai dịch là trạm dừng chân, lữ
quán người đi sứ.
TIẾNG ĐẬP VẢI MÙA THU
Đêm trăng đập vải
ba nghìn hộ,
Vang động Trường
An chục phố thành.
Có đến được tai người lính thú,
Lòng thu tan nát
sứ dừng chân.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
THU CHÂM
Thanh tòng nguyệt dạ tam
thiên hộ,
Hưởng động Trường An thập
nhị nhai,
Viễn thú vị ư năng đáo
nhĩ,
Thiên ư hoa dịch đảo thu hoài.
Phòng khuê mùa thu. Mối tình nhớ thương vì ai mà dâng lên
nhiều. Gượng tô nét phấn đã tàn, cảm thấy lạnh lẽo như không chịu
được. Nhất là người chinh phụ năm lại năm mong nhớ. Biết bao lần lẳng
lặng ngồi bói cái hoa đèn kia. Người xưa thắp đèn dầu lạc, đôi khi
ánh đèn bùng lên là điềm báo tin mừng. Hoa đăng ngọn đèn kết hoa là
điềm báo tin mừng, Thơ Đỗ Phủ: Đăng hoa hà thái hỉ. Hoa đèn sao mừng
lắm như thế.
PHÒNG KHUÊ MÙA THU
Vì ai vương vấn
mãi tơ tình,
Gượng điểm dung
nhan xót lạnh lùng.
Nhất người chinh
phụ bao năm nhớ,
Bao lần lẳng
lặng bói hàn đăng.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
THU KHUÊ
Hương hoài đa thiểu vị thùy
tăng,
Cưỡng lý tàng trang lãnh
bất thăng.
Tối thị liên niên chinh phụ
tứ,
Kỷ hồi mặc tọa bốc hoa
đăng.
BÀI NGÂM CÂU DÀI CÂU NGẮN. Anh có thấy
chăng. Đám mây ngoải Ngũ Lĩnh, xưa là ranh giới Trung Hoa và Bách
Việt, sớm bay chiều lại bay. Tung hoành trên trời cao, không lúc nào
nghỉ ngơi. Lại chẳng thấy sông Minh Ninh Giang ở Quảng Tây chảy xuôi
xuôi mãi. Băng trên các ghềnh đá xuôi chảy về biển đông. Mây và nước
không có lòng gì mà có sức mạnh. Luân lưu vận hành không lúc nào
ngơi nghỉ. Lòng vợi sức không phải không có mối tương quan. Cái lẽ ấy
tự nhiên dễ ai biết được. Không phải mây muốn cao mà bay trên tầng
không. Không phải nước muốn sâu mà xô về biển xanh. Mây và nước không
cầu gì, tầng cao và làn sâu, chỉ tùy theo sự đưa tới mà thôi. Không
ai làm ra mà như thế, ấy là quyền lực của hoá công. Cái đạo làm tôi
phải đi sứ rong ruổi cõi xa cũng cùng chung theo lẽ ấy. Đông, tây, nam,
bắc đểu là phận sự thường. Bôn ba việc nước chẳng qua là làm theo
lẽ tự nhiên. Không sự yên vui nào có thể cầu được, mà cũng không có
sự khó khăn nào có thể tránh được. Suy ra nếu được yên vui thì còn
khó khăn gì? Những người yên vui thường suốt ngày nhàn rỗi. Mỗi khi
dạo chơi xem phong cảnh, lại thưởng thức một chén rượu, rồi lại ngâm
nga, ngủ ngáy, rồi lại ăn cơm! Từ đây đi Yên Kinh còn bao dặm đường.
Tính đốt ngón tay mới là bước hành trình khởi đầu. Mây xanh muôn dặm
sự đắc ý còn nhiều. Mưa móc chín tầng ơn mới đang được thấm nhuần.
Tấm lòng trong sáng như làn nước trong chậu kia, hãy giữ gìn cho thật
tốt. Làm theo chức vị hiện tại của mình, lòng ta tự thấy khoan khoái. Anh chẳng thấy : Quách Phần Dương giữ
lòng trung tín, yên đạo nghĩa mệnh. Dẫu tấm thân đơn độc chạy khắp
tám cõi xa, cũng chẳng ai làm gì được. Quách Phần Dương tức Quách
Tử Nghi danh tướng đời nhà Đường có công dẹp loạn An Lộc Sơn, Sử
Tư Minh được phong tước Phần Dương
Vương. Khi Tử Nghi giữ đất Hà Trung, dân tộc Hồi Hột, Mông Cổ đem mấy
chục vạn quân đến vây, Tử Nghi thân chinh sang trại địch dụ hàng, quân
Hồi Hột rút lui.
BÀI NGÂM TRƯỜNG ĐOÃN CÚ
Anh có thẩy :
Đám mây ngoài
Ngũ Lĩnh, sớm chiều trôi, tối lại bay đi.
Tung hoành trên
giữa trời xanh không có một lúc nào ngơi nghỉ.
Lại chẳng thấy :
Sông Minh Giang
xuôi dòng trôi mãi, qua đá ghềnh cuồn cuộn về đông.
Mây nước vô tâm,
sức mạnh vô cùng,
Vận chuyển mãi
không ngừng dừng lại.
Lòng với sức
tương quan nhau ấy,
Lẽ tự nhiên ai
dễ biết thay.
Mây chẳng ham cao
mà vẫn lượn bay,
Nước chẳng muốn
sâu vẫn xô về biển cả.
Mây nước không cầu
gì tầng cao, dòng sâu, chỉ tùy sự mà đưa tới.
Không phải ai làm
mà ra như thế ! ấy chỉ là quyền lực của hoá công,
Cái đạo làm tôi
xa thẳm ruổi rong, nghĩ lại cũng cùng chung lẽ ấy.
Đông, Tây, Nam,
Bắc đều là phận sự,
Bôn ba việc nước
làm theo lẽ tự nhiên.
Không yên vui nào
cầu được, làm sao tránh khó khăn.
Suy ra chẳng yên
vui, chẳng gì khốn khó.
Người yên vui
suốt ngày nhàn rỗi,
Khi dạo chơi phong
cảnh, thưởng rượu ngon.
Rồi ngâm nga, ngủ
ngáy, ăn cơm.
Từ đây tới Yên
Kinh đường còn bao nhiêu dậm.
Tính đốt ngón
tay hành trình chỉ mới khởi hành,
Muôn dậm mây xanh
đắc ý còn nhiều,
Mưa móc chín
tầng, ơn mới được nhuần sâu,
Lòng trong sáng
như nước chậu, hãy giữ gìn thật tốt.
Làm theo chức vị
hiện tại, tự thấy lòng khoan khoái.
Anh chẳng thấy :
Quách Phần Dương
giữ lòng trung tín, nghĩa mệnh đạo yên.
Dẩu tấm thân đơn
độc chạy khắp nơi,
Tám cõi xa chẳng
ai làm gì được.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
TRƯỜNG ĐOÃN CÚ NGÂM
Quân bất kiến :
Lĩnh ngoại hành vân triêu
tịch phi,
Tung hoành tiêu hán vô dĩ
thì.
Hựu bất kiến :
Minh giang thệ thủy trường
lưu ti,
Triều đông bôn sử thượng hạ
ky(cơ).
Vân thủy vô tâm nãi hữu
lực.
Chu lưu vận hành bất thiểu
tức.
Khởi kỳ tâm lực phi tương
quan,
Thử lý hồn nhiên thùy thức
đắc,
Phỉ vân cầu cao đằng thái
không,
Phỉ thủy vọng thâm xu minh
mông.
Cao thâm phi ý, tùy sở để,
Mạc vi nhi vi thụy hóa công.
Thần đạo trì khu đồng thử
lý,
Nam bắc ông tây thường sự
nhĩ,
Xu phó vô quá thính tự
nhiên,
Hà đắc sở cầu nan khả tỵ
?
Toán lai vô đắc khước vô
nan,
Đắc vi thường thâu tận nhật
nhàn.
Duyệt thực phong quang nhất
tôn tửu,
Hựu ngâm hựu thụy hựu gia
xan.
Thử khứ đế kinh hứa đa lộ,
Khuất chỉ tiền trình sơ
phát bộ,
Vạn lý thanh vân đắc ý đa,
Cửu thiên mạch mộc tôn cam
lộ.
Tâm thủy bàn trung hảo
phũng lai,
Hành ngô tố vị sảng ngô
hoài.
Quân bất kiến :
Quách Phần Dương trượng
trung tínm an nghĩa mệnh,
Tuy cô thân tẩu biến bát
cực thùy hà tai !
Trên đường đi Ngô Thì Nhậm
còn làm bài thơ thứ hai nhớ Văn Thiên Tường. Qua Cát Thủy, huyện thuộc tỉnh Giang Tây
quê của Văn Thiên Tường, ông lấy Văn Sơn tên ngọn núi trước nhà làm
bút hiệu. Người đời Tống đỗ trạng nguyên làm tể tướng khi quân Nguyên
Mông Cổ sang xâm lược, Thiên Tường hết sức chống đánh mong khôi phục
lại nhà Tống, sau thua trận bị bắt, không chịu khuất phục người
Nguyên giết đi, trong ngục ông làm bài Chính Khí Ca danh tiếng để lại
đời.
Trời nghĩ ơn đức nhà Tống
để sót lại một vị thửa tướng. Bài văn thi Đình đã tỏ can trường
sắt đá từ trước. Văn Thiên Trường đi thi Đình, vua Tống lấy đỗ trạng
nguyên, chủ khảo là Vương Ứng Lân rất thán phục văn của ông, nói :
“Thị quyển trung can như thiết thạch; quyển văn này có cái tâm can
trung nghĩa như sắt đá. Một cái chết ung dung, quyết gánh lấy đạo
cương thường. Khi bị người Nguyên xử tử ông ung dung bảo kẻ lại tốt
rằng: “Ngô sự tất hỷ”. Công việc ta thế là xong rồi. Chiến thiuyền
xưa đã chìm bóng sao, lòng còn hướng mãi. Sau khi thua quân Nguyên, vua
Tống chạy ra vùng Nhai Sơn, biển Nam lập đội chiến thuyền lớn để
chống giữ. Tướng Nguyên là Trương Hoàng Phạm tới đánh phá Thừa tướng
Lục Tú Phu cõng vua Tống cùng gieo mình xuống biển chết. Bài vị mới
bị gió cuốn đi, mối hận chưa nguôi. Nguyên chú : Sau khi Văn Thiên Tường tử tiết, người
Nguyên kính trọng, sai làm lễ tế viết bài vị là : “Đại Nguyên thừa
tướng”, bỗng có trận gió cuồng nổi lên cuốn bay bài vị đi đâu mất,
người Nguyên thấy thế sợ, viết đổi lại : “Cố Tống thừa tướng, lễ tế mới thành. (Sách Lịch đại thông
giám tập lãm cũng chép việc này).
Đăm đăm nhìn ngọn núi Văn, lại càng thêm cảm. Nhác thấy thấy
con quạ trời lạnh, liệng xuống thăm viếng buổi chiều tà.
QUA BẾN CÁT THỦY
TRÔNG NÚI VÂN SƠN NHỚ VĂN
THỪA TƯỚNG
Trời ban ơn Tống
sinh Thừa tướng,
Đã tỏ can trường
bài luận Đình.
Điên đảo nửa đời
tranh tạo hóa.
Ung dung cái chết
gánh cương thường.
Sao chìm thuyền
Chúa lòng còn hướng,
Gió cuốn bài
thờ hận chữa tan.
Nhìn núi Văn Sơn
lòng lòng ngưỡng vọng,
Quạ bay trong
lạnh buổi tà dương.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
QUÁ CÁT THỦY TÂN THỨ, VỌNG
VĂN SƠN,
ĐIẾU VĂN THỪA TƯỚNG
Thiên liên Tống trạch di
thừa tướng,
Đình đối tiên tư thiết
thạch trường.
Điên bái bán sinh tranh tạo
hóa,
Thung dung nhất tử nhậm
cương thường.
Tinh trầm cố hạm tâm trường
hướng,
Phong quyển tân bài hận vị
thường.
Tối thị Văn sơn ngưng đế
xứ,
Hàn nha sổ điểm điếu tà
dương.
NGÔN HOÀI Nói lên nỗi lòng. Đi hộ tống sứ bộ quan lính nhà
Thanh cũng lo sợ về việc giản thư.
Chỉ vua gấp rút triệu tới đâu dám trể tràng. Giản thư là thư cấp
báo của các nước chư hầu ngày xưa. Kinh Thi có câu: “Khởi bất hoài qui, úy thử giản thư.”
Há chẳng mong về, sợ bức giản thư ấy.. Thiên luân là chỉ trời, chiếu
dụ vua nhà Thanh. Được tin cấp báo sứ bộ Việt Nam sang báo tin vua
Quang Trung mất, vua Càn Long nóng lòng viết chỉ dụ ra lệnh quan quân
đưa gấp sứ bộ về Yên Kinh, điều này chứng tỏ tấm lòng vua Càn Long
đã trân trọng vua Quang Trung, từ một địch thủ đánh bại đội quân Tôn
Sĩ Nghị biến thành một người thân thiết, làm lễ ôm gối nhận tình
cha con, đến việc nhận lễ cầu hôn sẵn sàng gã công chúa và giao cho
hai tỉnh Quảng Đông Quảng Tây. Việc thân thiết này đáng mừng hay lo cho
quyền lực mềm của Nhà Thanh, không khéo Việt Nam trở thành quận huyện
Trung Quốc. Đang buồn vì đường chạy trạm mưa dầm không ngớt. Lại cười
cho ngựa câu không bằng dòng suối chảy mau. Suy lại tình người sỡ dĩ
họ luôn thuận chiều hộ vệ chu đáo. Cũng do thấy ta bôn tẩu vì việc
nước mà có cái nghĩa tương thân. Ngô Thì Nhậm nghĩ vì mình lo việc
nước mà quan quân nhà Thanh phải chu đáo như thế có biết đâu vua Càn
Long đang suy tính một kế hoạch quyền lực mềm khác ? Khi vua Cảnh Thịnh bị Gia Long đánh bại
chạy ra đất bắc cũng đã cho người cầu với nhà Thanh. Khi Gia Long
toàn thắng lại gấp rút sai sứ bộ Tề Bồ Sâm sang phong vương vua Gia
Long. Thời nào Trung Quốc cũng thuận chiều mà giữ cái thế thiên tử
kẻ cả ở trên đối với nước nhỏ, chỉ mạnh như Nhật Bản mới áp đặt
vua Phổ Nghi nhà Thanh mất nước làm
vua Mãn Châu Quốc. Từ xưa cần lao vốn là tể thuốc trường sinh. Sao cứ
ngồi trong xó ngôi nhà cao mà ôm lấy lò ấm.
NGÔN HOÀI
Hộ sứ quan còn
sợ giản thư.
Chiếu vua gấp
rút dám sai đâu.
Đang buồn đường
trạm mưa tầm tả,
Cười ngựa không
bằng nước chảy mau.
Suy đoán tình
người chu đáo việc.
Vì ta bôn tẩu
nghĩa tình nhau.
Cần lao tự cổ
là môn thuốc,
Chẳng phải luyện
đan trong lò cao.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
NGÔN HOÀI
Bạn tống viên biền úy giản
thư,
Thiên luân thôi triệu cảm
hoàng cư.
Chính sầu phi dịch vũ vô
chỉ,
Khước tiếu bôn tuyền câu
bất như.
Suy bỉ thuận lưu tình sở
dĩ,
Kiấn dư xu sự nghĩa tương ư.
Cần lao tự cổ trường sinh
tễ,
Hà tất cao đường tọa ủng
lư (lô).
ĐI DƯỚI TRỜI MƯA. Ngày đêm đi gấp con đường 500 dặm ( khoảng
gần 250 km). Người và ngựa rong ruổi không dám ngủ. Vì vị quan tổng
đốc hỏa tốc truyền tờ chiếu thư. Người phiên sứ vâng thánh chỉ rong
ruổi mau như sao. Mưa rơi từ chín tầng trời làm trơn ướt bánh xe. Phần
thì mây kéo mịt mờ, phần thì mưa tuôn dào dạt. Thác nước reo như
sấm, nước chảy tựa tên bay. Người lái đò hô to : “Ông sang sông ngay.”
Vừa sang khỏi sông lại trèo lên đường núi. Đá núi nhọn hoắt trời
vừa sẩm tối. Núi non hiu quạnh chẳng thấy khói lửa gì. Tiếng người
văng vẳng nghe như ở ngoài tầng mây. Nơi bản kiều thôn xóm xa xa, ngọn
đèn khi mờ khi tỏ. Bọn lính canh hô nhau
đến tiếp đón. Sương khói mịt mùng không trông rõ hình sắc.
Bổng chốc phía núi đông vầng hồng hiện lên. Non sông chiếu vào mắt
như những bức tranh thủy mặc. Đèn đuốc sáng choang cả một bầu trời
không có ban đêm. Trong thành Vĩnh Phúc, nhân vật đầy vẻ hào hoa. Bao
đình quán dựng ở ven sông liền như vẩy cá. Nhà đón khách kết hoa
lộng lẫy. Sứ thần đang có quốc tang, ngần ngại từ chối không dám
vào. Các quan lại trong dinh sở, đều chắp tay lên trán làm lễ. Ai ai
cũng không quên đấng tiên vương của ta.(Sứ bộ năm 1790 với vua Quang
Trung đã qua đây ) Người xưa thường nói đường núi Tĩnh Hình là hiểm
trở. Tên núi ở Hà Bắc, thuộc phân chi núi Thái Hằng, núi này hình
thế hiểm trở, bốn mặt cao giữa trủng vực sâu như cái giếng nên gọi
là Tỉnh Hình. Dù hiểm trở nhưng biết cẩn thận là điều tốt hơn hết.
Đi Đường xa lên núi cao, phải tự mình gìn giữ. Thiên vương, vua Càn
Long hứa hẹn cho sứ giả về sớm.
ĐI DƯỚI TRỜI MƯA
Ngày đêm đi gấp
năm trăm dậm,
Người ngựa ruổi
rong chẳng nghỉ nào.
Chiếu thư hỏa
tốc truyền quan tỉnh,
Phiên sứ vội
vàng như ánh sao.
Mưa đổ chín tầng
trơn bánh xe,
Mây đen mờ mịt,
mưa dầm dề.
Thác reo như sấm,
mưa như trút.
Người lái đò hô
: “Sang sông nghe.”
Vừa sang sông lại
trèo đường núi,
Đá núi nhọn cao
trời tăm tối.
Ngọn núi quạnh
hiu chẳng lửa soi,
Tiếng người văng
vẳng ngoài mây tới.
Nơi Bản Kiều xa
đèn tỏ mờ,
Bọn lính canh
tranh đón tiếp hô,
Sương khói mịt
mùng không rõ sắc,
Bổng chốc núi
Đông vầng hồng nhô.
Non sông trong mắt
như tranh họa,
Đèn đuốc sáng
choang trời không đêm,
Vào thành Vĩnh
Phúc, dân nho nhã,
Đình quán bên
sông nối tiếp liền.
Nhà khách đón
hoa kết lộng lẫy,
Sứ thần tang chế
không dám đương.
Các quan dinh sở
chắp thi lễ,
Ai cũng không quên
đấng Tiên Vương,
Người xưa cho
đường Tỉnh Hỉnh hiểm,
Đường hiểm không
bằng mình giữ gìn.
Thiên vương hứa
sứ cho về sớm.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
VŨ HÀNH
(Thơ thất ngôn cổ phong)
Nhật dạ kiêm trình ngũ
bách lý,
Nhân mã trì khu bất cảm
thụy.
Khổn thần hoả tốc đằng chiếu
thư,
Phiên sứ tinh trì phụng
thiên chỉ.
Cửu thiên cao vũ nhuận tùy
xa,
Nhất diện ổng ế nhất bàng
đà.
Bộc bố như lôi, thủy như
tiển,
Chu tử huyên hô: “Công độ
hà.”
Tài độ liễu hà phục đăng
lĩnh,
Lĩnh thgạch như tiêm, thiên
sắc minh.
Không sơn tịch mịch vô tài
yên,
Nhân ngữ đãn tòng vân ngoại
thính.
Bản kiều dao dao chúc diệc
minh.
Thú tốt truyền hô lại tiếp
nghinh.
Yên vụ mông mông sắc bất
biện,
Tu du đông sơn, nhất luân
minh.
Giang sơn nhập nhãn kham đồ
họa,
Đâng chúc tinh huỳnh thiên
bất dạ.
Vĩnh Phúc thành trung nhân
vật hoa,
Lâm lưu lân tập xưởng đình
tạ.
Ngũ hoa thái kết quán tân
đường,
Sứ thần hàm tuất từ bất
đương,
Sanh tào tòng sự cát gia
ngạch,
Cá cá bất vong ngã tiền
vương.
Tích nhân tằng ngôn Tỉnh
Hình đạo,
Khuynh hiểm vô như gia ý
hảo,
Hành viễn đăng cao yếu tự
trì,
Thiên vương dĩ hứa qui hồi
tảo.
ĐI ĐÊM. Từ Cửu trùng ngai vàng vua Càn Long truyền chỉ đưa
sứ thần nhanh chóng về triều. Ngựa ruổi xe rong chỉ nẻo theo hướng
chuôi sao Bắc Đẩu. Sao Bắc đẩu có 7
sao, bốn sao hình vuông gọi là “khôi”, ba sao dài là “tiêu” (chuôi), đi
theo sao Bắc đẩu là đi về hướng bắc, triều đình Bắc Kinh. Bầu trời thấy sáng bừng, tinh tú bội
phần chói lọi. Mặt đường như bằng phẳng, núi non mất cả gập ghềnh.
Ngọn đuốc sáng rực, truyền qua các trạm mai. Cờ tinh phơi phới, chạm
vả cành dương liễu. Năm canh tiếng chim hót thường lẫn vào giấc mộng.
Tưởng như ngồi bên khúc nhạc quân thiều nơi cửa khuyết triều đình
phía nam.. Quân thiều tức “quân thiên” và “cửa thiều” nhạc vua Thuấn,
khúc nhạc diễn tả cảnh tượng thái bình khúc nhạc của thiên tử.
ĐI ĐÊM
Chín tầng truyền
chỉ sứ về triều,
Bắc Đẩu theo sao,
ngựa ruổi mau.
Trời sáng bừng
muôn sao chói lọi,
Mặt đường bằng
chẳng núi chen nhau.
Đuốc truyền rực
sáng trạm mai dịch,
Phất phới cờ
tinh bóng liễu cao.
Chim hót năm canh
vào giấc mộng,
Tưởng nhạc quân
thiều Nam cung nao.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
DẠ HÀNH
Cửu trùng tuyên chỉ thôi
triều sứ,
Mã sậu xa trì chỉ đẩu
tiêu.
Thiên thự tinh thần khai xán
lạn,
Địa di nham lĩnh thất khê
nghiêu.
Hoàng hoàng minh chúc
truyền mai dịch,
Bái bái hành tinh phật
liễu điều,
Ngũ dạ điểu thanh tần nhập
mộng,
Y hy nam khuyết bạng quân
thiều.
Cuộc đi khẩn cấp buồn ngủ nhưng khó ngủ lắm. Ngày đêm rong
ruổi không dám nghỉ ngơi. Mười cổ xe vang tiếng ngựa hí, bon bon dưới
ánh trăng nghìn dậm. Trăm nóc nhà vẳng nghe tiếng gà gáy trong làn
sương canh năm. Chưa phải lúc gối đầu cánh tay, yên phận ăn cơm hẩm,
uống nước lã. Do câu Khổng Tử: “Phạn
sơ tự, ẩm thủy, khúc quảng nhi chẩm chi, lạc diệc tại kỳ trung hỷ.”
Ăn cơm hẩm, uống nước lã, nằm co cánh tay mà gối đầu, vẫn có cái
thú vui ở trong. Ý nói cảnh an bần lạc đạo. Vẫn nên tinh sáng con
mắt mà xem nồi kê vàng thổi chín. Tích Lư Sinh đời Đường, vào nghỉ
quán trọ đất Hàm Đan, gặp ông già họ Lã. Sinh than phiền cảnh khốn
cùng, ông già liền cho mượn cái gối tiên chẩm mà nằm ngủ. Sinh mơ
thấy mình đỗ tiến sĩ làm tể tướng mười năm rất vinh hoa phú quý.
Sinh tỉnh dậy thì nồi kê vàng của chủ quán nấu vẫn chưa chín (Chẩm
trung ký), người sau dùng chữ hoàng lương để chỉ gấc mộng phú quý.
Danh lợi vốn là con đường lo sợ nhiều huyên náo. Tâm hồn ta luôn luôn
thức tỉnh trong sáng cũng không ngại gì.
ĐI GẤP KHÓ NGỦ
Buồn ngủ gấp đi,
chẳng ngủ tròn,
Ngày đêm rong
ruổi chẳng dừng chân.
Mười xe ngựa hí
trăng ngàn dậm.
Trăm nóc gà vang
sương canh năm.
Cơm lạnh nước tu
tay chẳng gối,
Nồi kê chưa chín,
mắt mơ màng.
Đường đời danh
lợi đầy huyên náo,
Thức tỉnh lòng
ta thấy nhẹ nhàng.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
KHẨN HÀNH THỤY NAN
Khẩn hành dục thụy thụy
thù nan,
Nhật dạ bôn trì mỹ cảm
hoàng.
Thập thặng mã tê thiên lý nguyệt,
Bách gia kê khiếu ngũ canh
sương.
Khúc quâng vị hợp an sơ
thủy,
Tuệ nhãn hoàn ưng khán
thục lương.
Danh lợi úy đồ đa nhiệt
náo,
Thanh minh tỉnh giác tự vô
phương.
Dọc đường Hà Nam, tỉnh
phía nam sông Hoàng Hà, ông viết : Ráng mây buổi sớm treo trên cánh
đồng bằng. Bốn con ngựa to lớn kéo xe chạy rầm rầm. Ruộng lúa mạch
chín giữa tiết hè, phơi đầy bông vàng. Đường rặng liễu lộng gió,
cuốn tung làn cát trắng. Trên Bộc trong dâu dâm phong đã đổi khác xưa.
Tang gian Bộc thượng, Hà Nam xưa là cõi đất nước Vệ, có sông Bộc trên sông có đất
Tang gian, trồng dâu, trai gái thường tụ hội tình tự bất chính, người
sau gọi phong tục dâm bôn là “Tang gian Bộc thượng”. Hào hoa văn vật
còn kém đất Việt, đất Kinh. Việt tức Việt Đông nay là Quảng Đông, Quảng Tây, Kinh là
cõi đất hai tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc.
Phong cảnh trung châu đã quen trong sứ trình học hỏi. Giữa buổi ngày
dài, tựa xe ngồi ngắm bốn phương
xa.
DỌC ĐƯỜNG HÀ NAM
Bài I
Mây hồng lơ lững
giữa đồng bằng,
Bốn ngựa to vang
tiếng chạy ầm.
Lúa mạch vàng
hè bông trĩu chín,
Liễu cao lộng
gió, vát bay tung.
Trong dâu trên Bộc
dâm phong đổi,
Văn vật hào hoa
kém Việt Kinh.
Phong cảnh Trung
Châu quen học hỏi,
Ngày dài xe gối
ngắm mênh mông.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
HÀ NAM ĐẠO TRUNG
Kỳ I
Thản đãng giao nguyên quải
thự hà,
Lân thanh phụ tứ cấp khu xa.
Mạch điền hạ thục phô
hoàng tuệ,
Liễu lộ phong cao quyển
bạch sa.
Cổ tục dĩ di Tang, Bộc mỹ,
Nhân văn bất tỷ Việt, Kinh
hoa.
Tuân tư sảo quán trung châu
cảnh,
Trú vĩnh, bằng hiên thiếu
tứ hà.
Bài II Cảnh vật Dự Châu đất Hà Nam nổi tiếng nhất vùng
trung nguyên. Thăm viếng dấu xưa ngồi tựa xe mà chạnh lòng. Năm trăm năm
một lần nước trong, sông Hoàng Hà luống ví với miệng cười. Ba lần
chúc lời “vạn tuế” núi Tung Sơn bổng nhiên biết nói. Nước sông Hoàng
Hà luôn luôn vàng đục, tương truyền cứ năm trăm năm có một lần trong.
Bao Chửng đời Tống làm quan đất Khai Phong thủ phủ Hà Namm tính cương
nghị, ít khi cười, người ta ví nụ cười ông như sông Hoàng Hà năm trăm
năm mới có một lần. Tung Sơn là núi lớn tỉnh Hà Nam vua Hán Vũ Đế
lên tế thần núi bổng nghe tiếng hô vạn tuế ba lần, người sau dùng từ
“tung hô” hay “sơn hô” làm lời chúc thọ nhà vua. Đô ấp của lịch triều
(thời Xuân Thu) đã biến thành bao đám ruộng cao thấp. Thành trại của
các nước (thời Chiến Quốc), giờ đây là những xóm dân cư gần xa.
Những mong ngày trử về sông Nam quê hương, mái chèo lại được yên ổn.
Chuyến du lịch này đã xem cảnh đẹp khắp trời đất.
Bài II
Dự Châu cảnh vật
nhất Trung nguyên,
Thăm viếng dấu
xưa, tựa gối yên.
Mĩm miệng năm
trăm sông hết đục,
Ba lần vạn tuế
núi hô vang.
Lịch triều đô
hội, gò cao thấp,
Liệt quốc dinh
cơ, nay xóm làng,
Mong buổi sông Nam
thuyền trở lại,
Đã xem phong cảnh
khắp càn khôn.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
Kỳ II
Dự Châu phong vật giáp trung
nguyên,
Phóng cổ hưng hoài nhất ỷ
viên.
Hà ngũ bách niên không tỷ
tiếu,
Sơn tam vạn tuế hốt năng
ngôn.
Lịch triều đô ấp cao đê
lũng,
Liệt quốc giao khư viễn cận
thôn.
Cảnh nghỉ giang nam qui trạo
ổn,
Tư du thắng lãm biến kiền
khôn.
THƯ ViệN DĨNH XUYÊN. Nguyên chú viết: “Thư viện ở huyện Lâm Dĩnh. Hoàng Bá
làm quan Thái Thú Dĩnh Xuyên có phượng hoàng thần tước đến nơi đây”.
Hoàng Bá người đời Hán Vũ Đế làm Thái Thú Dĩnh Xuyên sau làm Thừa Tướng. Thời xưa
nơi các sĩ tử học gọi là Thư viện. Đến đời Quang Tự nhà Thanh mới
đổi thành học đường.
Lầu các trùng trùng ôm sườn núi biếc. Nơi mở trường học
buông màn đỏ. Đàn gảy, khánh rung sách nức hương thơm. Cành mai chạm
nghiên, mực bay hạt móc. Nơi danh giáo là niềm vui cho hạng mày ngài.
Chốn thuần lương chuyện phượng hoàng bay đến không phải là điều giả.
Muốn tìm việc cũ xem cảnh mới. Mười cổ xe của sứ bộ lại ruổi rong
đi.
THƯ ViệN DĨNH XUYÊN
Lầu gác trùng
trùng lưng núi xanh,
Học đường đây
trướng đỏ buông màn,
Đàn vang khánh
gõ thơm hương sách,
Nghiên chạm cành
mai giọt mực sương,
Danh giáo niềm
vui trai học hỏi.
Thuần lương bay
đến phượng ung dung.
Muốn tìm việc
cũ xem phong cảnh,
Đoàn sứ mười xe
lại ruổi rong.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
DĨNH XUYÊN
THƯ ViệN
Lầu các tầng tầng ủng
thúy vi,
Môn trường khai sứ giáng sa
thùy.
Cầm kiêu linh thạch thư hương
động.
Nghiễn phất mai điều mặc
lộ phi.
Danh giáo tự nhiêu nga tử
lạc,
Thuần lương hà giá phượng
hoàng nghi.
Dục tầm cựu sự quan tân
cảnh,
Thập thặng hoa nhân hựu tái
trì.
Trên đường đi gần đến Bắc
Kinh, ông bị bệnh nhưng vẫn gắng gượng chống chọi cơn bệnh mà làm
việc, ông viết: Gió sương há dễ ghen ghét với tấm thân chức vụ này.
Phạm Thành Đại đời nhà Tống có câu thơ: “Mấn sương thời tiết thượng quan thân.” Thời kỳ tóc đã điểm
sương, còn mang cái thân quan chức. Ở đây Ngô Thì Nhậm muốn nói : Mình
vốn là thân nhận chức vụ triều đình, gió sương không thể ghen ghét
mà gây ra bệnh tật được. Một tấm thân của con người trải khắp đông
tây nam bắc. Câu này nhắc lại câu Khổng Tử: “Khâu dã đông tây nam bắc chi nhân”, (Khâu là tên Khổng Tử)
Khâu này vốn là người đông tây nam bắc, nay đây mai đó không có nơi
nhất định. Tạo hóa sinh ra lấy vũ trụ làm nhà ở. Quân vương mệnh cho
ta, riêng giữ chức ty luân. Ty là sợi tơ đơn, luân là sợi chấp. Kinh Lễ
thiên Truy Y: “Vương ngôn như ty, kỳ
xuất như luân;” Lời nói nhà vua trước như sợi ty, sau ban ra thì
thành sợi luân. Ý nói chiếu chỉ nhà vua ban ra càng xuống càng rộng
lớn. Người làm việc Viện Hàn Lâm thảo ra chiếu sắc nhà vua còn gọi
là chức ty luân. Núi sông xa lạ chỗ nào cũng được hộ trì tốt lành.
Mưa móc thấm nhuần nay lại được nhiều ơn mới. Trung tín một niềm,
mừng có liều thuốc chữa khỏi cái bệnh “vô vọng”. Kinh Dịch quẻ vô vọng : “vô vọng chi tật, vật dược hữu hỷ.” Bệnh tật không do sự
càn dỡ mà mắc phải, không cần phải thuốc thang nó sẽ qua khỏi. Tự
ta phải phấn chấn tinh thần của ta lên.
GẮNG SỨC GƯỢNG CHỐNG BệNH
MÀ LÀM VIệC
Phong sương há dễ
ghét thân này,
Nam Bắc Đông Tây
trải đó đây.
Tạo hóa sinh nhà
là vũ trụ,
Quân vương trao
mệnh chức luân ty.
Giang sơn khắp chốn
phù trì tốt,
Mưa móc sớm hôm
ơn thấm dày.
Trung tín một
niềm tan bệnh tật,
Một lòng phấn
đấu tự mình đây.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
LỰC TẬT THƯ HOÀI
Phong sương khởi đắc đồ quan
thân,
Thân thị đông tây nam bắc
nhân.
Tạo hóa sinh ngô lư vũ trụ,
Quân vương mệnh ngã chức ty
luân.
Giang sơn tại xứ hộ trì
hảo,
Vũ lộ như kim ưu ốc tân,
Trung tín tự đa vô vọng hỷm
Bất phương đẩu tẩu sách
tinh thần.
Đêm thu ngồi kiểm điểm lại riêng nỗi bồi hồi. Nào việc
đời, nào thói người, trăm mối cả; nghĩ dồn đến. Nơi từng đắc ý ai
khiến tìm tới lần nữa. Cái thời thanh xuân chưa bao giờ thấy nó trở
lại. Đi hay ở không việc nào là không do số mệnh. Phàm những vật sinh
ra, vẫn chẳng muốn có tài năng làm gì ? Nếu đạo thừa trừ là công
bằng, theo đúng mẫu mực. Thì ta sẽ sớm được khỏe mạnh trở về nơi
vườn ruộng xưa.
ĐÊM THU VIẾT NỖI CẢM HOÀI
Đêm thu ngẫm lại
luống bồi hồi.
Trăm mối cảm
hoài, đời, thói người.
Đắc ý ai người
quay lại đó,
Thanh xuân đi
chẳng trở về thôi.
Ở đi số mệnh
tùy duyên phận,
Phàm vật sinh ra
chẳng muốn tài,
Nếu đạo thừa
trừ theo đúng mực,
Mạnh khoẻ điền
viên hưởng thú vui.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
THU DẠ THƯ HOÀI
Thu tiêu điểm kiểm độc bồi
hồi,
Thế cố nhân tình cảm bách
thôi.
Đắc ý sứ thùy giao tái vãng,
Thanh xuân thời kỷ kiấn
trùng lai.
Kỳ hành hà giả phi do
mệnh,
Phàm vật do thiên bất dục
tài,
Công đạo thừa trừ như hữu
chuẩn,
Điền viên nghi tảo hoạch
khang hoài.
Nhân ngày Trung Thu ông viết: Trung thu năm trước và trung thu
năm nay, đều ở đất Trung Quốc. Năm trước đi sứ được về nhà vào dịp
trung thu, trung thu năm nay, chắc ở nhà cũng tưởng được về, nhưng còn
phải ở lại đợi chiếu chỉ. Ngày 20 tháng tám, buổi sáng được vào
hầu ăn yến, lại được đặc chỉ cho đến chổ hoàng đế ngự (vua Càn
Long), hoàng đế hai lần ban lời ủy lạo rằng: “Ở phương xa đến, rất là trung thành, gian lao”, rồi hoàng
đế thân rót chén rượu ngọt ban cho.
Trung thu năm nay cũng giống như năm trước. Nhưng người đi muôn dậm xa ở tận sông
Nhiệt Hà và vườn Viên Minh. Nhiệt Thủy tức Nhiệt Hà (Chende) có dòng
suối ấm chảy vào nơi đây có cung điện mùa hè và vườn ngự uyển. Minh
viên là tên vườn hoa do vua Khang Hy
dựng nên, chu vi 30 dặm phía nam có
cung điện, là một trong bốn kiến trúc vườn lớn của thế giới. Mặt
ngọc chị Hằng vẫn nguyên như cũ. Mái tóc hoa râm của người đi sứ lại
điểm trắng thêm. Thời tiết qua mau, già nửa theo với đêm nay. Tình
cảnh đất khách làm cho thân này chóng già. Tưởng chừng trong tiệc vui
ở quê nhà. Đang nâng chén mong cho xe sứ sớm quay ngựa trở về. Nhân là
loài ngựa lông màu trắng tro. Kinh Thi thơ Hoàng hoàng giả hoa: “Ngã
mã duy nhân”, ngựa ta là ngựa nhân, chỉ con ngựa cỡi đi sứ.
TRUNG THU
Năm nay, năm trước
trung thu đến,
Nhiệt Thủy, Minh
Viên vạn dậm xa.
Mặt ngọc chị
Hằng trăng vẫn thế,
Mái đầu khách
sứ bạc thêm ra.
Qua mau thời tiết
đêm dần hết,
Đất khách tha
phương lại chóng già.
Tưởng tượng quê
nhà nâng chén rượu,
Mong cho xe sứ
sớm về nhà.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
TRUNG THU
Thị niên khứ tuế trung thu
nguyệt,
Nhiệt Thủy, Minh Viên vạn
lý nhân.
Nga tỉ ngọc nhan toàn tự
cựu,
Sứ Hoa ban mấn hựu thiêm
tân.
Thời quang cường bán tùy
kim dạ,
Khách huống thiên đa lão
thử thân.
Tưởng đắc gia hương hoan
tịch thượng,
Cử tôn dao vị chúc hồi
nhân.
Tết Trung thu nơi quán
khách. Tấm gương nga treo trên tầng không, lạnh lẽo chiếu xuống thềm
sân. Cái bóng trong sáng kia từ nơi biển quế xa khơi hiện lên. Một nửa
sắc thu, đã trôi qua trong khi bận rộn việc nước. Nỗi nhớ quê hương
thường tìm về trong giấc mộng năm canh. Sương pha mái tóc sầu, ngồi
tựa bức lan cô quạnh. Một đêm vui
đã cạn giọt rồng, chén rượu say lảo đảo. Liền năm bôn tẩu não lòng
cho người du tử. Qua hết thành Phú Xuân, đi Lạng Sơn, lại tới Yên Kinh.
QUÁN
KHÁCH TRUNG THU
Gương nga trời
lạnh chiếu thềm săn,
Biển quế xa khơi,
bóng hiện lên.
Nửa sắc thu qua
công việc nước,
Lòng quê tìm
giữa giấc mơ màng.
Sương pha sầu tóc
ngồi cô quạnh,
Giọt rượu say vui
cạn giọt rồng.
Liền năm bôn tẩu
thân du tử,
Thành Xuân, Ải
Lạng đến Yên Thành.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
KHÁCH QUÁN TRUNG THU
Hàn không nga kính chiếu
đình giai,
Thanh ảnh dao tòng quế hải
lai.
Thu sắc bán phân mang lý
quá,
Hương tâm ngũ dạ mộng trung
hồi.
Sương xâm sầu mấn bằng cô
hạm,
Lậu yết phương tiêu đảo túy
bôi,
Bồng ngạnh liên miên du tử
hận,
Xuân thành, Lượng khổn hựu
Yên Đài.
Cương ngựa dóng đường
trường, tình khách cô đơn. Thư nhạn ba lần gửi có biết đến nhà không? Văn chương thù ứng cùng người muốn trổ
hết tài nghệ. Năm tháng phôi pha lần lần già với đường đời. Khi vui
thích nước, khi vui thiách non, thật cũng hứng thú. Là trâu là ngựa
mặc sự xưng hô.Đừng bảo nơi chân trời góc biển ít người tri kỷ. Ta
từng tiếp xúc nhiều vị đại phu ở Trung Triều.
TIÊU KHIỂN NỖI BUỒN
Cô đơn lòng khách
ngựa đường trường,
Thư nhạn ba lần
biết tới chăng ?
Thù ứng văn
chương, tài nghệ trổ,
Phôi pha năm tháng
cái già nhanh.
Vui non vui nước
lòng thi hứng,
Là ngựa là trâu
mặc tiếng xưng.
Đừng bảo biển
trời tri kỷ vắng,
Trung triều tiếp
xúc bậc tài danh.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
KHIỂN MUỘN
Chinh bí thiều thiều khách
tứ cô,
Nhạn thư tam độ đáo gia vô ?
Văn chương thù ứng đàn nhân
kỹ,
Tuế nguyệt tiêu ma, lão thế
đồ.
Nhạo thủy, nhạo sơn chân
hứng thú,
Vị ngưu vị mã nhậm xưng hô,
Mạc ngôn nhi giác thiểu tri
kỷ.
Tiếp thức Trung triều sĩ
đại phu.
Cửa trời nâng chén rượu chúc thọ. Bến sao yên ổn chiếc bè
bơi, tích Trương Tịch dùng bè đi
ngược sông Hoàng Hà. đi sứ Tây Vực sang đến tận vùng A Phú Hãn ngày
nay.. Bóng trăng lồng trước sân ánh trắng sáng vằng vặc. Đàn ca cách
bên tường nghe vọng véo con. Cảnh sắc mùa thu chỗ nào cũng tươi đẹp.
Bước đường đời thường làm già tuổi người ta. Ngồi bên ngọn đèn lạnh
cảm nỗi quạnh hiu. Lòng nhớ quê hương không sao nén nỗi.
ĐÊM TỐT NÀY TÍNH SAO ĐÂY
Cửa trời nâng
chúc thọ,
Bến sao bè bơi
xa.
Đầy sân trăng
vằng vặc,
Cách tường vọng
tiếng ca.
Cảnh thu đâu cũng
đẹp,
Đường đời tuổi
chóng già.
Bên đèn ngồi
tịch mịch,
Lòng quê chẳng
phôi pha.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
NHƯ THỬ LƯƠNG DẠ HÀ
Thiên hôn xưng thọ giả,
Tinh chử ổn du xa.
Kiểu phách không đình
nguyệt,
Phồn thanh cách bích ca.
Thu quang tùy xứ hảo,
Thế lộ lão nhân đa.
Tịch mịch hàn đăng bạn,
Hương tâm bất cấm hà.
VƯỜN MINH VIÊN là vườn cũ cung điện Kiết Đan, nằm ngoài cửa
Tây Trực, Bắc Kinh Vua Thế Tông Khang Hy nhà Thanh khi lên ngôi cho xây
dựng vườn này và được tiếp nối qua nhiều đời thành một quần thể kiến trúc danh tiếng, mỹ lệ:
“Vườn của muôn vườn’, gồm 140 toà kiến trúc, 19 cổng, 5 đập nước, 100
cây cầu gổ trên một diện tích 160 km vuông. Vườn có hai cung điện lớn
là cung Quang Minh và Cần Chánh. Đời vua Ung Chính về sau cứ buổi đầu
xuân về làm việc nơi đây. Tử Cấm Thành Bắc Kinh chỉ sử dụng trong
các lễ chính thức.
Tiếc thay năm 1860 vườn bị liên quân Anh Pháp phá hủy hoàn
toàn cháy ba ngày ba đêm hơn 300 cung
nữ và thái giám bị chết cháy.. Năm 1900 bị liên quân 8 nước đốt rụi
một lần nữa. Những năm 1970 toàn bộ diện tích bị lấn chiếm xây
dựng, ngày nay khu vườn xinh đẹp chỉ còn một bãi đất hoang di tích
sụp đổ. Những bức ảnh chụp của
một nhiếp ảnh gia Tây Phương, công trình trước và sau khi bị phá hủy
cho ta thấy sự xinh đẹp tráng lệ của công trình kiến trúc này. Ngô
Thì Nhậm là sứ thần hiếm hoi được gặp vua Càn Long trong cung điện
vườn Viên Minh, ông viết: Cung điện Kiết
Đan nơi đâu nhỉ? Vườn rừng Trường Bạch hiện ra ở chốn này. Núi
trước, núi sau bình phong uốn khúc. Khe Nam, khe Bắc sông lượn vòng
tròn. Liền với mây xanh cỏ hoa lớp lớp. Soi trên vũng biếc lầu các
tầng tầng. Thật giản dị nơi ở nhà vua. Màn giấy, lọ sành, lan can
bằng gỗ.
Cung điện Kiết
Đan ở chốn nào ?
Vườn rừng Trường
Bạch chốn này sao ?
Trước sau núi
uốn bình phong dựng,
Nam Bắc khe sông
lượn sóng trào.
Liền với cây xanh
hoa cỏ rợp,
Soi trên vũng
biếc gác lầu cao,
Nơi vua cư ngụ sao
đơn giản,
Màn giấy, lọ
sành, lan can đào.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
VIÊN MINH VIÊN
Kiết Đan cung điện tri hà
xứ,
Trường Bạch viên lâm kiến
thử gian,
Sơn hậu, sơn tiền phô khúc
bính,
Giản Nam, giản Bắc tẩu hồi
lan.
Thảo hoa thốc thốc liên
thanh chướng,
Lầu các tằng tằng phủ
bích loan.
Đại đế hưng cư hồn giản
chất,
Ngã hồ chi trướng mộc lan
can.
Kính nhận chiếu vua ban ra
khỏi thành Phượng. Trên đường đi về phong cảnh rỡ ràng. Ngoái đầu
nhìn đất Bắc non sông tươi đẹp. Đưa mắt ngắm trời Nam, nhật nguyệt
sáng ngời. “Tre tên” đã thoả được chí nam nhi.
”Tăng cung” thật
nhờ uy linh tên đế. “Chục bằng” mười điều lành, trên giúp điềm đã
báo trước. Soi rọi xe ta trên đường về có phúc tinh.
TRÊN ĐƯỜNG VỀ MỬNG LÀM THƠ
Nhận chiếu vua
ban vội khởi hành,
Đường đi phong
cảnh sáng tươi trông.
Ngoái nhìn đất
Bắc non sông đẹp,
Nhìn ngắm trời
Nam nhật nguyệt thanh.
Cung nõ tung
hoành trai chí khí,
Thực nhờ tiên đế
tỏ uy linh.
Thập bằng trên
giúp điềm lành báo,
Soi rọi xe ta có
phúc tinh.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
HỒI TRÌNH HỶ PHÚ
Chi phụng thiên chương xuất
phụng thành.
Phong quang lịch lịch hướng
lai trình.
Hồi đầu Bắc địa sơn xuyên
tú,
Thức mục Nam thiên nhật
nguyệt minh.
Huyền thi hoạch thú nam tử
chí,
Huống cung ngưỡng trượng
đại quân linh.
Thập nằng thượbng lựu phù
tiêm triiện,
Chiếu ngã quy biền hữu
phúc tinh.
Phủ Thái Bình tự cổ là đất ky mi, trước thời nhà Nguyên các
thổ mục tự cai trị lấy. Từ năm Hồng Vũ nhà Minh bắt đầu cử Gia Cát
Thiên Thạch người Hán đến làm tri phủ. Ngàn dậm núi non cây cỏ xanh
mướt. Trăm năm thành quách lâu đài xưa. Đá xếp hình con thú nước, nổi
đám rong biếc. Tháp nhô hình ốc mọc đầy rêu xanh. Cảnh khá thanh
nhàn, các quan như vừa làm quan vừa ở ẩn. Người xưa mở ra thưởng thức
phong quan.
VỊNH PHỦ THÁI BÌNH
Thái Bình tự cổ
đất ky mi,
Gia Cát ấn cờ
trấn nhậm đây.
Ngàn dậm núi non
cây mượt tốt,
Trăm năm thành
quách lâu đài xây.
Đá xếp thú cầm
rong cỏ biếc.
Tháp phô hình ốc
mọc rêu đầy.
Cảnh quá thanh
nhàn quan ở ẩn,
Người xưa từng
mở cõi thanh bai.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
THÁI BÌNH NHÀN VỊNH
Thái Bình tự cổ ky mi vực,
Gia cát danh khanh ủng tiết
lai.
Thiên lý sơn nham đồng thảo
thụ,
Bách niên thành quách cổ lâu
đài .
Cảnh khả nhàn thê kiêm hoạn
ẩn.
Phong quang vi thưởng tích
nhân khai.
Xe chỉ nam giong đường về, dặm đường dài đằng đẵng. Cớ sao
ở trong xe suốt cả ngày đêm. Áo chăn lông cừu khoác vào mình coi
thường sương lạnh. Nhạc ngựa vang tai xen lẫn với tiếng điêu canh
trường. Điêu đẩu là nồi nấu cơm bằng đồng, ban ngày nấu cơm, ban đêm
thì gõ canh gác để báo giờ. Lòng gấp về quê luôn luôn mơ mộng, nhưng
khó bay vượt tới được. Muốn đọc mà không có sách, sao cho khuây nỗi
tịch liêu. Hồi chuông chùa xa xa vừa vang tiếng lúc trăng lên. Viên quan
tùy tùng lại dục sứ lên đường.
ĐÊM THU NGỒI TRONG XE TỨC SỰ
Chỉ nam xe chạy
dặm đường dài,
Sao ở trong xe
tối đến mai.
Chăn ấm áo cừu
khinh giá lạnh,
Vang tai nhạc
ngựa kẻng luôn hồi.
Những mong về
gấp bay sao được,
Không sách qua
ngày đọc để nguôi.
Chuông vẳng chùa
xa trăng tỏ bóng,
Viên quan hộ sứ
dục đi hoài.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
THU DẠ XA TRUNG TỨC SỰ
Chỉ nam xa khứ lộ thiều
thiều,
Hà sự xa trung tiệt tức
tiêu.
Cừu nhục thụ thân khi ấp
lộ,
Mã linh giang nhĩ giáng hàn
điêu.
Cấp qui hữu mộng nan phi
việt,
Dục khán vô thư độ tịch
liêu.
Viễn tự chung tài khao
nguyệt thượng,
Bạn viên hựu hoán trục
hoành thiều.
Khi về đến Lâm Tương, (tỉnh Hồ Nam) mắc bệnh hàn lỵ, nhưng
vẫn đi suốt ngày đêm, không được nghỉ ngơi, ông Vân Trường, viên tướng
chỉ huy cuộc hành trình cho mời vị
lương y Trương Tăng Yết đến chăm sóc điều trị và bản thân cũng tiết
chế ăn uống, nên đến Nam Ninh thì bệnh bình phục.
Ông viết: Một kẻ tài hèn,
mấy năm nay đã hiến tấm thân cho nước. Ngày đêm rong ruổi há quản khó
nhọc. Trải qua bao việc gian nan mà lòng trinh chính, đâu thiếu tễ
thuốc cay ngọt. Gian trinh do câu Kinh Dịch: “Lợi gian trinh” lợi ở sự gian
nan mà giữ được đạo trinh chính. Tân can là tễ thuốc cay mà ngọt,
nói ví gặp sự gian nan mà hạnh thông. Mọi sự tốt lành đều nhờ ở
khuôn tạo phú cho.”Quân” là cái khuôn đồ gốm , ngày xưa ví tạo hóa
đúc nặn ra muôn vật, như cái khuôn nặn ra đồ gốm nên còn gọi tạo hóa
là “đại quân” hay “hồng quân” (khuôn lớn). Thơ Thiệu Ung đời Tống: “Hồng quân phú dữ bất vi bần”. Khuôn
tạo phú cho không phải nghèo. Văn học Việt Nam còn gọi: khuôn thiêng,
khuôn xanh, khuông tạo. Nay “súc “gặp “lý “cần phải nuôi dưỡng chính
đạo. Tiểu súc và lý là hai quẽ trong Kinh Dịch. Súc là súc tích,
lý là thích nghi còn hàm nghĩa “lý nguy”dẫm chân lên sự nguy hiểm.
Kinh Dịch quẽ lý: “Lý hổ vĩ “, dẫm chân lên đuôi hổ.. Ở đây súc ví
với sức khỏe dồi dào, lý ví với gặp sự đau ốm. Khi “tổn” được “ích” ắt một ngày được hồi xuân .Tổn
và Ích là hai quẽ Kinh Dịch, tổn là tổn thất, ích là lợi ích. Câu
trên từ mạnh khỏe đến đau ốm, câu dưới từ đau ốm đến mạnh khỏe. Xưa
nay hoạn nạn thường nảy sinh trí tuệ. Mạnh Tử viết: “Nhân chi hữu đức tuệ thuệt trí giả,
hằng tồn hồ chẩn tật”. Người ta mà có được trí tuệ của đạo
đức và học thuật thường là do hoàn cảnh hoạn nạn tạo nên. Tiết
chế, thanh tu ấy là điều bảo toàn chân khí của mình.
TRONG LÚC BỆNH TỰ THUẬT
Tôi hèn mấy độ
nước dâng thân,
Rong ruổi ngày
đêm quản nhọc nhằn.
Trung chính gian
nan thuốc ngọt đắng,
Tốt lành muôn sự
tự trời ban.
“Súc” rồi “lý” đến nuôn chính đạo,
“Tổn” được ích” theo hẳn tốt xuân,
Hoạn nạn xưa nay
sinh trí tuệ,
Tiết chế, thanh
tu thuốc bảo chân.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
BệNH THUẬT
Nô độn niên lai hứa quốc
thân,
Trì khu dạ dạ khởi hiềm
tần.
Gian trinh phi phạp tân cam
tễ,
Cát lợi toàn bằng phú dữ
quân.
“Súc” hữu “lý”
thời tu dưỡng chính,
“Tổn” phùng “ích”
xứ tiện hồi xuân.
Do lao chẩn tật hằng sinh
tuệ,
Tổn tiết, thanh tu thỉ bảo
chân.
Người xưa nói có bốn giống thú thiêng: Long, Lân, Qui, Phụng,
không phải là nói nhảm. Hổ báo mà hiền lành thì không cần xua đuổi.
Khi vào cửa Nam Quan đang độ tháng Hai. Lúc về Tây Lĩnh thì đã tháng
Chín. Rừng sâu núi thẳm mà như đất bằng. Suốt đêm người đi như nghỉ
trên đường phẳng. Lại mong triều thịnh được thêm một việc tốt nữa.
Không để nhà buôn nhiều hơn người làm ruộng. Bài thơ này làm trên
đường vể tác giả ghi những cảm nghĩ tản mạn. Long, Lân, Qui, Phụng
là bốn giống thú quí hiếm được vẽ trên các điện thờ, chỉ có Qui
loài rùa lớn lâu lâu lại nổi lên
trên hồ Hoàn Kiếm còn lại ba con kia thì chẳng ai thấy, rồng thì có
hiện tượng rồng hút nước là một cơn lốc xoáy nhìn từ xa, con kỳ lân
mình ngựa đầu rồng vẫy cá, có
sừng giữa trán, chỉ xuất hiện khi có thánh nhân sinh ra, thời Minh Thành Tổ có nước đi
cống kỳ lân cho Trung Quốc, nhưng dọc đường kỳ lân chết đi vì không
muốn thấy mặt Vĩnh Lạc đại đế
tàn bạo, giết trung thần cả mười họ, Nguyễn Du có viết bài thơ Mộ
Kỳ lân. Phụng hay phượng, tại Nghệ
An ngày xưa có giống chim phượng hoàng đất còn gọi là Cái Cắng. Có
người thân mang ra làng Nghi Tàm tặng, Hồ Xuân Hương có làm bài thơ
Cái Cắng đánh nhau. Tốn Phong tả
Cổ Nguyệt đường có câu: “Biếc rụng
cành ngô sân phượng múa. Vờn bay lối trúc ngõ chuyền oanh”.. Hổ
báo không phải là giống thú thiêng vì đến đâu cũng bị người xua
đuổi. Cuộc đi sứ báo tang của Ngô Thì Nhậm mất hơn 6 tháng đi về,
đường đi dọc sông Tương và đến Bắc Kinh bằng phẳng, ông chợt có ý
nghĩ không nên để người đi buôn nhiều hơn người cày ruộng, vì ngày xưa
phương tiện thô sơ, thóc lúa làm ra ít mà qua nhiều tay trung gian buôn
bán sẽ làm vật giá lên cao.
CHỢT NGÂM
Thú quý : Tứ
Linh chẳng đặt bày,
Hiền lành hổ
báo chẳng xua đi.
Tháng Hai vào
cửa Nam Quan đó,
Tháng Chín lúc
về Tây Lĩnh đây.
Núi thẳm rừng
sâu như đất phẳng,
Suốt đêm đo nghỉ
thẳng đường đi.
Lại mong triều
thịnh thêm điều tốt,
Chẳng để nhà
buôn hơn kẻ cày.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
NGẨU NGÂM
Tứ linh vi quý quả phi vu,
Hổ báo từ tường bất dụng
khu.
Tòng nhập Nam Quang phương
nhị nguyệt.
Việt toàn Tây Lĩnh hữu tam
thu.
Thâm sơn tuyệt nghiễn như
bình địa.
Triệt hạ hành nhân ngọa
thản cù.
Hoàn dục trị triều đa nhất
sự.
Bất tương cổ hộ thắng canh
phu.
TÀI LIệU THAM KHẢO:
Ngô Thì Nhậm Toàn tập. Nxb Khoa Học
Xã Hội. Hà Nội 2003 Tập 3 Hoàng Hoa Đồ Phả.
Thơ Ngô Thì Nhậm, Văn Học Hà Nội 1986
Tinh
Tuyển Văn Học Việt Nam Tập quyển 1
Nxb Khoa Học Xã Hội Hà Nội 2004 Ngô Thì Nhậm tr 821-884.
*
Paris, tháng 04.2019
PHẠM TRỌNG CHÁNH
Tiến sĩ Khoa Học Giáo Dục
Địa chỉ:, Viện Đại Học Paris V Sorbonne.
Email: phamtrongchanh@free.fr
.
…………………………………………………………………………
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 16.04.2019.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét