VỀ BÀI ‘CUỐN SÁCH ‘BẮT LỖI'
GIÁO SƯ
NGUYỄN LÂN MẮC NHIỀU
SAI SÓT’ CỦA THANH HẰNG
(*) - Bài viết “CUỐN
SÁCH ‘BẮT LỖI” GIÁO SƯ NGUYỄN LÂN MẮC NHIỀU SAI SÓT” của Thanh Hằng vốn
trước đó đã được gửi cho GS Nguyễn Lân Dũng; GS Nguyễn Lân Dũng gửi cho nhiều
người; nhiều người lại “chuyển tiếp” cho chúng tôi. Sau khi bài chính thức đăng
trên INFONET, và trang cá nhân của Thanh Hằng (FB Hằng Thanh), bạn đọc lại tiếp
tục dẫn link bài đề nghị chúng tôi có phản hồi. Bởi vậy, chúng tôi có bài viết
này, mục đích thưa lại cho rõ.
(Tác giả Hoàng Tuấn Công) |
Ngày 1/9/2017, báo điện tử INFONET (Bộ Thông tin
vàTruyền thông) đăng bài “Cuốn sách ‘bắt lỗi’ giáo sư Nguyễn Lân mắc nhiều sai
sót” của Thanh Hằng. Dựa vào ý kiến của các nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà thơ,
các giáo sư, tiến sĩ chuyên ngành ngôn ngữ học, Thanh Hằng cho rằng, tác giả
“Từ điển tiếng Việt của GS.Nguyễn Lân – Phê bình và khảo cứu”, đã “mắc nhiều
sai sót”.
Ban đầu, chúng tôi chọn cách im lặng thay câu trả
lời, bởi bài viết của Thanh Hằng đã không đảm bảo những nguyên tắc tối thiểu
trong tranh luận học thuật (chúng tôi sẽ nói rõ ở đoạn cuối của phần II bài
viết). Tuy nhiên, vì không muốn phụ lòng độc giả đã gửi link bài viết của Thanh
Hằng và đề nghị phản hồi(*), nên chúng tôi xin có đôi lời thưa lại như sau:
1. Trong “Từ điển từ và ngữ Việt Nam”, mục “áo rách
vẫn giữ lấy tràng”, GS. Nguyễn Lân chú giải “Tràng: cái vạt trước của áo dài”.
Chúng tôi không đồng ý, và cho rằng: “Chính xác: “tràng” trong câu tục ngữ này
là cái cổ áo chứ không phải vạt trước của áo dài. Nghĩa là, dù
áo rách thế nào, cũng phải giữ lấy bộ phận quan trọng nhất của cái áo là cổ áo.
Tác giả bài báo Thanh Hằng khẳng định, “tràng” là
“vạt áo”, chứ không có nghĩa nào là “cổ áo”, và dẫn chứng:
“Nhà văn Ngô Văn Phú – người đã dịch số lượng
lớn thơ Đường và văn xuôi Trung Quốc, trong đó có “Tể tướng Lưu Gù,” cho biết,
GS. Nguyễn Lân đã không sai. “Lĩnh” mới là cổ áo, còn “tràng” là vạt chiếc áo
dài. Trong “Từ điển Hán Nôm” trên thivien.net cũng giải nghĩa “lĩnh là cổ áo”,
không thấy có mối liên quan nào giữa “lĩnh” với “tràng”!
Nhà thơ Đỗ Trung Lai, người đã dịch hàng trăm bài
thơ Đường, cũng cho hay: Tràng là vạt trước của áo dài.
“Từ điển
tiếng Việt” của Viện Ngôn Ngữ học do Hoàng Phê chủ biên (tái bản 1992 và 2003)
cũng định nghĩa: “Tràng: Vạt trước của áo dài”. Ví dụ: “Níu lấy tràng áo
mẹ”.
Từ những “bằng chứng” trên đây, Thanh Hằng đi đến
kết luận: “Như vậy, cho đến nay, chưa thấy từ điển nào định nghĩa “tràng” là cổ
áo như Hoàng Tuấn Công giải thích”.
Theo chúng tôi, thành tích “đã dịch số lượng lớn
thơ Đường và văn xuôi Trung Quốc” của Nhà văn Ngô Văn Phú, hay
“đã dịch hàng trăm bài thơ Đường”của Nhà thơ Đỗ Trung Lai (mà Thanh Hằng giới
thiệu), hoàn toàn không phải là luận cứ khoa học cho kết luận “tràng” chỉ có
một nghĩa duy nhất là “vạt trước của áo dài”. Và ngay cả khi có tới hai cuốn từ
điển giảng “tràng” là “vạt trước của áo dài”, cũng không có nghĩa tất cả các
cuốn từ điển còn lại, đều chỉ ghi nhận có vậy.
Sau đây là một số minh chứng của chúng tôi:
- “Từ điển Annam – Lusitan – Latinh” (Dictionanrium
Annamiticum – Lusitanum - Latinum (thường gọi là “Từ điển Việt - Bồ - La”) do
A.de Rhodes biên soạn, xuất bản tại Roma (năm 1651; Thanh Lãng, Hoàng Xuân
Việt, Đỗ Quang Chính phiên dịch-NXB Khoa học xã hội, 1991), giải nghĩa: “TLÀNG
ÁO: Phần trên chiếc áo che cổ.” (“tlàng” là âm cổ của “tràng”, như chính A.de
Rhodes ghi nhận trong các trường hợp khác: “TLÀNG HỘT: tràng hột, chuỗi hột”;
“TLÀNG HOA: tràng hoa”…-HTC).
- “Đại Nam quấc âm tự vị” (1896),
Huỳnh Tịnh Paulus Của ghi nhận: “Lãnh 領: Tràng;
(…) Áo viên lãnh: Áo cổ tròn, áo cổ trịt” (“lãnh” 領chính
là âm khác của “lĩnh” 領 - Hán tự nghĩa là cái cổ áo (như chính
Nhà văn Ngô Văn Phú đã thừa nhận).
- “Việt Nam tự điển” (1931) Hội Khai Trí Tiến Đức
giảng: “領 - lĩnh. Tràng áo (không dùng một mình). Lĩnh tụ 領 袖 tràng
áo và tay áo. Chỉ dùng nghĩa bóng để nói người đứng đầu một
đảng-phái: Lĩnh-tụ đảng xã hội”.
- “Việt ngữ tinh nghĩa
từ điển” (1950) Long Điền Nguyễn Văn Minh giải
thích “lãnh” là tràng áo, như “lãnh tụ” là “tràng
áo và ống tay áo, chỉ dùng với nghĩa bóng nói người đứng đầu một đảng phái”.
- “Tam thiên tự” (1969), soạn giả Đoàn Trung
Còn thích nghĩa: “Y 衣 - Áo; Lãnh 領 - Tràng”.
- Trong “Ngũ thiên tự” (bản Hán - Việt -
Pháp), Đoàn Trung Còn chú rõ hơn: “領- lãnh (lĩnh) - tràng (cổ áo) - Col”.
Như vậy, không phải “cho đến nay, chưa thấy từ điển
nào định nghĩa “tràng” là cổ áo”, mà ngược lại (và ít nhất) từ 366 năm trước,
“Từ điển Việt - Bồ -La” đã ghi nhận “tràng” là “cổ áo”; cũng không phải chỉ có
một, mà (ít nhất đến thời điểm này) có tới 6 cuốn từ điển ghi nhận và giải
nghĩa “tràng” là “cổ áo”. Thậm chí, chưa cần tới trình độ “dịch hàng trăm bài
thơ đường”, mà chỉ cần đọc qua một lượt sách “Tam thiên tự” (Ba ngàn chữ Hán,
dùng cho lớp đồng ấu) đã có thể biết, “tràng” (cổ áo) trong tiếng Việt, chính
là “lĩnh” 領 trong Hán ngữ.
Theo đây, chúng tôi đâu dám làm một việc tày trời
là tự bịa ra cho “tràng” một nghĩa không hề có trong tiếng Việt.
2. Về câu “Áo rách
vẫn giữ lấy tràng” (đúng ra là “Áo rách PHẢI giữ lấy tràng”, đồng nghĩa: “Giấy
rách phải giữ lấy lề”-HTC), GS. Nguyễn Đức Tồn cho rằng: "Tràng là vạt
phía trước của chiếc áo dài, có vai trò quan trọng cả về thẩm mỹ và chức năng
che những bộ phận quan trọng nhất của người mặc nên mới có câu 'Áo rách vẫn giữ
lấy tràng.' Còn cổ áo không liên quan gì ở đây".
Thực ra, “tràng” (đầy đủ là “tràng vạt”), cũng có
một nghĩa là “vạt trước của áo dài” [trong câu “Sụt sùi giở nỗi đoạn
trường, Giọt châu tầm tã đẫm tràng áo xanh.” (TKiều)]. Tuy nhiên, “tràng” trong
câu “Áo rách phải giữ lấy tràng” (Áo dù rách ở đâu, nhưng phải giữ cho cái cổ
áo được lành lặn); hay “Áo cứ tràng, làng cứ xã” (Áo cứ cổ áo mà cầm; làng cứ
lý trưởng mà nắm) lại có nghĩa là “cổ áo”, chứ không phải “vạt áo”.
Tại sao vậy?
Về kết cấu, cổ áo là bộ phận mấu chốt, căn bản nhất
của cái áo. Bởi vậy, để cầm nắm cho gọn gàng, giũ cho chiếc áo phẳng phiu,
người ta đều phải cầm lấy cổ áo (thế nên “lĩnh tụ” 領袖 [lĩnh = cổ áo;
tụ = tay áo] được dùng để chỉ nghĩa người đứng đầu một phong trào, một đảng
phái là vậy. Về vấn đề này, chúng tôi đã có bài khảo cứu đăng trên báo “Người
lao động” và Blog Tuấn Công Thư phòng-6/2017).
Cổ áo (và vai áo) là phần dễ rách nhất của chiếc áo
(do cọ xát, thấm mồ hôi nhiều). Về mặt thẩm mỹ, cổ áo là bộ phận gắn liền với
khuôn mặt, trực tiếp tôn vẻ đẹp của khuôn mặt. Điểm nhìn chủ yếu khi giao tiếp,
là khuôn mặt, với cái nhìn từ ngực áo trở lên cổ áo, chứ không phải là phần vạt
áo. Bởi vậy, một cái áo bị rách cổ, hỏng cổ, coi như bỏ đi, vì nếu mặc, sự rách
rưới đó sẽ đập ngay vào mắt người đối diện. Thậm chí, cổ áo tuy lành, nhưng
người mặc để xộc xệch, nửa gấp vào trong, nửa lận ra ngoài, sẽ bị coi là ăn mặc
luộm thuộm, thiếu tề chỉnh, rất khó coi. Thế nên, áo rách chỗ nào thì rách,
đừng để rách cổ. Áo rách cổ, hỏng cổ, kể như không còn là chiếc áo nữa. Nghĩa
bóng là dù trong hoàn cảnh nào, sa sút, nghèo khó đến đâu, cũng phải giữ được
nề nếp, gia phong, những giá trị cơ bản trong đạo làm người. Thế nên Dân gian
còn nói: “Áo rách phải giữ lấy tràng, Đủ đóng đủ góp với làng thì thôi” (Áo dù
rách ở đâu, cũng phải giữ được cái cổ áo cho lành lặn; cũng như gia cảnh dù
nghèo hèn đến mấy, cũng phải tham gia, đóng góp đầy đủ với công việc chung của
làng).
Có thể lấy thêm một ví dụ sinh động về tầm quan
trọng của chiếc cổ áo. Với người Mường, các cô con gái thường may sẵn rất nhiều
váy áo để dành đến khi lấy chồng. Tuy nhiên, lúc sắp đi làm dâu, thì áo mới
được viền cổ, váy mới được tra cạp. Áo chưa làm cổ, coi như chưa thành áo; váy
chưa tra cạp, coi như chưa thành váy (dẫu có lúc “bí”, muốn lấy ra mặc, cũng
không mặc được). Bởi vậy, thành ngữ Mường “Ào lúa đà t’ra coỏc” (Áo lụa đã viền
cổ) chỉ những người con gái đã đi lấy chồng, đã đem những chiếc áo quý, để dành
lâu nay ra viền (may, tra) hoàn chỉnh cổ áo để sử dụng. (xem “Thành ngữ Mường”
– Cao Sơn Hải – NXB Văn hoá thông tin-2013).
Trong khi đó, vạt áo là bộ phận không bao giờ bị
rách trước cổ và vai (vì vạt áo không chịu sự cọ xát khi vận động, cũng không
bị thấm mồ hôi mặn). Bởi vậy, nếu áo đã rách vai, rách cổ, thì dẫu không cần
“GIỮ”, vạt áo vẫn lành lặn như thường. Mặt khác, xét về phương diện thẩm mỹ và
kết cấu, thì vạt áo không phải là điểm nhấn quan trọng nhất của chiếc áo, càng
không phải bộ phận mấu chốt của áo. GS Nguyễn Đức Tồn cho rằng vạt áo
có “chức năng che những bộ phận quan trọng nhất của người mặc” là
thiếu cơ sở. Vì vạt áo chỉ phủ ở phần ngoài từ cạp quần trở xuống. Theo đó,
chức năng che “bộ phận quan trọng nhất của người mặc” chính là cái quần, chứ
không phải vạt áo (trừ trường hợp người mặc áo cởi truồng).
Tục ngữ cũng có câu “Áo dài chớ ngại quần
thưa”. Trong trường hợp đặc biệt này, toàn bộ phần dưới của chiếc áo dài (chứ
không phải mình “tràng” = vạt trước áo dài) sẽ che bớt cái sự “hở hang”, do
khiếm khuyết của cái quần thưa, quần rách tạo ra. Dĩ nhiên, lúc này câu tục ngữ
phải là “Quần rách (hoặc quần thưa), phải giữ lấy tràng”, chứ không phải “Áo
rách phải giữ lấy tràng” nữa.
3. Thanh Hằng viết: “Bàn
về thành ngữ: “Chó già, gà non,” Hoàng Tuấn Công cho rằng, GS. Nguyễn Lân giải
thích “thịt chó già không tanh, thịt gà non mới mềm” là sai,
vì theo anh “câu này không có ý khen 2 món ăn đều ngon như cách hiểu của GS.
Nguyễn Lân, mà là 2 thứ không ngon. Thịt chó già thì dai nhách, còn gà non thì
chỉ để nấu cháo”.
Ở mục này, Thanh Hằng đã trích dẫn không trung
thực. Nguyên văn, chúng tôi viết: “Câu này không có ý khen hai món ăn đều
ngon như cách hiểu của GS Nguyễn Lân. Ngược lại, chó già, gà
non đều là hai thứ không ngon. Chỉ cần xem các quán thịt chó
trương tấm biển Cầy tơ bảy món cũng đủ hiểu. Cầy tơ chính là thịt con
chó tơ. Thịt chó già dai nhách, ăn làm sao ngon được? Còn gà non
chỉ phù hợp để nấu cháo”.
Theo đó, Thanh Hằng đã tự ý chỉnh sửa từ ngữ, nội
dung đoạn trích (được đưa vào ngoặc kép), đồng thời bỏ hẳn đi hai câu rất quan
trọng trong lập luận của chúng tôi. Nghĩa là để phản biện ý cho rằng, “chó
già” mới ngon, chúng tôi đã dẫn chứng lời chào mời hấp dẫn của các nhà
hàng Cầy tơ bảy món. Đây là cứ liệu rất quan trọng, vì nó cho thấy
kinh nghiệm ẩm thực này đã được số đông thừa nhận; thịt “chó già” không bao giờ
được ưa chuộng. Có nghĩa, nếu GS Nguyễn Lân đúng, thì tất cả các nhà hàng thịt
chó phải đổi tấm biển “Cầy tơ bảy món”, thành “Chó già bảy món” mới phải. Tuy
nhiên, khi trích dẫn, Thanh Hằng đã bỏ ý này đi, khiến lý lẽ của chúng tôi
thiếu sức thuyết phục.
Câu “Ngược lại, chó già, gà non đều
là hai thứ không ngon” của chúng tôi, bị Thanh Hằng diễn đạt lại
thành “MÀ LÀ 2 thứ không ngon”. Tiếp đến, hai câu “Thịt chó già dai
nhách, ăn làm sao ngon được? Còn gà non chỉ PHÙ HỢP để nấu cháo”, của
chúng tôi, bị Thanh Hằng sửa thành “Thịt chó già THÌ dai nhách, còn gà non
THÌ chỉ để nấu cháo”. Chúng tôi đâu có viết “MÀ LÀ”, đâu có dùng hai
chữ “THÌ” trong cùng một câu, lủng củng như Thanh Hằng trích dẫn? Mấy chữ “CHỈ
PHÙ HỢP” cẩn trọng của chúng tôi, qua ngòi bút của Thanh Hằng, bỗng trở thành
“chỉ để”. Mặt khác, "Chó già, gà non" chúng tôi xếp vào loại
"tục ngữ", chứ không phải "thành ngữ", như Thanh Hằng viết.
(2 cuốn Từ điển của Giáo sư Nguyễn Lân) |
4. Thanh Hằng viết: “Các
nhà văn Hà Phạm Phú, Ngô Văn Phú và Văn Chinh đều cho rằng “Chó già, gà non” là
thành ngữ nói về ẩm thực. Việc Hoàng Tuấn Công áp đặt thêm vào từ “thiến”,
thành câu “Chó thiến già, gà thiến non” thật khó thuyết phục!”
Thực ra, “Hoàng Tuấn Công” đâu dám tự tiện “áp đặt
thêm” cho câu tục ngữ dân gian “từ thiến”! Bằng cứ, nếu các vị chịu
khó gõ câu tục ngữ “Chó thiến già, gà thiến non” vào google, thì sẽ
ra hàng loạt kết quả trùng khớp văn bản tục ngữ và nghĩa mà chúng tôi đã giải
thích. Ngoài ra, “Từ điển tục ngữ Việt” (Nguyễn Đức Dương-NXB Tổng hợp TP Hồ
Chí Minh-2010) cũng thu thập dị bản “Chó già, gà non”, sau đó hướng dẫn độc giả
xem cách giải thích dị bản đồng nghĩa “Chó hoạn già, gà hoạn non: chó thì nên
hoạn khi đã già; gà thì nên hoạn khi còn non (mới mong khỏi bị lại giống)”.
5. Thanh Hằng viết: “Theo
GS. Nguyễn Đức Tồn, “Chó già, gà non” là câu khá mơ hồ nếu tách khỏi ngữ
cảnh. Nếu nói về ích lợi thì có thể hiểu là nên chọn chó già vì có kinh nghiệm
trông giữ nhà, còn gà non để nuôi sẽ thu hoạch tốt hơn. Nếu nói về ẩm thực, chó
già (nhưng không phải là già “khú đế”) sẽ dai, có độ ngậy và ngon; gà tơ ăn mới
ngon. Như vậy, tùy theo ngữ cảnh mà vận dụng”.
Tuy nhiên, “Chó già, gà non” chỉ “mơ hồ” đối với
người không hiểu kinh nghiệm sản xuất của nông dân, chứ không hề mơ hồ đối với
chính người nông dân, hoặc với những ai đã từng am hiểu thực tế.
Đối với chó, thông thường người ta chỉ thiến khi nó
đã ở độ tuổi thành thục (đã biết giao phối tốt). Vì theo kinh nghiệm dân gian,
lúc này, bộ phận tinh hoàn và mào tinh hoàn của chó đã phát triển đầy đủ, rõ
ràng, dễ bóc gọn, lấy hết. Trong khi, nếu chó thiến non, lúc này tinh hoàn chưa
phát triển đầy đủ, mào tinh hoàn (còn gọi "tinh hoàn phụ") chưa có
(vì nó phát triển chậm hơn tinh hoàn). Thế nên, dẫu bóc được tinh hoàn non rồi
(điều này rất khó), thì mào tinh hoàn (sẽ hình thành sau này), vẫn kích thích
tính hăng và ham muốn giao phối của con chó đực (cho dù chó không còn khả năng
truyền giống). Bởi vậy, với chó thì phải “thiến già” mới tốt.
Với gà, dân gian thường thiến non (cụ thể lúc mào
gà bắt đầu có màu đỏ tía, cất tiếng gáy te te, muốn “đạp mái”). Lúc này, “dái
gà” đã hình thành đầy đủ, nhưng hệ thống mạch máu và các dây chằng chưa nhiều;
khoảng cách từ vết mổ đến vị trí “trứng dái” hãy còn đủ ngắn để với ngón tay
đến mà moi nó ra một cách trọn vẹn, ít gây đau và mất máu cho gà.
Ngược lại, nếu để gà già rồi mới thiến, lúc này các
tổ chức như dây chằng, mạch máu ở cuống “dái gà” đã phát triển, rất dai và
chắc. Gà già (đã to lớn), nên khoảng cách từ vết mổ đến buồng “trứng dái” cũng
đã xa, ngón tay với vào rất khó chạm đến nơi (khi thiến gà, người ta thực hiện
theo phương pháp “nội soi”, tức thò ngón tay vào moi “dái gà” bên trong, chứ
không thực hiện “mổ phanh” bên ngoài như thiến chó).
Bởi vậy, nếu thiến gà già (“trứng dái” to, cuống
dai), khi “cấu” được hai hòn “dái gà” ra, thì hay bị sứt, bị sót. Thậm chí có
những con gà thiến già, bị chảy máu trong nhiều, bỏ ăn, rồi chết. Trong khi đối
với chó, kể cả những con chó đã “đi đực” nhiều năm, lang thang khắp làng trên
xóm dưới, người ta sợ mất, mới đem thiến, vẫn rất an toàn.
Mặt khác, đối với gà, nếu xác định không để làm
giống, thì người ta phải thiến sớm để vỗ béo, chứ không ai để gà già, đi đạp
mái khắp xóm, rồi mới thiến. Với những con trống già loại thải, thì người ta
thịt luôn, chứ không ai còn đem thiến để vỗ béo nữa.
“Chó già, gà non” (“Chó thiến già, gà thiến non”)
là vậy.
Do đã thuộc “nằm lòng” ý nghĩa câu tục ngữ,
nên dân gian tạo ra dị bản rút gọn, chỉ còn mang tính quy ước “Chó già, gà
non”, thay vì “Chó thiến già, gà thiến non”. Giống như câu “Khôn chi khôn trẻ,
khoẻ chi khoẻ già”, được rút gọn thành “Khôn trẻ, khoẻ già”. Những câu này chỉ
“mơ hồ” đối với người không hiểu mà thôi!
Tục ngữ nói về kinh nghiệm sản xuất được đúc kết từ
thực tế sản xuất của nhân dân. Bởi vậy, để hiểu được nó, phải dùng chính kinh
nghiệm thực tế ấy để soi sáng, chứ không thể ngồi mà đoán già, đoán non được.
Theo đó, chính cách gán cho tục ngữ “Chó già, gà non” một số nghĩa
như: “nên chọn chó già vì có kinh nghiệm trông giữ nhà, còn gà non để nuôi
sẽ thu hoạch tốt hơn”; hay “nói về ẩm thực, chó già (nhưng không phải
là già “khú đế”) sẽ dai, có độ ngậy và ngon”của GS Nguyễn Đức Tồn mới
là “mơ hồ”.
Vì sao vậy?
Vì trông giữ nhà là bản năng của con chó nhà. Hễ
thấy người lạ, từ chó con đến chó lớn, chó tơ đến chó già đều sủa vang; vừa sủa
vừa xông vào cắn dữ dội, “đẩy lùi” sự “xâm nhập” của kẻ lạ mặt. Bởi vậy, đâu
cần phải đợi đến lúc già, con chó mới “tích luỹ” được “kinh nghiệm trông giữ
nhà”? Mặt khác, giống “chó ta” đa phần đều chỉ luyến chủ, quen nhà, khi được
chủ nuôi từ nhỏ. Không ai đi chọn mua con chó già nhà khác về để nuôi giữ nhà,
với mục đich khai thác "kinh nghiệm trông giữ nhà" của nó, như cách
tưởng tượng của GS Nguyễn Đức Tồn.
Với nuôi gà cũng tuỳ. Nếu ấp nuôi từ gà con lên, sẽ
giảm tiền mua giống, nhưng tỉ lệ hao hụt đầu con lớn (vì gia súc, gia cầm non
dễ chết); trong khi nếu mua loại gà nhỡ, hay đã mọc đuôi tôm về nuôi, thì tỉ lệ
chết sẽ ít, nhưng tiền đầu tư giống lại cao. Bởi vậy, không có căn cứ để
nói “gà non để nuôi sẽ thu hoạch tốt hơn”.
Tóm lại, nếu quý vị đem câu tục ngữ “Chó già, gà
non” (“Chó thiến già, gà thiến non”)-một kinh nghiệm thiến chó, thiến gà-để áp
dụng cho “văn hoá ẩm thực”, chúng tôi không phản đối. Vì đó là sở thích
ăn uống riêng của quý vị. Nhưng nếu nói rằng, dân gian đã truyền dạy kinh
nghiệm ăn uống như vậy, thì trước sau chúng tôi vẫn bảo lưu ý kiến: dân gian
không dại dột như thế. Những món khoái khẩu từ ngàn đời mà dân gian đã tổng
kết, chính là “Cầy tơ bảy món”, “Cơm chín tới, cải ngồng non, gái một con, gà
nhảy ổ đẻ”. Còn “Chó già, gà non” đơn giản chỉ là kinh nghiệm lựa chọn thời
điểm thiến chó, thiến gà mà thôi!
6. GS Nguyễn Lân
giảng: “rau muống tháng chín nàng dâu nhịn cho mẹ chồng ăn (Tháng chín thì
rau muống tàn lụi, rất hiếm) Có ý nói: Thức ăn hiếm, nàng dâu tốt dành cho
mẹ chồng. Song cũng có người cắt nghĩa trái lại, cho rằng: Rau muống tháng chín
cứng, nàng dâu chẳng ưa mẹ chồng dọn cho mẹ chồng ăn”.
Chúng tôi đã đưa ra ý kiến “Có thể loại trừ cách lý
giải thứ nhất, lựa chọn cách thứ hai”, bởi cách hiểu thứ nhất không có cơ sở
thực tế. Vì “rau muống tháng chín” không ngon, mà cũng chẳng lành (đây cũng là
đặc điểm của nhiều loại rau quả “trái tiết” khác). Từ xa xưa, dân gian ý thức
rất rõ điều đó, nên rau quả trái mùa không bao giờ được ưa chuộng, thậm chí bị
coi là độc[2].
Bởi vậy, trong sách “Từ điển tiếng Việt của GS.
Nguyễn Lân-Phê bình và khảo cứu”, chúng tôi đã phân tích: “rau muống là
rau mùa hè, ưa nước mát (mùa hè nắng nóng, mưa rào xen kẽ, có lượng đạm trời
dồi dào, rau muống mới tươi non, ngon ngọt). Tháng chín trời trở lạnh, bắt đầu
mùa khô hanh, rau muống già có hoa, ăn vừa cứng vừa chát, hiếm mà không quý”.
Mùa nào thức ấy, rau muống đã “tàn lụi” theo mùa,
dẫu có sót lại ít cọng rau già, ăn không thể ngon
được! Trong khi, chính GS. Nguyễn Lân cũng thừa nhận “tháng chín thì rau
muống tàn lụi, rất hiếm”.
Thế nên, chúng tôi đưa ra quan điểm: “Cùng một
thành ngữ, tục ngữ nhưng có nhiều cách hiểu, đưa ra nhiều cách giải thích là
chuyện bình thường, thậm chí là rất cần thiết, nếu như những cách hiểu ấy
có lý. Tuy nhiên, với cách hiểu sai thì không nên đưa
vào xem như một cách hiểu tồn tại song song. Ví dụ trường hợp câu tục ngữ
đang xét, bằng kiến văn, người biên soạn có thể định hướng cho bạn đọc loại trừ
cách hiểu sai. Tuy nhiên, GS Nguyễn Lân lại lựa chọn cách hiểu sai (thứ nhất)
là chính, còn cách hiểu đúng (thứ hai) chỉ là tham khảo”. [lưu ý, nhiều cách
hiểu, nhưng phải là cách hiểu có lý].
Tuy nhiên, Thanh Hằng dẫn lời GS. Nguyễn Đức Tồn,
cho rằng “không phải lúc nào rau muống khan hiếm cũng là rau già”. Nhưng
GS Nguyễn Đức Tồn cần lưu ý, thời điểm cụ thể dân gian nói đến là “rau muống
tháng chín”, đâu phải “lúc nào” chung chung?
Theo đây, để bác bỏ quan điểm của chúng tôi, GS
Nguyễn Đức Tồn phải chứng minh được rằng, “rau muống tháng chín” vừa khan hiếm
vừa ngon, thậm chí ngon hơn mọi thời điểm khác trong năm, nên nàng dâu hiền mới
nhịn thèm để nhường cho mẹ chồng ăn (theo như cách hiểu của GS Nguyễn Lân mà GS
Nguyễn Đức Tồn đánh giá là “tích cực”).
Mặt khác, dù trong thực tế vẫn có những mối quan hệ
mẹ chồng nàng dâu tốt đẹp, nhưng phản ánh tình cảm yêu thương chân thật giữa mẹ
chồng nàng dâu, chưa bao giờ trở thành chủ đề trong thành ngữ, tục ngữ. Ngược
lại, mối quan hệ mẹ chồng nàng dâu luôn hiện lên trong thành ngữ, tục ngữ như
là sự “xung đột” dai dẳng “truyền kiếp”, tới mức thành bản chất: Thật thà
cũng thể lái trâu, yêu nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng; Mẹ chồng không ai nói
tốt nàng dâu, nàng dâu đâu có nói tốt cho mẹ chồng; Mẹ chồng nàng dâu, chủ
nhà người ở ưa nhau bao giờ; Bố chồng là lông con phượng, mẹ chồng là
tượng mới tô, nàng dâu là bồ nghe chửi; Bố chồng là lông lợn hạch, mẹ chồng là
đách lợn lang, nàng dâu mới về là bà hoàng hậu; Dâu vô nhà, mụ gia ra ngõ; Muốn
nói không làm mẹ chồng mà nói; Bắt chấy cho mẹ chồng, thấy bồ nông dưới bể…
Tóm lại, khi giải nghĩa câu “rau muống tháng
chín nàng dâu nhịn cho mẹ chồng ăn”, mà lấy cách hiểu “thức ăn hiếm, nàng dâu
tốt dành cho mẹ chồng” làm cách hiểu chính thức như GS. Nguyễn Lân là hoàn toàn
thiếu cơ sở.
7. Mục từ “vịt xiêm” GS
Nguyễn Lân giảng: “vịt xiêm dt GIỐNG VỊT TO, người ta nói nhập từ
Thái Lan. Trong sân nhà có đôi vịt xiêm rất lớn”. (HTC nhấn mạnh).
Chúng tôi cho rằng, cách giảng của GS Nguyễn Lân,
biến hai con (vịt và ngan) thành một như vậy không đúng, vì “vịt xiêm” là
cách gọi tên con ngan của người miền Nam”, chứ không phải nó chính là
“con vịt”, nhưng là “giống vịt to”, và “nhập từ Thái Lan” (Xiêm), nên được gọi
là “vịt xiêm”. Cũng như con “ngan pháp” mà giải nghĩa là “GIỐNG VỊT TO, nhập từ
Pháp”, thì làm sao chấp nhận được.
Thế nhưng, Thanh Hằng lại cho rằng: “Ở đây,
Hoàng Tuấn Công đã tự mâu thuẫn với mình khi khẳng định “sao biến hai
con thành một được”, nhưng ví dụ của anh thì lại chứng minh ngan và
vịt xiêm là một”!
Theo đây, Thanh Hằng đã không đọc kỹ những gì chúng
tôi viết, hoặc đọc mà không hiểu vấn đề. Vì chúng tôi không đồng ý với cách
giảng “GIỐNG VỊT TO” nhập từ Thái Lan, thì gọi là vịt xiêm (ngan); chúng tôi
đâu có phản đối cách hiểu con ngan chính là con “vịt xiêm”?
Để “bác bỏ” chúng tôi ở mục “vịt xiêm”, Thanh Hằng
tiếp tục dẫn lời GS. Nguyễn Đức Tồn, cho rằng “GS. Nguyễn Lân đúng, bởi
vịt xiêm có gốc từ Thái Lan (từng gọi là Xiêm). Người miền Bắc gọi con vịt gốc
Thái Lan là ngan, còn người miền Nam gọi là vịt xiêm –cách gọi theo nguồn trong
tiếng Việt”. Theo đây, GS Nguyễn Đức Tồn cũng không hề đọc những gì chúng tôi
trao đổi trong mục “vịt xiêm”, nên mới giảng giải như vậy.
Đáng chú ý, trong “Từ điển từ và ngữ Việt Nam”,
mục “vịt xiêm”, GS Nguyễn Lân giảng là “GIỐNG VỊT TO, người ta nói nhập từ
Thái Lan”; nhưng ở mục “ngan”, GS Nguyễn Lân lại giải thích: “ngan •
dt. (động) Loài chim thuộc loại (sic) vịt, đầu có mào, thịt đỏ
<> Mua con ngan về làm phở”.
Như vậy, nếu như ở mục “vịt xiêm”, soạn giả đã đồng
nghĩa “GIỐNG VỊT TO” với con “NGAN” (“vịt xiêm”), thì khi so sánh cách giải
nghĩa giữa “vịt xiêm” với “ngan”, bạn đọc lại thấy, dường như “ngan” với “vịt
xiêm” là hai con khác nhau (vì cách mô tả, nhận diện khác nhau).
Trong khi đó, Từ điển Vietlex giải nghĩa
“vịt xiêm” và “ngan” như sau: “vịt xiêm d [ph] xem ngan”; mục “ngan” giải
thích: “ngan • d. chim nuôi CÙNG HỌ với vịt, nhưng lớn hơn, đầu
có mào thịt đỏ”. (“[ph] là viết tắt “phương ngữ” của Từ điển Vietlex).
Như vậy, chỉ qua mục “vịt xiêm” và “ngan”, so sánh
với “Từ điển tiếng Việt” của Trung tâm từ điển học Vietlex, bạn đọc đã thấy GS
Nguyễn Lân thiếu hẳn kiến thức cần thiết về từ điển học (đơn giản như là các
sắp xếp, giải nghĩa những từ đồng nghĩa).
8. GS.Nguyễn Lân
giảng: “chim trời cá nước ng Nói người ở nay đây mai đó, khó
lòng gặp được: Anh ấy có tính lãng du, chim trời cá nước, biết
đâu mà tìm”.
Chúng tôi cho rằng “thiếu nghĩa: của ở đời, không
thuộc quyền sở hữu của riêng ai”.
Tuy nhiên, Thanh Hằng dẫn lời GS. Nguyễn Đức Tồn
cho rằng: “ông chưa nghe thấy nghĩa “của ở đời, không thuộc quyền sở
hữu của riêng ai” cho câu này bao giờ, mà “Chim trời cá nước” nói về
con người tự do, nay đây mai đó, ngược với “Cá chậu chim lồng” chỉ sự tù túng,
bị giam cầm”.
Dĩ nhiên, GS. Nguyễn Đức Tồn “chưa nghe thấy”,
không có nghĩa là thực tế không có thêm cách hiểu ấy. Chúng tôi xin đưa nhanh
hai ví dụ chứng minh:
- “Từ điển Việt Nam phổ thông” (Đào Văn Tập – Nhà
sách Vĩnh Bảo, Sài Gòn-1951) thu thập và giải nghia thành ngữ “chim trời
cá nước [chim giời cá nước] • Chim ở trên trời và cá ở dưới nước. • ngb.
Của ở đời, không thuộc quyền sở hữu của riêng ai”.
-“Từ điển tục ngữ Việt” (Nguyễn Đức Dương-sách đã
dẫn) thu thập câu “Chim trời các nước, ai được thì ăn”. Tục ngữ thể hiện đầy đủ
ý dân gian muốn nhắn gửi, mà ở dạng thành ngữ “chim trời cá nước” mới chỉ là
cách nói mập mờ, “nước đôi: “Chim trời cá nước, ai được thì ăn • Chim
trên trời cũng như cá dưới nước ấy mà (đâu phải của riêng ai mà cứ đòi giữ lấy,
bởi thế) ai giỏi thì cứ việc bắt lấy mà ăn”.
“Chim trời, cá nước”, hoặc “Chim trời, cá nước, ai
được thì ăn” thường được dùng trong một số tình huống, như:
-Câu trả lời đối với ai đó ngăn cản việc bắt bẫy cá
nước, chim trời, muông thú vô chủ (ví dụ: “Chim trời cá nước, ông lấy quyền gì
mà ngăn cấm tôi?”)
-Lời tự nhủ, hoặc khuyến khích ai đó, thấy chim
trời, cá nước, nhưng còn e ngại, không dám săn bắt (ví dụ: “Ôi dào, sợ gì, chim
trời cá nước, ai được thì ăn, mình có ăn cắp, ăn trộm của ai đâu mà sợ!”)
Thế nên, trong “Hương rừng Cà Mau”, Nhà văn Sơn Nam
mới viết: “Đằng này rắn ri voi thuộc loại chim trời cá nước, ai bắt được
nấy hưởng, khỏi đóng thuế cho sở kiểm lâm” [tập 1, tr.298]; hay, trong “Đất
rừng Phương Nam”, Đoàn Giỏi viết: “Bộ họ nuôi nó sao, chim trời cá nước,
ai bắt được nấy ăn chứ”. [tr.227] (dẫn theo “Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt
Nam trong hành chức”-Đỗ Thị Kim Liên chủ biên-NXB Khoa học xã hội, 2015).
Mặt khác, chính “Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt
Nam trong hành chức”, đã ghi nhận một trong số nhiều nghĩa của “chim trời cá
nước” là: “không thuộc quyền quản lý hoặc tài sản của ai cả”.
Theo đây, chúng tôi đâu có bịa thêm nghĩa cho thành
ngữ “chim trời cá nước”, thưa GS Nguyễn Đức Tồn?
9. Thanh Hằng viết:
“Danh từ “Nội các” được GS. Nguyễn Lân giải thích là “Hội đồng Chính
phủ của một số nước, gồm thủ tướng và các bộ trưởng”,nhưng Hoàng Tuấn Công
\ cho rằng phải chọn theo nghĩa 2 của từ điển Thiều Chửu là “tên bộ quan-nội
các gọi tắt là các” và Trần Văn Chánh là “Nội các (nói tắt): tổ các, nội các,
tổ chức nội các.”
Sau đó, Thanh Hằng dẫn ý kiến “không đồng tình” của
“TS. Lã Trọng Long - nguyên Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT Hải
Phòng”.
Tuy nhiên, xin lưu ý Thanh Hằng và TS.
Lã Trọng Long, ở mục “nội các”chúng tôi hoàn toàn không có ý kiến gì về
phần giải nghĩa từ vựng. Chúng tôi chỉ nói phần giải nghĩa yếu tố Hán
Việt “các” 閣 (trong từ “nội các” 內閣). Cụ thể, chúng tôi
viết: “Dù cùng có tự hình là 閣, nhưng “các” 閣 trong “nội
các” 內閣, lại là“tên bộ quan”, chứ không phải “lầu gác” (như GS Nguyễn
Lân giảng).
Thế nhưng, TS. Lã Trọng Long lại bàn sang
chuyện giải nghĩa từ vựng “nội các” và nhận xét: “Nếu giải thích như Hoàng
Tuấn Công sẽ làm người đọc hiểu nhầm “nội các” là một quan nhỏ trong triều đình
nhà Nguyễn”.
Tương tự như ở mục “lâm bồn”, chúng tôi chỉ
bàn đến nghĩa của 2 yếu tố Hán Việt “lâm” 臨, và “bồn” 盆 (trong
“lâm bồn” 臨盆), hoàn toàn không nói gì đến nghĩa từ vựng của “lâm bồn” mà
GS Nguyễn Lân giảng. Không lẽ cả TS. Lã Trọng Long và Thanh Hằng đều không
làm được điều tối thiểu là đọc kỹ xem chúng tôi viết những gì, để “trao đổi”
lại cho đúng vấn đề cần trao đổi?
10. Thanh Hằng viết: “Nhà
văn Ngô Văn Phú cho biết, thời điểm cuốn từ điển của GS. Nguyễn Lân ra đời, vốn
từ tiếng Việt chưa phong phú như bây giờ, Việt Nam cũng chưa giao lưu quốc tế
rộng như hiện nay. Vì thế, sai sót hay cách hiểu nghĩa khác với hôm nay là bình
thường”.
Chúng tôi không rõ, Nhà văn Ngô Văn Phú nói “thời
điểm cuốn từ điển GS. Nguyễn Lân ra đời” là thời điểm nào? Không lẽ chỉ mới từ
năm 2000 đến nay, mà tiếng Việt đã có sự thay đổi đến mức khiến cho những từ
ngữ mà GS Nguyễn Lân giảng vốn đúng, nay trở nên sai như vậy sao? Nhà văn Ngô
Văn Phú có thế lấy một vài ví dụ về những từ, ngữ, thành ngữ, tục ngữ, vào thời
điểm năm 1989, hay năm 2000 (khi GS Nguyễn Lân biên soạn và xuất bản sách) được
người Việt hiểu theo một nghĩa, đến nay lại hiểu theo nghĩa khác, được chăng?
Mặt khác, trong sách “Từ điển tiếng Việt của GS.
Nguyễn Lân - Phê bình và khảo cứu”, chúng tôi đâu có phê phán GS. Nguyễn Lân về
việc “vốn từ tiếng Việt chưa phong phú”, cũng không hề có ý đòi hỏi tác
giả từ điển phải cập nhật những từ mới sinh ra trong quá trình Việt
Nam “giao lưu quốc tế” gần đây.
Hơn nữa, “vốn từ tiếng Việt”, hay “giao lưu quốc
tế” đâu ảnh hưởng gì đến việc GS Nguyễn Lân giải thích sai hàng loạt từ, ngữ,
thành ngữ, tục ngữ? Phải chăng ý Nhà văn Ngô Văn Phú, vì “vốn từ tiếng Việt
chưa phong phú”, “chưa giao lưu quốc tế rộng”, nên khiến GS. Nguyễn Lân khó
diễn đạt, giải nghĩa từ ngữ?
Về nguyên tắc tối thiếu trong trao đổi, tranh luận
học thuật, theo chúng tôi, bản thân người viết cần phải có nền kiến thức cần
thiết, để đưa ra những sở cứ, lập luận của CHÍNH MÌNH (và CỦA MÌNH LÀ CHÍNH),
chứ KHÔNG THỂ DỰA HOÀN TOÀN vào sự “trợ giúp”, “hỏi ý kiến” người khác,
đặt hết niềm tin vào sự tư vấn kiến thức của người khác.
Bản thân những người ‘trợ giúp” đã thiếu cẩn trọng,
đưa ra nhận xét, kết luận đầy cảm tính, chủ quan; đến người được “trợ giúp” lại
cũng không đủ khả năng thẩm định đúng sai. Trường hợp, Hằng Thanh xác định,
mình chỉ là người làm báo, phỏng vấn ý kiến các chuyên gia một cách khách quan,
mục đích truyền tải thông tin tới bạn đọc, hãy để các chuyên gia tự chịu trách
nhiệm về những phát ngôn của mình. Thế nhưng Thanh Hằng không dừng ở chỗ cần
dừng, mà dựa hoàn toàn vào những nhận xét ấy, rồi tự mình đưa ra kết luận “Cuốn
sách ‘bắt lỗi’ nhà giáo Nguyễn Lân cũng mắc nhiều sai sót”, hay khẳng định đầy
tự tin “Trên đây chỉ là một vài, chưa phải tất cả, sai sót trong cuốn “Từ điển
tiếng Việt của GS. Nguyễn Lân – phê bình và khảo cứu”.
Khi tranh luận, đã trích dẫn ý kiến của người khác,
thì dù ngắn hay dài, cũng phải đảm bảo trung thực. Tuy nhiên, tác giả Thanh
Hằng đã tự ý chính sửa, thêm bớt, diễn đạt lại ý tứ của chúng tôi theo hướng có
lợi cho mình. Đây chính là điều tối kỵ trong tranh luận học thuật.
Cuối cùng (nhưng là quan trọng nhất), để đưa
ra góp ý, tranh luận, thì điều tối thiểu là bản thân người viết phải đọc kỹ xem
người ta viết gì, sai gì, sau đó tra cứu tài liệu để trao đổi. Tuy
nhiên, trong số 7 điều mà Thanh Hằng và các vị giáo sư, tiến sĩ cho là
chúng tôi “sai sót”, thì 4 điều chúng tôi hoàn toàn không sai (như đã
chứng minh trong phần I bài viết); 3 điều còn lại (“vịt xiêm”; “nội các”; “lâm
bồn”) là do Thanh Hằng và các vị nhầm lẫn, tức chúng tôi viết một đường, các vị
lại trao đổi một nẻo; theo kiểu “Ông nói gà, bà nói vịt”, “Vậu phuối
gẳn nà hây loà kha cáy” (Người ta đang nói chuyện bờ ruộng, mình lại nói chuyện
vụt chân con gà)[3].
Chú thích:
[1]-Nếu
độc giả cần tra cứu, tìm hiểu câu “rau muống tháng chín nàng dâu nhịn cho mẹ
chồng ăn”, với cách giảng nước đôi của GS Nguyễn Lân, thì độc giả sẽ không
biết sai đúng ra sao, nên tin theo các hiểu nào.
[2]-Sách
“Luận ngữ” dành hẳn một chương (“Hương đảng”) ghi chép về thói quen sinh hoạt,
ăn uống khoa học, cách đây hàng ngàn năm của Khổng Tử như sau: “…Đồ nấu chẳng
vừa: chưa chín hay là rục quá, thì ngài chẳng ăn. Và ngài CHẲNG ĐỂ VÀO MIỆNG
NHỮNG VẬT TRÁI MÙA…”.
Dịch
giả Đoàn Trung Còn chú giải: “…Đồ nấu chưa chín, nếu ăn vào thì sình ruột;
còn nấu rục quá thì mất chất bổ, ăn chẳng ngon. VẬT TRÁI THỜI TIẾT, ĂN VÀO HAY
SINH BỆNH…”
[3]
“Từ điển thành ngữ, tục ngữ Tày” (Triều Ân-Hoàng Quyết-NXB Văn hoá dân tộc,
1996)
*.
HOÀNG TUẤN CÔNG
Địa chỉ: Số 6 Hạc Thành,
phường Tân Sơn,
thành phố Thanh Hoá, tỉnh Thanh Hoá.
Email:
tuancongthuphong@gmail.com.
…………………………………………………………………………
- Cập nhật từ email: tahongtruong@yahoo.com.vn gửi: 19.04.2019.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
.
Cám ơn tác giả vì bài viết hữu ích với bạn đọc
Trả lờiXóa