Truyện ma - truyện liêu trai: CHÀNG THƯ SINH HỌ DIỆP - Nhiều Tác Giả

Leave a Comment

CHÀNG THƯ SINH HỌ DIỆP

*

TÊN TRỘM VÔ HÌNH

(Tác giả: Tam Tang)

 

Nam là một sinh viên năm thứ tư ngành hóa học của đại học kỹ thuật Phú Thọ Sài Gòn. Chàng rất giỏi về việc nghiên cứu và điều chế các hợp chất hóa học. Một buổi tối trong khi pha chế các chất hóa học theo một công thức mà do tự chàng tìm ra, một chất kết tủa màu vàng óng ánh hiện ra dưới đáy của ống nghiệm. Trời đã về khuya và cũng không biết đó là chất gì chàng cất cái lọ vào tủ và ra về. Bù đầu trong các việc nghiên cứu khác, chàng quên bẵng cái lọ đó đi!

Một buổi tối, chàng ở lại để làm thí nghiệm trên con chuột bạch, Nam tìm kiếm các vật dụng trong tủ thì vô tình thấy cái lọ chứa chất màu vàng kia! Tiện tay chàng lắc lắc rồi đặt vào trong cái khung chuồng có con chuột và tiếp tục tìm kiếm vật cần dùng.

Khi quay lại chỗ làm việc thì cái lọ đã bị đổ, chất hóa học vàng kia văng vãi trong khung và bóng con chuột thì biến mất dạng! Tìm quanh quẩn cũng chẳng thấy nó đâu cả!

Buồn rầu Nam dọn dẹp chuồng cho sạch để đi về, bỗng chàng nghe có tiếng chuột kêu chút chít trong khung! Nhưng bóng hình chuột thì vẫn bặt tăm! Có lẽ ta nghe lầm - Nam tự nhủ rồi ra về! Tối hôm sau trở lại phòng thí nghiệm thì lạ thay con chuột đang chạy loang quanh trong khung chuồng. Nam rất ngạc nhiên, nhưng là một người theo khoa học chàng luôn suy luận sự kiện một cách khoa học! Nam suy rằng có thể vì lý do gì đó mà con chuột đã trở nên vô hình chăng!? Chợt nhớ tới lọ có chất kết tủa màu vàng bị đổ văng vãi ra chuồng hôm qua! Có thể đây là đầu mối chăng. Nghĩ là làm, Nam bèn lấy một ít chất đó cho con chuột ăn thử. Kỳ diệu thay con chuột từ từ biến mất ngay dưới mắt chàng! Qúa mừng rỡ vì vô tình chàng đã chế ra được thuốc tàng hình! Nam ngồi đợi chừng một giờ sau, con chuột lại từ từ hiện ra lại nguyên hình. Nắm được bí quyết của loại chất siêu việt này, Nam nghiên cứu liều lượng một cách kỹ lưỡng và thí nghiệm trên con chuột bạch trong suốt hai tuần liền! Cuối cùng chàng nắm vững được liều lượng thuốc để có thể tàng hình trong một thời gian như ý chàng muốn! Nam tuy rất giỏi nhưng cũng giống như các thanh niên trẻ khác - Có tính hiếu danh - Tuy đã chế được thuốc rồi nhưng Nam không cho một ai biết về việc này hết! Vì tính háo danh muốn được nổi tiếng và làm những việc cho thiên hạ rối đầu nên Nam quyết định dùng thuốc ấy trên chính bản thân mình! Anh cẩn thận uống một liều thuốc nhỏ để thử nghiệm, xong cởi hết quần áo rồi đứng trước gương để xem kết quả. Chỉ một phút sau bóng anh trong gương đã biến mất, Nam đi tới đi lui trong phòng và thình lình nhà bị cúp điện! Nam mò mẫn tìm đường trong bóng đêm. Khi điện sáng trở lại, Nam thấy mình đang đứng ở ngoài sân! Sao lại lạ thế này - Nam nghĩ thầm - rõ ràng mình đang ở trong nhà mà! Nam nhắm mắt quay ngược lại mò mẫm cố nhớ lại lối mà mình đã đi! Mở mắt ra chàng đã ở trong nhà!   

- Chúa ơi! Tôi có thể tàng hình và đi xuyên qua được cả tường gạch nữa!! - Nam mừng rỡ thốt lên!

Ngay tuần sau Nam thực hiện ngay ý định làm cho mọi người - Nhất là cảnh sát - rối đầu chơi!

Đêm về, Nam dùng thuốc tàng hình rồi đi xuyên qua tường các tiệm bán kim cương, lấy những hột to nhất rồi trở ra mà không một ai biết, dù là tiệm nào cũng có gắn máy thu hình và hệ thống báo động! Hôm sau tin trộm viếng các tiệm hột xoàn được đăng trên trang đầu! Cảnh sát và các thanh tra không sao tìm ra dấu vết của tên trộm! Cứ thế Nam trộm tiệm này qua tiệm khác, rồi tỉnh này qua tỉnh khác! Chính phủ đã phải huy động một lức lượng lớn của nghành cảnh sát để lo điều tra vụ này! Nhưng cũng không đi đến đâu!

TV, đài phát thanh, và báo chí tặng cho Nam cái biệt danh "Tên trộm vô hình!" Nam thích thú lắm, nhưng cái tính háo danh vẫn rất mạnh trong người, chàng nghĩ họ gọi ta là "tên trộm vô hình" nhưng họ có biết ta là ai đâu! Thế là hôm sau Nam dùng điện thoại công cộng gọi đến các văn phòng nhà báo, đài truyền thanh, truyền hình tự xưng mình là "tên trộm vô hình!" Điều mà Nam nhận được chỉ là những cái cười chế diễu từ các nhân viên làm việc mà thôi! Giận lắm, Nam gọi tới sở cảnh sát đô thành Sài Gòn cho biết là 11 giờ khuya đêm nay chàng sẽ vào trộm "Tín Nghĩa Ngân Hàng" và thách các nhân viên chức trách về việc ngăn chận vụ trộm tối nay! Tuy không biết thật hư ra sao, nhà chức trách cũng phái một lực lượng hùng hậu cảnh sát, quân cảnh và có cả quân khuyển (K9 unit) tới canh giữ chung quanh và bên trong Tín Nghĩa Ngân Hàng! Giữ đúng lời hứa, Nam uống thuốc rồi tới địa điểm! Không một ai phát giác ra chàng! Các con chó ngửi ngửi hít hit' chạy trước các vị cảnh sát! Trông ai nấy đều có vẻ căng thẳng lắm! Nam bình thản đi xuyên qua tường vào trong và nhẹ nhàng thò tay xuyên qua tủ sắt lấy ra những cọc tiền giấy 500! Xong xuôi chàng nhẹ nhàng xuyên qua tường mà về nhà! Nam cảm thấy thơi mái lắm vì cả trăm cảnh sát và hàng tá chó bẹt-giê cũng chẳng ngăn cản được chàng! Ngày hôm sau, tin "Tên trộm vô hình" chơi cảnh sát một vố đau điếng được đăng tải trên toàn trang nhất của tất cả các báo trong nước, đài truyền thanh, truyền hình loan tin từng giờ. Nam hãnh diện lắm! Nhưng cơn háo thắng trong lòng Nam vẫn chưa nguôi! Phải làm sao cho họ biết "Tên trộm vô hình" chính là ta đây - Nguyễn Hoàng Nam - Nam gửi ảnh và tiểu sử của mình về các nhà báo lớn yêu cầu họ loan báo cho mọi người biết chính anh đã sáng chế ra thuốc vô hình, có thể đi xuyên qua tường!

Và để chứng minh tối đó anh sẽ vào hốt hột xoàn tại tiệm hột xoàn "Thủ Đô!" Nói là làm, tối đó anh hốt một số lớn hột xoàn trong tiệm đó mà không ai bắt được anh cả! Báo chí liền đăng hình và tiểu sử của Nam lên trang nhất, các đài bình luận về các khám phá của anh trong nghành hóa học! Nhưng than ôi cũng vì ngựa non háo thắng, nên cảnh sát bây giờ nắm đầy đủ hồ sơ lý lịch của Nam. Họ phái người lùng kiếm anh khắp nơi, chổ công cộng nào cũng có treo hình anh với một số tiền thưởng khổng lồ! Đi đâu Nam cũng phải hóa trang, đeo kính đen, tóc giả, và thay đổi chổ ở liên miêm! Nhiều khi anh phải dùng thuốc tàng hình, để ra ngoài không ai thấy anh! Sống chui sống nhủi như vậy một thời gian, Nam quyết định làm một mẻ lớn rồi dông ra ngoại quốc sống hưởng nhàn! Hôm đó anh đi uống rượu hơi quá độ lại dầm ngoài mưa lâu, nên khi về đến nhà Nam cảm thấy mệt mỏi lắm, hình như bị cảm mưa thì phải. Nhưng vì lỡ hẹn với bọn dẫn đường vượt biên giới là ngày mai sẽ lên đường. Nam uống một liều thuốc rồi đi về phía "Ngân Hàng Quốc Gia" và xuyên qua bức tường bê tông dầy cộm (bề ngang dầy một thước.)

Lần vào Nam đã cảm thấy hơi khó khăn khi xuyên qua bức tường, nhưng không sao miễn vào trong là được rồi! Nam thò tay vào tủ sắt chứa bạc Đô La Mỹ, móc ra mấy trăm sấp giấy $100 ! Nam lần trở ra và khó khăn lắm chàng mới xuyên vào được bức tường! Nhưng khi vào trong tường rồi thì Nam kiệt sức! Chàng cố vùng vẫy để chui ra ngoài đường! Nhưng hởi ôi, sức người có hạn! Nam không sao thoát ra khỏi bức tường dầy oan nghiệt đó! Nam cùng túi tiền bị sức ép của các viên gạch tiêu biến thành bụi đỏ trong tường!

Hôm sau các báo đăng tin "Tên trộm vô hình" đã làm một mẻ rất lớn tại Ngân Hàng Quốc Gia, số tiền mất lên đến 10 triệu Mỹ Kim. Nhưng từ đó về sau không ai thấy tăm hơi của "Tên trộm vô hình" nữa. Dần dần "Tên trộm vô hình" cũng đi vào quên lãng, như thân xác Nam đã hòa biến trong bức tường kia!!

Note: Đây chỉ là một truyện do tôi tưởng tượng ra để giúp vui các bạn thôi! Tuy tôi có dùng một số địa danh có thật trước năm 75. Nhưng thật ra các chi tiết trong truyện đều không có thật, đừng tốn công đi hỏi người khác!

 

XÀ TINH

(Tác giả: Người Khăn Trắng)

 

Thời ấy khi Tây mới xâm chiếm nước ta, trên con đường đi từ Rạch Giá đến Hà Tiên rất ít cư dân sinh sống. Hầu hết những người ngụ cư đều là những kẻ tha phương cầu thực những người xâu lậu thuế tìm đến để ẩn náu.

Tuy nhiên vào một năm người ta thấy có một ngôi nhà mái ngói rất bề thế mọc lên ở khoảng giữa lộ vắng, hai bên cách chục cây số mới có nhà láng giềng. Nghe đâu chủ nhân ngôi nhà một đại điền chủ có máu mặt ở ngoài tỉnh thành. Ông ta xây nhà lớn với mục đích sẽ khai khẩn vùng đồng cỏ, rừng tràm quanh đó thành một đồn điền tầm cỡ.

Nhà xây xong làm lễ tân gia rất lớn, có đàn ca xướng hát linh đình suốt mấy ngày liền. Cuộc phô trương thanh thế khá ấn tượng, khiến mọi người tấm tắc khen chủ nhân là người biết thời thế, nhạy bén kinh doanh. Bởi vùng đất Tám Ngân - Cà Bây Ngộp đó sẽ là một mỏ vàng vô tận...

Nhưng chuyện đời không đơn giản như sự toan tính của con người. Sau lễ tân gia chưa đầy hai tháng, bỗng có đám gia nhân được gia chủ thuê ở giữ nhà đã đồng loạt nghỉ việc mà chẳng ai biết nguyên nhân.

- Việc gì đã xảy ra?

Ông Phủ hàm Phan Hớn là chủ nhân ngôi nhà đã hoảng hốt tìm hiểu nguyên do. Và bốn trong số hơn hai mươi nhân công đã kể lại cho ông nghe các chi tiết mà họ cho là có cho đống vàng thì họ cũng không dám trở lại sống trong ngôi nhà ấy!

- Họ tiết lộ điều gì?

Hãy nghe Sáu Nhơn kể lại:

- Tôi được giao ngủ giữ ngôi nhà lớn nên đêm nào sau khi chốt chặt cửa vô, tôi đi ngủ sớm. Đêm đầu tiên tôi chỉ ngủ được có nửa giấc thì phải giật mình dậy, bởi có những tiếng động gì đó rất lạ ở dưới nền nhà... Ban đầu sau khi lắng nghe tôi cho rằng đó là tiếng côn trùng kêu, nhưng nghe kỹ thì hoàn toàn không phải. Các tiếng động phát ra như tiếng thở phì phò của cả chục người. Tưởng đám gia nhân khác ngủ gần đó ngáy nên ngồi dậy đốt đèn đi tìm. Chẳng có một ai ngủ gần tôi, bởi theo phân công thì trong gian lớn chỉ một mình tôi có mặt. Lúc tôi dậy soi đèn thì tiếng phì phò giảm bớt. Tuy nhiên khi tôi tắt đèn nằm ngủ lại thì âm thanh ấy lại có trở lại. Chưa hiểu nguyên nhân nhưng vì buồn ngủ nên tôi có dở giấc ngủ lại. Vừa chợp mắt bỗng tôi có cảm giác như cạnh tôi có ai đó chen vào nằm chung.

- Ai vậy?

Tôi hỏi nhỏ vừa đưa tay sang sờ thì... đụng một thân thể thịt da mát lạnh. Mắt nhắm mắt mở nhưng tôi cũng bật dậy được để đốt cây đèn dầu lên xem cho rõ. Chẳng có ai cả, ngoài một vật gì đó to hơn bắp tay đang bò nhanh vào xó nhà. Một con rắn màu đỏ rất lạ thường! Tay chân tôi rụng rời, thần tứ hoang mang, tôi kêu báo động với mọi người. Tuy vậy khi mọi người nghe tôi kể chuyện đều cười ồ, cho là tôi nhát gan, giàu tưởng tượng.

Khi mọi người tản ra rồi tôi không tài nào ngủ lại được bởi hễ tắt đèn là y như rằng những âm thanh quái dị kia lại trỗi lên...

Người thứ hai kể lại là Tư Thơm, một nông dân được tiếng là gan dạ: - Tôi thay Sáu Nhơn lên nhà lớn ngủ, bởi Nhơn sợ quá đã xin ra nhà kho quét dọn và ngủ ở đó. Tôi tự nhủ có ma quỷ gì thì đêm nay cứ ta ngủ chung cho vui. Và đêm đầu tiên tôi đã nếm đủ mùi kinh dị. Ban đầu tôi chỉ nghe những tiếng động lạ, từ nhỏ rồi lớn dần và sau cùng thì nền nhà dưới lưng tôi như đang rung chuyển. Tôi vừa định mở mắt ra thì hai mí mắt đang bị ai đó bít kín lại không tài nào mở ra được. Tôi quờ quạng tay chân thì va vào một thân thể ai đó mát lạnh đến rợn người. Mà chẳng phải một, có đến hai nằm hai bên tôi. Tôi vốn có thói trăng hoa, thích gần phụ nữ, nhưng lúc ấy thú thật là thần tứ tôi đang hoảng loạn thật sự, không nghĩ gì khác ngoài tìm cách bật dậy.

Tư Thơm ngừng lại lấy hơi, cũng là để trấn tỉnh trước khi kể tiếp:

- Cuối cùng thì tôi vùng dậy được và trong cơn vùng vẫy tôi đã làm sập chiếc mùng. Đốt đèn sáng lên, tôi nhìn quanh không hề thấy gì khác thường... Sau khi trấn tỉnh lại tôi kéo mùng định ngủ tiếp thì chợt kêu thét lên, bởi nằm trong mùng tôi lúc ấy là hai con rắn cực to, da vẩy của nó phát ra những ánh ngũ sắc lạ thường! Trong đời tôi chưa từng nhìn thấy con rắn nào to và kỳ dị như vậy. Hai con rắn nhìn thấy tôi chúng không hề tỏ ra sợ sệt hay có phản ứng hung dữ gì, mà chỉ từ từ bò ra khỏi chiếu, sóng đôi nhau tiến về phía vách tường và biến mất!

Một người nãy giờ ngồi nghe kể đã thốt lên:

- Những con xà tinh thường là như vậy. Chúng không cắn người mà chỉ nuốt người vào bụng thôi.

Ông Phủ Nhơn nạt ngang:

- Để nghe nó kể tiếp, nói tào lao hoài!

Tư Thơm vẫn còn sợ hãi:

- Tôi không bỏ chạy như Sáu Nhơn, nên đêm sau nữa tôi trải chiếu trên giường để ngủ.Thay vì tắt đèn khi đi ngủ, tôi lại treo một cây đèn bão sáng cả gian nhà để có thể yên tâm hơn.Tôi ngủ được một giấc khá ngon và thức dậy vào nửa đêm. Đưa mắt nhìn lên trần nhà tôi không còn tin vào mắt mình nữa, bởi trên trần lúc ấy đang có hai... mỹ nữ mặc áo hồng, áo tía đang đu trên cây xà ngang. Một trong hai cô nàng còn nhoẻn miệng cười khi bắt gặp ánh mắt của tôi.

Câu chuyện hấp dẫn làm ông Phủ Hơn cũng chen vô: - Mày là thằng háo sắc có tiếng mà, lúc ấy có cười cợt lại với các nàng không?

Tư Thơm đưa tay ôm lấy ngực:

- Tim muốn rụng ra ngoài, còn tâm trí đâu mà háo với sắc! Lúc đó tôi dụi mắt vì không tin vào mình, có thể là do ảo giác hoặc là mộng mị... Nhưng vừa lúc ấy thì chiếc đèn treo vụt tắt. Cả căn phòng tối thui. Hoảng quá tôi tìm ống quẹt đốt lên. Phải mất cả phút sau thì đèn mới sáng trở lại, và... thay vào chỗ hai cô gái lúc nãy, giờ chỉ còn là hai con rắn to đang treo đung đưa trên xà ngang. Rồi trong phút chốc hai con rắn biến mất thật kỳ lạ.

Tư Thơm ngừng kể rồi mà Phủ Hơn vẫn còn chưa hết hồi hộp. Ông lắc đầu ngao ngán:

- Tao vốn sợ rắn, gặp trường hợp đó chắc là tao đứng tim mà chết mất.

Tư Thơm nói dứt khoát:

- Con xin ông cho nghỉ việc, con không thể nào...

Chín Hải ngồi cạnh nãy giờ, đã lên tiếng:

- Hai anh Sáu Nhơn, Tư Thơm chỉ gặp có một hai con yêu tinh, còn tôi mới tợn người hơn. Tôi gặp cả một bầy!

Anh ta đã cố ngăn xúc cảm khi kể lại:

- Sau khi hai người kia không ai còn dám ngủ trên nhà lớn thì cả bọn chúng tôi đều cương quyết không lên ngủ ở đó nữa. Tôi giữ lẩm lúa nên đêm nào nếu không mưa đều trải chiếu ở bộ ván kê gần cửa kho để ngủ cho mát. Ngủ cả tháng rồi đâu có gì xảy ra... Vậy mà hai đêm sau khi Tư Thơm thấy mấy con rắn tinh thì đến lượt tôi. Đêm ấy khi đang ngủ say, chợt trong mơ màng tôi thấy có nhiều bóng người lướt qua bên ngoài mùng. Nghĩ là bọn trộm lúa nên tôi bật dậy, tay chụp cây xà gài cửa định đối phó. Nhưng như có một sức mạnh vô hình nào đó đẩy tôi nằm trở lại. Mắt tôi hướng ra ngoài nên nhìn rất rõ, có đến cả chục bóng người đang đi lại. Họ không hấp tấp, không ra dáng kẻ trộm đạo, mà biết đi nhẹ nhàng, uyển chuyển, dường như là lướt trên mặt đất!

Nhìn kỹ hơn tôi vô cùng kinh ngạc, bởi những người kia là các cô gái. Quần áo họ mặc toàn bằng tơ lụa, đủ sắc, nên lấp lánh dưới ánh trăng đêm.

Tôi định kêu lên nhưng không tài nào mở miệng ra được. Ngoài kia sau một hồi lui tới nhởn nhơ, những bóng con gái ngồi xếp vòng tròn rất trật tự. Chợt từ đâu có một cô gái khác mặc toàn trắng dáng đi thướt tha bước ra.

Dường như đó là đầu lĩnh của các cô gái nên vừa trông thấy tất cả đã đồng loạt cúi mọp đầu xuống vô cùng cung kính. Người áo trắng bước vào ngồi ngay giữa vòng tròn và đảo mắt một vòng như để điểm danh. Sau đó tất cả họ lại im lặng...

Tôi cố vểnh tai nghe ngóng thì phát hiện ra họ đang đọc điều gì đó trong miệng, những tiếng thì thầm nhưng do có nhiều người nên âm thanh phát ra thành tiếng phì phì quái dị! Họ cầu nguyện chăng? Hay là một cách luyện phép? Chẳng thể nào hiểu được. Phải mất hơn mười lăm phút sau thì cái vòng tròn ấy mới tản ra. Các bóng áo hồng áo tím đi về phía tôi. Người mặc áo trắng đi trước như dẫn đường. Tôi cố thét thật lớn, bởi biết các bạn tôi đang ngủ gần đó. Nhưng tiếng thét của tôi chẳng thể nào phát ra được. Tôi lại vùng vẫy...

Trong khi đó các mỹ nhân kia đang tiến rất gần, tôi đành bất lực chờ điều bất hạnh gì đó xảy ra.

- Chín Hải!

Đó là tiếng gọi của một người bạn ngủ gần đó. Và đó chính là cứu tinh của tôi. Sau tiếng gọi, tôi như được giải thoát. Tay chân tôi như được cởi trói và miệng có thể phát ra tiếng kêu.

Lúc đó khi mọi người bu lại hỏi thì tôi chỉ còn đủ sức thuật lại sơ lược câu chuyện đã chứng kiến. Sau đó tôi gần như ngất đi.

Trời sáng, lúc đó tôi và mọi người mới nhìn thấy khắp trong sân có nhiều dấu vết của vật gì đó. Một người sành về rắn đã quả quyết:

- Dấu vết này chính là do nhiều con rắn bò qua bò lại. Cả vài chục con chứ không ít!

- Tới lúc đó tôi vẫn còn cảm giác lạnh xương sống. Tôi rùng mình và bỏ đi. Thề sẽ không bao giờ trở lại ngôi nhà kinh hoàng ấy.

Ông Phủ Hơn lại thở dài...

Người thứ tư, chính là cháu rể của ông, được cử tới để làm tài phú. Anh chàng còn độc thân nên quyết vào ngủ ở nhà lớn, mặc cho lời cảnh báo của nhiều người. Hai Hữu tên của anh chàng, đã cương quyết:

- Tôi chẳng tin chuyện hoang đường. Mấy anh không dám ngủ trong đó, thì tôi sẽ ngủ. Phòng tôi ở chứa nhiều sổ sách nên cấm không ai được tự tiện vô đó cả ngày lẫn đêm.

Nhiều người ngao ngán lắc đầu. Bởi họ biết nếu có nói cũng vô ích đối với anh chàng ngạo mạn này.

Hai Hữu kể lại đầu đuôi cho Phủ Hơn nghe:

- Con vào phòng riêng ngủ, đóng cửa phòng lúc ngủ nên tin chắc là sẽ không thể có chuyện gì xảy ra. Con cũng mang theo con chó vện vốn rất dữ và giỏi phát hiện kẻ xấu, kẻ lạ. Chỉ ngay đêm đầu tiên là con gặp ngay thử thách, khi vào nửa đêm từ trên trần nhà có vật gì đó ngọ nguậy, uốn éo sà xuống thấp ngay nóc mùng của con. Do chuẩn bị từ trước nên con thủ sẵn cây đèn pin lớn, lúc đó con chụp lấy đèn chĩa lên nóc mùng và... có mấy vệt màu tím vụt biến đi rất nhanh, làm cho con không nhận ra đó là gì? Nhưng có một mùi tanh khó chịu còn vương vất đâu đó, con phải mở cửa phòng để xua hôi tanh đi và... chẳng hiểu sao con lại bất tỉnh ngay lúc đó.

Ngừng lại nhìn sang mấy người có mặt ở đó vào đêm xảy ra chuyện. Hai Hữu bảo:

- Anh Năm Tròn kể lại chuyện tiếp theo đi.

Năm Tròn vốn thật thà, ít nói, nhưng khi được khuyến khích, anh sôi nổi hẳn lên:

- Khi sáng lại, thấy mặt trời lên cao mà cậu Hai Hữu chưa dậy, con mới vào để gọi cậu. Thấy cửa phòng mở, còn cậu Hai thì đang nằm im dưới nền nhà. Con hoảng quá vội tri hô lên, khi mọi người chạy vô thì mới phát hiện trên giường của cậu Hai ngủ có 2 bộ da rắn lột, nằm xếp thẳng hàng như nằm ngủ.

Kể tới đây Năm Tròn hơi ngập ngừng, nhìn sang Hữu. Anh chàng này cũng khó nói ra điều gì đó. Phải đợi ông Phủ Hơn lên tiếng:

- Chuyện gì thì cứ nói ra tao nghe, ngại gì?

Lúc này Năm Tròn mới tiếp lời:

- Con nhìn vào quần của cậu Hai thì thấy ở phía giữa của cậu Hai ướt cả...

Phủ Hơn hỏi lại: - Phần giữa là phần nào?

Năm Tròn lúng túng đưa tay chỉ vào chỗ của mình: - Dạ, chỗ này nè...

- Bộ nó sợ quá đái trong quần hả?

Năm Tròn cãi:

- Không phải. Chú Hai bị... bị xuất... cái đó.

Ông Phủ Hơn càng ngạc nhiên hơn:

- Sao lại xuất thứ đó, nó còn độc thân mà?

Lúc này Hai Hữu mới thú nhận: - Con nhớ lại rồi, lúc con bị té ngất đi thì trong mơ màng con thấy có hai cô gái cúi xuống chỗ con. Con không kháng cự được, nên... Hiểu ra. Phủ Hơn than trời:

- Trời ơi, mày điên rồi Hữu ơi! Quan hệ với ma quỷ, yêu tinh này mày biết hậu quả sẽ ra sao không?

Hai Hữu lặng thinh để thấm thía nỗi đau. Bởi sau phút đó anh đã phải nằm bệnh viện tỉnh đến gần một tháng trời để chữa chứng mất sinh lực do bị rút sinh khí quá nặng. Như thế thì đã quá rõ, tất cả bốn người kể trên, từng trường hợp họ đã gặp phải chuyện lạ thường. Nghe họ kể có người bài bác, cho đó là sự hoang đường, tưởng tượng hay mộng mị, ảo giác mà ra...

Người có niềm tin thì lại nghĩ khác. Họ quyết: - Những chuyện như vậy vẫn xảy ra đây đó hằng ngày, có điều người ta không kể lại hoặc không ai ghi chép mà thôi. Với ông Phủ Hơn thì sự việc nghiêm trọng hơn. Nếu không phá vỡ sự kỳ bí này thì coi như cơ ngơi, sản nghiệp của ông sẽ tiêu tan hết bởi hiện nay chẳng còn một gia nhân nào chịu ở lại ngôi nhà mà họ gọi là nhà ma! Cả làng ở đó cũng đồn nhau và không một ai dám bén mảng tới gần. Trong một thời gian dài ngôi nhà ngói bề thế đó bị bỏ hoang.

Cho đến một hôm, lúc đang ngồi xe ngựa từ nhà ở thị xã ra chợ Huyện chợt có một cụ già râu tóc bạc phơ chặn đường Phủ Hơn và nhẹ nhàng bảo:

- Ông đang bị ma ám phải không?

Quá đỗi ngạc nhiên trước một người lạ mà lại biết rõ chuyện của mình. Phủ Hơn vội xuống xe rồi lễ phép thưa: - Thưa bác, quả có chuyện ấy. Chẳng hay bác có cao kiến gì?

Cụ già cười hiền hòa: - Tôi không trị được tà ma, cũng không tin là có ma quỷ trên đời này. Nhưng lúc nãy nhìn thấy ánh mắt lo lắng của ông, cũng như khuôn mặt xạm đi, đoán là ông gặp nạn. Tôi là một nhà bói toán, đồng thời là… thầy thuốc rắn.

Quả là buồn ngủ gặp chiếu manh, Phủ Hơn reo lên: - Vinh hạnh cho tôi quá. Tôi đang ra chợ Huyện để tìm ông thầy rắn Tám Thông, may mà gặp ông.

Cụ già gật đầu:

- Tôi là Tám Thông đây, ông khỏi phải đi tìm.

Mừng quá, Phủ Hơn ôm chầm lấy cụ:

- May cho tôi quá, vậy mời thầy về nhà, tôi trình bày mọi chuyện để thầy giúp cho.

Nhường cho khách lên xe trước, nhưng cụ Tám Thông lại xua tay từ chối:

- Tôi sẽ nói ngay đây, bởi tôi đã nghe và biết hết chuyện ở ngôi nhà ma ở Cà Bây Ngộp của ông.

- Vậy cụ có cách nào?

Cụ Tám Thông nói ngay:

- Tôi sẽ giúp ông. Ngày mai tôi sẽ có mặt ở đó.

Nói xong cụ quay bước đi ngay. Phủ Hơn nói với theo: - Để tôi đưa thầy đi. Và còn tiền công nữa…

Cụ Tám nói mà không nhìn lại: - Xưa nay tôi hành nghề không lấy tiền công và cũng không lệ thuộc ai. Khi nào xong việc tôi sẽ nói chuyện với ông.

Ông già đi nhanh và biến mất sau lũy tre, bí hiểm y như lúc tới...

Việc đầu tiên của cụ Tám Thông là đi quan sát khắp ngôi nhà, ông xem từ ngoài vườn, từ gốc chuối, bụi tre, bờ cỏ xem kỹ những dấu vết xung quanh. Cuối cùng là bên trong ngôi nhà. Ông đưa tay gõ gõ nhiều lần xuống nền nhà lót gạch tàu, ở một góc trong cùng, ông gỡ lên một viên gạch và thốt lên:

- Mọi thứ là ở đây!

Cùng có mặt lúc ấy. Phủ Hơn lên tiếng:

- Nhà tôi mới xây, vậy tại sao lại có một viên gạch tróc lên như vậy?

Thầy Tám cúi sát mặt xuống chỗ viên gạch vừa được bóc ra, ông ngẩng lên bảo:

- Đây là miệng hang và bọn chúng ở bên dưới.

- Bọn nào?

Cụ Tám đáp không cần suy nghĩ: - Lũ rắn.

Phủ Hơn quay sang hỏi mấy người ở giữ nhà:

- Mấy đứa có phát hiện cái hang này không? Thường thì rắn lấy hang chuột làm hang của chúng, nhưng nhà này là nhà mới, đâu có chuột làm hang?

Anh gia nhân không trả lời được, Thầy Tám Thông chợt bảo: - Không phải hang chuột, mà là hang do người tạo nên!

Phủ Nhơn kinh ngạc: - Ai đã đào cái hang này?

Quay sang các gia nhân:

- Có đứa nào làm chuyện này không?

Tất cả đều chối hết. Cụ Tám bảo:

- Không phải họ đâu.

Rồi ông quay sang hỏi Phủ Nhơn: - Lúc xây ngôi nhà này ông có gây thù chuốc oán gì với đám thợ xây hoặc có ai muốn ám hại ông không?

Ông Phủ Hơn bóp trán suy nghĩ, chợt ông kêu lên: - Có! Có một thằng.

Rồi ông kể: - Thằng thầu xây nhà này thiếu nợ tôi một số tiền lớn, trước khi khởi công tôi đã nói là xây xong sẽ trừ hết nợ trong tiền công. Nó phản đối, nhưng cuối cùng nó cũng phải chấp nhận bởi số tiền nó nợ tôi quá lớn và tôi còn dọa nếu không chịu theo điều kiện ấy thì tôi sẽ gọi người khác đến xây. Vì vậy suốt trong thời gian xây nhà thằng đó cứ mặt lớn mặt nhỏ với tôi...

Thầy Tám gật đầu: - Lần này ông Phủ có nghe người ta nói chuyện các nhà thầu, thợ xây ếm chủ nhà bằng cách này hay cách khác chưa?

- Có có nghe nhiều…

Thầy Tám bảo: - Tôi không tin lắm chuyện thư ếm. Nhưng chắc chắn ở đây ông đã bị họ phá bằng cách đào sẵn một cái hố lớn phía dưới nền nhà, sau đó họ tạo điều kiện cho rắn vào sinh nở và phát triển. Trước đây cái hang này bị bịt kín khiến cho lũ rắn nhiều ngày không ra ngoài được, chúng đói và hễ có dịp thoát ra là chúng quậy phá.

- Nhưng chuyện chúng thành tinh, thành ma?

Thầy Tám có vẻ trầm ngâm: - Tôi không tin chuyện ma quỷ. Trong trường hợp này có thể do ảo giác, nhưng biết đâu cũng là chuyện thật... Thôi, bây giờ tôi không nói đến chuyện đó nữa, quan trọng hơn là tìm cách diệt lũ rắn này...

Ông Phủ Hơn mừng quá đỗi: - Ông làm ơn giúp ngay giùm. Tôi cảm ơn lắm lắm...

Thầy Tám Thông bảo mọi người: - Xin ra ngoài hết, chỉ một mình ông Phủ ở lại đây với tôi thôi.

Chờ khi mọi người ra ngoài hết, Thầy Tám lấy ra bốn, năm chiếc bao tải lớn và dặn ông Phủ: - Tôi sẽ bắt rắn cho vào bao, khi bao đầy ông cột chặt lại giùm. Phủ Hơn rùng mình: - Tôi ớn mấy con rắn lắm. Thầy Tám trấn: - Không sao, khi tôi bắt nó ra thì nó như tê liệt thần kinh, không thể làm hại ai cả. Hơi yên tâm, Phủ Hơn cầm bao đứng đợi. Thầy Tám nhắm mắt lại trong giây lát, miệng đọc thầm điều gì đó sau cùng ông lấy một loại nước gì đó màu vàng thoa đều lên hai tay.

Dùng bàn tay trái vỗ vỗ ba cái lên miệng hang, rồi lại dùng tay phải vỗ bảy lần nữa. Bất chợt nghe từ phía dưới có tiếng chuyển động dữ dội như một cuộc rượt đuổi, đánh với nhau. Và sau đó thì là sự im lặng đến ngạc nhiên... Trong lúc Thầy Tám bình thản chờ đợi thì ông Phủ Hơn lại vô cùng căng thẳng, hồi hộp...

Thế rồi, như một phép lạ, con rắn đầu tiên màu xám như ánh bạc từ từ bò ra. Nó bò chậm như mất hết sinh khí. Và Thầy Tám chỉ việc đưa tay tóm ngang cổ nó kéo lên cho vào bao.

Con tiếp theo màu đen tuyền, trên cổ có mấy vằn quấn ngang. Rồi con thứ ba mình vàng có khoan đen, chúng đi thành một cặp, con kia mình đỏ vằn đen. Tất cả chúng đều ngoan ngoãn đến lạ thường, chui vào tay Thầy Tám và vô bao. Ông Phủ Hơn chỉ đứng vịn bao thôi mà mồ hôi đã vã ra từng hồi. Ông nghe lạnh cả sống lưng...

Đến lượt những con rắn đủ màu sắc khác bò ra, theo thứ tự trước sau, thứ bậc, con nhỏ trước con lớn sau. Đếm hơn hai trăm con rồi mà Thầy Tám vẫn còn chờ. Đã có hai bao tải được cột chặt, nhưng lạ một điều là chúng không hề ngọ nguậy, mà nằm im trong đó như đã chết.

Đến con thứ ba trăm. Thầy Tám đếm lớn lên: - Con cuối cùng, con thứ ba trăm. Đây là lũ rắn hội đủ cả trăm loài có mặt ở xứ này!

Thầy vừa định xoa tay đứng lên, chợt há hốc mồm kinh ngạc khi từ trong hang lại một con rắn nữa chui ra. Con này màu trắng như tuyết, lớn nhưng gầy đến trơ xương. Thầy Tám lại đưa tay chụp ngang cổ nó, vuốt nhẹ theo sống lưng như thường lệ để kéo nó ra.

Bỗng Thầy bật ngã ra sau, mặt tái đi, mồm há hốc như vừa gặp điều kinh hoàng nhất! Ông Phủ Hơn nhìn rõ, con rắn màu trắng đó vẫn nằm im, nhưng có một vật gì đó rất nhỏ bám trên lưng nó thì cử động. Nhìn kỹ mới thấy đó là một con rắn rất nhỏ, màu trắng có điểm những chấm đỏ lạ mắt...

- Một con rắn cõng con rắn!

Ông Phủ Hơn kêu lên vừa lùi lại theo phản ứng tự nhiên. Lúc này Thầy Tám mới ngồi dậy. Không nói không rằng ông vỗ vỗ mấy cái cho con rắn trắng bò trở vào. Rồi liền theo đó ông đích thân mở từng bao tải, thả hết lũ rắn trong đó lại. Lúc này lũ rắn dường như bừng tỉnh chúng bò rất nhanh, phát ra tiếng kêu phì phì nghe đến rợn người!

Đến gần nửa giờ sau con rắn cuối cùng mới thoát khỏi bao. Thầy Tám lấy viên gạch đặt lại chỗ cũ và thẩn thờ rời khỏi chỗ ngồi. Ông Phủ Hơn gọi giật lại:

- Thầy Tám! Không lẽ Thầy không bắt chúng?

Tám Thông vẫn chưa hoàn hồn, giọng ông run run: - Mạng tôi còn lớn nên mới không chết bởi con rắn chúa đeo trên lưng con bạch xà.

- Rắn chúa?

Thầy Tám nghiêm giọng: - Nó tuy nhỏ nhưng là chúa của bầy rắn. Nó có thể thành tinh như truyền thuyết, ở đây nó đeo trên lưng con rắn lớn trơ xương kia để rút tinh lực từ con rắn màu trắng để sống. Nó độc đến nỗi chỉ cần một nhát cắn nhẹ có thể giết chết một con voi. Nếu mang tôi đoản thì lúc nãy khi vuốt lưng con bạch xà, con rắn chúa đã cắn tôi. Đó là cái bẫy mà nhiều thầy rắn đã mất mạng!

Nói xong ông quỳ xuống chấp tay lạy ba lạy về phía hang rắn. Sau đó ông bỏ đi thẳng và mất dạng...

Ông Phủ Hơn ngơ ngác đứng nhìn... Mãi một lúc sau ông mới chợt nhớ ra và vụt chạy ra khỏi nhà như bị ma đuổi!

Ngôi nhà từ đó bị bỏ hoang luôn.

Chuyện một đồn mười, mười đồn trăm. Đến nỗi cả những cư dân ở các làng lân cận cũng phải dời nhà đi thật xa. Nghe nói ngôi nhà đó vào lúc chiến tranh đã bị máy bay Pháp dội bom sập hoàn toàn...

 

CON MA NHÀ XÁC

(Tác giả: Người Khăn Trắng)

 

Dựng xong chiếc xe đạp cà tàng của mình vào một góc, Tư Lân lên tiếng ngay với người đồng nghiệp đang chờ để thay ca trực:

- Xin lỗi có hơi trễ, kẹt xe quá trời anh Năm!

Năm Sang, người trực ca ban ngày cười giả lả: - Đâu có sao, bù qua sớt lại mà, sáng mai tôi lại phải nhờ trực lố khoảng nửa tiếng. Bà xã ở nhà bị bệnh.

Ông ta đứng lên gom đồ đạc chuẩn bị về. Trước khi đi, Năm Sang mở sổ ra và dặn:

- Hôm nay có bốn xác mới nhập. Hai nam, hai nữ. Tất cả đều tử nạn giao thông.

Tư Lân ngán ngẫm: - Lúc này sao người ta thích chạy ẩu quá chừng, chết hoài mà cũng chưa ngán!

Năm Sang quay lại nói:

- Ba xác thì đã có người nhà nhận, họ xin ngày mai mang về. Chỉ còn một cô gái trẻ nhất thì chưa có ai đến làm thủ tục.

Nói vậy thôi, Năm Sang giao ca và ra về. Tư Lân liếc nhìn vào cuốn sổ trực, nơi có ghi đầy đủ tên tuổi, giới tính người chết và ngày giờ nhập xác. Trong số bốn cái tên thì đã có ba được đánh dấu bằng bút đỏ, có nghĩa là đã có người đến liên hệ, còn tên thứ tư tên Nguyễn Thị Vân Tú thì còn bỏ trống. Cô này nằm ở bàn số 13 đếm từ ngoài vào, có nghĩa là ở dãy cuối cùng.

Sau khi sắp xếp xong bàn trực, việc đầu tiên của Tư Lân là đi quan sát một vòng. Do là thói quen, cũng là trách nhiệm của một nhân viên gác nhà xác lâu năm như ông. Chỉ cần nhìn qua một lượt là ông ta biết hôm nay trong ca trực của Năm Sang, đã có đến mười xác được nhận về mai táng, cộng thêm bốn xác mới nữa là hai mươi xác tất cả. Nhưng sao...

Tư Lân dừng lại ở bàn số 13 và rất đỗi ngạc nhiên khi không thấy xác cô gái như ghi trong sổ? Điều này hầu như chưa hề xảy ra trong gần mười năm làm nhiệm vụ của ông và Năm Sang. Việc sắp xếp thứ tự các tử thi là việc làm nghiêm túc, đòi hỏi phải chính xác, để tránh nhầm lẫn, giao nhầm xác người này cho thân nhân người kia. Mặc dù trên mỗi xác đã có ghi đầy đủ họ tên, nhưng đã từng xảy xa việc nhầm lẫn như vậy ở vài nhà xác khác.

Đang tần ngần một lúc, Tư Lân chăm chú nhìn tên họ trên từng cái xác và kiểm tra từng bàn một. Cuối cùng ông khựng lại ở bàn số 1, cô gái tên Vân Tú nằm ở đây!

- Chết rồi mà vẫn chạy!

Ông tự nói đùa và lẳng lặng đẩy chiếc bàn, đổi lại cho đúng vị trí của nó. Cẩn thận hơn, ông còn lột số 13 gắn vào bàn cô Vân Tú này, chuyển chiếc bàn số 1 về vị trí cũ.

Tám giờ tối...

Khu nhà xác bệnh viện tuy nằm liền kề với sân rộng của bệnh viện, nhưng luôn vắng, ngoại trừ những khi có người chết nhiều, các khoa chuyển thi hài xuống. Đêm nay có lẽ là đêm bình yên nhất trong vài tháng trở lại đây. Từ bắt đầu ca trực đến giờ chưa có ca nhập xác nào.

Tư Lân chép miệng:

- Cũng có lúc người ta ngại chết chứ!

Mới vừa nói xong thì đã có ngay một ca mới. Xác của một bà cụ tuổi trên tám mươi được đưa từ khoa nội xuống. Người chuyển xác bảo:

- Bà già này chắc phải lưu lại chờ chuyển qua phòng thí nghiệm, xác vô thừa nhận đấy.

Đã quá quen với việc này, nên thủ tục giao và nhận xác diễn ra khá nhanh. Đến 9 giờ thì Tư Lân đã có thể kéo ghế bố ra nằm nghỉ lưng. Công việc của ông thì bất kể giờ, đã trúng ca trực thì dù lúc nào trong suốt đêm người ta cũng sẵn sàng dựng ông dậy. Mà giấc ngủ của những người gác nhà xác như ông ta khác nào cùng chung nhà với những xác chết, những hồn ma!

Lúc đầu khi mới vào nghề thì ông Tư còn hơi sợ, hơi ngại, nhưng lâu dần thì chuyện chung đụng với những cái xác người chết đã là chuyện bình thường, như cơm bữa!

- Anh Tư ơi, có người xin nhận xác!

Tư Lân nhìn đồng hồ đeo tay rồi lầm bầm:

- Sao lại nhận xác vào giờ này không biết!

Tuy bực mình, nhưng nhiệm vụ là phải làm, Tư Lân tiếp một lúc đến ba người. Họ trình đủ giấy tờ để nhận xác và ba chiếc xe chở xác đã đậu sẵn ngay trước cửa. Có những người thích nhận xác thân nhân vào giờ đêm như thế này. Họ có cái lý của họ mà Tư Lân thì phải chu toàn công việc theo trách nhiệm.

Vừa giao xong ba cái xác thì một lần nữa Tư Lân hoảng lên khi xác của cô Vân Tú lại không còn ở chỗ cũ! Bàn số 13 đã trống trơn!

Tìm khắp một vòng quanh gian phòng rộng, Tư Lân điếng hồn khi không thấy xác cô ta đâu!

- Chuyện gì đây trời?

Bao nhiêu năm trong nghề, chưa bao giờ ông ta gặp tình huống này, nên cho dù đầy kinh nghiệm, Tư Lân cũng rối lên, nghĩ là lúc giao xác hồi nãy, có thể đã có sự nhầm lẫn!

Phải rà lại sổ thật kỹ, ba cái xác vừa lấy ra đúng tên, đúng tuổi, đâu có lộn cái nào. Chỉ có thiếu cái xác của Vân Tú thôi! Hay là...

Bước vội qua dãy bàn cuối, chợt chân của Tư Lân vấp phải một vật khá lớn dưới sàn, chới với sắp ngã. Cũng là lúc Tư Lân kêu lên: - Đây rồi!

Xác của cô gái đang nằm dưới sàn!

- Bà ơi, sao bà gây rắc rối cho tôi vậy nè!

Vừa nói Tư Lân vừa bế xốc xác chết lên, bỗng ông ta giật mình khi phát hiện cái xác còn dịu nhiễu, chứ không cứng đờ như hầu hết xác chết trên vài giờ!

Bốc điện thoại nội bộ, Tư Lân gọi ngay cho phòng trực bệnh viện, báo cho họ điều bất thường. Chỉ chưa đầy mười phút sau đã có toán bác sĩ, y tá trực chạy xuống. Họ xác nhận tử thi chưa cứng, nhưng sau khi khám thật kỹ, họ lắc đầu bảo:

- Chết hẳn rồi!

Khi họ ra hết rồi Tư Lân không tài nào ngủ được. Ông kéo ghế bố chắn ngang cửa ra, lại cẩn thận kéo cửa sắt lại, rồi nằm đó, mắt không rời khỏi dãy bàn cuối phòng.

Đêm dần khuya...

Tư Lân thức hẳn đến giờ đó, cứ mười lăm phút ông lại đi một vòng, đặc biệt nhìn vào xác cô gái tên Vân Tú. Lúc 12 giờ thì xác vẫn còn đó...

- Chắc hết sức để đùa rồi phải không!

Tư Lân vừa nói một mình vừa yên tâm nằm xuống...

- Chú Tư ơi, có người đến nhận xác nữa kìa!

Vừa bực vừa mệt, Tư Lân nói vọng ra:

- Qua chín giờ không cho nhận xác nữa, có thông báo rồi, sáng mai đến nhận!

Có nhiều tiếng càu nhàu ở bên ngoài, nhưng chỉ một lúc sau thì không khí im lặng bao trùm...

Trước khi cơn buồn ngủ kéo đến, Tư Lân cũng ráng đứng dậy đi kiểm tra lần nữa. Xác vẫn còn đó, nhưng có điều là thay vì đầu hướng về phía này như mọi cái xác, thì xác cô Vân Tú lại hướng về phía ngược lại!

- Lúc nãy mình đặt đúng hướng mà!

Tuy nói vậy nhưng Tư Lân cũng chưa chắc chắn lắm, nghĩ có thể trong lúc rối mình sơ suất. Nhân tiện ông đưa tay sờ vào cánh tay Vân Tú, bấy giờ xác đã lạnh và cứng, chứ không như lúc nãy!

- Có thế chứ!

Yên tâm hơn, ông trở lại ghế bố. Muốn không buồn ngủ, ông tu một ngụm cà phê đen và tự nhủ, đêm nay sẽ thức trắng thử một đêm xem!

Và ông Tư Lân làm được. Bởi khi đồng hồ trên tường gõ bốn tiếng thì Tư Lân vẫn còn mở mắt, ông ta thở phào:

- Lạy trời!

Bật dậy và đảo qua khắp phòng một lần. Đến bên bàn số 13, Tư Lân hài lòng khi thấy xác cô gái vẫn nằm im.

- Cám ơn cô!

Đêm nay lần đầu tiên bệnh viện không có người nào chết! Tư Lân lẩm bẩm:

- Tội gì không ngủ thêm vài giờ.

Ông ta nằm xuống và cố tìm giấc ngủ với tâm trạng thoải mái...

Năm giờ.

Đồng hồ vừa gõ năm tiếng cũng là lúc Tư Lân chìm sâu vào giấc ngủ. Và cũng là lúc ông ta cảm giác như có ai đó đè lên người mình, suýt nghẹt thở... Tư Lân chỉ ú ớ rồi thôi...

Đúng sáu giờ sáng. Có người gọi ngoài cửa:

- Anh Tư ơi, có người tới nhận xác!

Bật dậy rất nhanh, đó là thói quen của Tư Lân, ông ta trả lời ngay: - Chờ chút!

Trước khi mở cửa, ông không quên nhìn vào bàn số 13 và ông la thất thanh: - Đâu rồi?

Xác của cô Vân Tú đã không còn nằm ở đó nữa.

Tìm và tìm. Hầu như không một ngỏ ngách nào mà ông Tư Lân không lục tung lên. Lần này thật sự là có chuyện!

Cửa vừa mở ra, thay vì nhận giấy lãnh xác, Tư Lân tá hỏa nhận điện thoại gọi cấp cứu!

Lát sau người của bệnh viện xuống tấp nập, hô hào vô cùng ngạc nhiên khi nghe báo cáo mất xác chết. Một bác sĩ hỏi:

- Đêm qua anh Tư có ra ngoài bỏ phòng không?

Tư Lân nói to: - Tôi còn ngủ hẳn bên trong nữa. Chìa khóa cửa sắt tôi nhét ở lưng quần vẫn còn nguyên đây. Trước khi ngủ quên hồi bốn giờ, tôi vẫn còn thấy cái xác đó nằm trên bàn số 13!

- Anh có nhìn lầm không?

- Không thể!

Người ta chỉ còn biết lập biên bản rồi buộc Tư Lân ký tên vào. Xong xuôi bác sĩ còn nói: - Cái xác này không có người nhận. Có lẽ sẽ đỡ rắc rối đây...

Khi đến giờ giao ca trực mà Tư Lân vẫn còn bần thần, khó chịu. Ông không sợ trách nhiệm, mà chỉ lo là xác chết ấy đi đâu, có phải đó là... hồn ma? Chưa từng tin dị đoan, nhưng lúc này Tư Lân cũng phải nghĩ tới điều gì đó không bình thường...

Bảy giờ rời khỏi nhà xác, thay vì về nhà, Tư Lân lại đạp xe một vòng. Không biết là đi đâu, nhưng ít ra lúc này ông cũng cần một phút thư giãn... Qua khỏi một ngã tư, đến đầu một công viên, vừa cua qua góc thì chợt nghe có người gọi mình: - Chú Tư!

Quay lại nhìn không thấy ai, Tư Lân càu nhàu:

- Có lẽ thức khuya quá lỗ tai mình lùng bùng!

Ông ấn thêm bàn đạp thì tiếng kêu lớn hơn:

- Chú Tư!

Người gọi lúc này đã đứng rất gần, nên Tư Lân không còn phải tìm kiếm nữa. Ông vừa định lên tiếng hỏi thì chợt khựng lại, giương mắt nhìn với sự sửng sốt!: - Cô là…

- Cháu là Vân Tú đây!

Đúng là cô gái... tử thi trong bệnh viện!

- Cô... cô...

Là người gan dạ, vậy mà lúc này Tư Lân run rẩy, suýt té xuống xe. Cô gái thì vẫn tiếp tục nói:

- Cám ơn chú đã giữ xác cháu mấy hôm nay!

- Cô...

Lần này thì Tư Lân té xe thật. Ông mất thăng bằng té xuống. Khi dựng được xe đạp lên thì... chẳng còn thấy Vân Tú đâu?

Tư Lân lảo đảo và lần này ông ngất xỉu tại chỗ...

Kể lại chuyện đó cho mọi người nghe, nhưng chẳng một ai tin. Bực mình quá Tư Lân không thèm kể nữa.

Ông thầm vái:

- Nếu cô Vân Tú có linh thiêng thì xin phù hộ tôi.

Một tuần sau mọi người hay tin Tư Lân trúng số độc đắc. Mà lại trúng cặp đặc biệt! Ai hỏi gì thêm ông cũng không nói, chỉ tự nhủ:

- Cô Vân Tú đã báo mộng cho mình trúng số đó! Cám ơn cô...

 

NGƯỜI TÌNH VÀ SỢI DÂY THÒNG LỌNG

(Tác giả: Người Khăn Trắng)

 

Liễu Huệ đứng lấp ló mãi mà vẫn chưa dám gọi trong khi lòng dạ cô nóng ran, không thể chờ được nữa. Bên trong, anh chàng Thanh An đang say sưa giảng bài các học sinh đang chăm chú lắng nghe... Chính điều đó đã khiến cho Huệ không dám lên tiếng.

Chợt An từ trong đưa mắt nhìn ra, Huệ cố gọi vừa đủ nghe: - Cậu An! Cậu...

Thanh An đã nhìn thấy, anh vội chạy ra, tỏ vẻ ngạc nhiên: - Em đi đâu giờ này mà lại ở đây?

Liễu Huệ đưa nhanh cho An cuốn sổ nhỏ:

- Có lời nhắn của cô Trúc Quỳnh trong đó. Và cậu phải mau theo em, kẻo không kịp nữa!

Xưa nay An và Quỳnh vẫn thường liên lạc với nhau qua quyển sổ này, và dĩ nhiên người làm cầu nối là Liễu Huệ. Thấy thái độ của Huệ, Thanh An hiểu là có chuyện hệ trọng, anh hỏi nhanh:

- Chuyện gì vậy, Huệ?

Huệ không đáp, kéo mạnh tay anh lôi đi:

- Đi nhanh kẻo không còn kịp nữa!

An khựng lại: - Làm sao tôi đi được lúc này. Lớp học đang còn...

- Lớp gì cũng bỏ! Nếu không, cậu hối hận không kịp đó.

Huệ vùng bỏ chạy, còn An đang lúng túng chưa biết phải làm sao thì may sao có một thầy giáo khác từ ngoài bước vào, An mừng rỡ:

- Anh Phùng, dạy giùm tôi tiết học sau với. Tôi có việc nhà quá gấp!

Thầy Phùng gật đầu:

- Cũng được. Nhưng ngày mai thầy lại phải bù cho tôi đấy nhé.

Thoát ra được, An phóng nhanh theo Liễu Huệ. Phải hơn nửa đường anh mới bắt kịp.

- Chuyện gì, nói cho tôi nghe đi Huệ?

Huệ càng chạy nhanh hơn, vừa giục:

- Lẹ lên, cái cậu này chậm như rùa!

Thấy không khai thác được gì thêm, Thanh An cố bước nhanh hơn. Lát sau đã tới trước ngôi nhà to nhất vùng: Nhà Đốc phủ Vệ. Từ ngoài, An đã nghe tiếng huyên náo hơi lạ bên trong, nên có ý rụt rè, chưa dám bước vào. Liễu Huệ lại giục:

- Nhanh lên cậu!

Bằng cửa hông, An theo Huệ vào nhà trong. Đây là nhà mà từ gần ba năm qua An đã trọ học, nhưng bởi kiếp ăn nhờ ở đậu, nên lúc nào vào ra anh cũng khép nép. Mặc dù có một người trong nhà này, thân thiết còn hơn ruột thịt.

An nghe tiếng gào lên của bà Phủ:

- Cũng tại ông hết! Ép nó làm gì để bây giờ nó đóng cửa phòng trốn biệt, không ra mà cũng chẳng màng đến ăn uống. Bộ ông muốn hại con mình đến chết hay sao?

Không nghe tiếng ông đáp lại, An hơi yên tâm. Bởi thật lòng mà nói, mỗi khi phải giáp mặt ông là An thấy lo lo. Nhìn thấy An về, bà Phủ như chết đuối vớ được phao:

- Con Quỳnh trong đó. Con gọi nó giùm bác coi!

An chưa hiểu đầu đuôi chuyện ra sao, nhưng cũng gọi to: - Quỳnh ơi! Quỳnh!

Bấy giờ mới có tiếng của ông Phủ Vệ:

- Để đó tao!

Ông ta vốn không có cảm tình với An, ai trong nhà cũng hiểu điều đó, nên vừa nghe ông nói vậy thì cả bà Phủ và Liễu Huệ đều liếc nhìn An, ngầm bảo An lui ra, nhưng trong lòng anh chàng đang sôi lên nỗi lo, nên anh quên sự có mặt của khắc tinh bên cạnh, vẫn cất tiếng gọi: - Quỳnh ơi!

Vẫn không nghe tiếng đáp lại từ bên trong, nên lúc này bà Phủ mới là người sốt vó, bà gào to:

- Tông cửa vào đi!

An chưa dám làm thì đã có tiếng ông Phủ:

- Mấy đứa kia đâu, đạp bung cửa ra!

Có lệnh của ông, hai tên lính vệ dùng hết sức đạp bung cánh cửa gỗ kiên cố. Cửa vừa bật ra thì cùng lúc có mấy tiếng thét kinh hoàng lên:

- Trời ơi!

Trong phòng, xác Trúc Quỳnh treo lơ lửng giữa trần nhà. An là người nhào vô trước, anh chụp lấy chân nàng đỡ lên. Nhưng lúc ấy anh đã cảm nhận được rằng mình tới đã quá trễ. Trúc Quỳnh đã chết!

Bà Phủ như điên loạn, ôm xác con, bà xỉa xói về phía chồng: - Ông là người giết con! Chính ông, ông Phủ Vệ ơi, chỉ vì ông bắt ép nó.

Có lẽ sợ vợ nói ra điều ông không muốn ai biết, nhưng trong lúc này lòng ông cũng đang rối bời, sửng sốt, nên lời ngăn cản chỉ mang tiếng chiếu lệ:

- Chuyện đó mà cũng nói.

Bà Phủ được nước lại càng gào to:

- Tôi nói rồi, chuyện gì cũng để từ từ tính, ông lại quyết liệt bắt ép nó! Cũng chỉ vì bên chỗ khốn nạn đó, nó nói gì cũng nghe, để đến nông nổi này, vừa lòng ông chưa! Ông ở lại đó mà sống, tôi chết theo con tôi.

- Quỳnh ơi!

Thi thể Trúc Quỳnh còn chưa lạnh, chứng tỏ nàng mới tắt thở chưa lâu, lúc này Liễu Huệ mới vừa khóc vừa nói khẽ.

- Em đã giục cậu đi mau lên mà cũng không kịp.

An giờ mới hiểu ra, Liễu Huệ tới gọi anh đi gấp là lúc Trúc Quỳnh đã vào phòng đóng cửa để tránh mặt đám người của nhà đại phú gia họ Đoàn, những người mà ông Phủ Vệ quyết tâm kết làm thông gia, mặc dù Quỳnh nhiều lần cương quyết chối từ. Cách đây mấy hôm, chính Quỳnh đã báo cho An biết tin này và nàng còn quả quyết với anh rằng nếu gia đình ép quá đáng thì nàng sẽ bỏ nhà trốn đi chớ quyết không chấp nhận.

- Ông vừa lòng chưa? Ông đem xác con ông đi mà gả cho họ!

Bà vừa gào vừa lao tới ông Phủ Vệ như muốn xé xác ông ta ra. Tranh thủ lúc đó, Liễu Huệ lại nói khẽ với An:

- Cô Quỳnh còn gửi vật này cho cậu đây.

Đó là chiếc quạt giấy, vật mà trước đây An đã tặng cho nàng. Và đây là vật mà ít khi nào Quỳnh chịu rời ra, ngoại trừ…

Liễu Huệ nói thêm:

- Cô Quỳnh dặn đưa ngay cho anh một lượt với cuốn sổ. Nhưng vì quá vội nên lúc nãy em quên. Không biết cô có ý gì...

An nhìn thấy ở đầu cây quạt có một dòng chữ viết tháo: ''Dù thế nào cũng ở bên em, anh nhé!''

- Quỳnh ơi!

Thì ra đó là những lời trối trăng của nàng. Có nghĩa là Quỳnh biết trước kết cuộc này. Vậy mà An thì vẫn vô tình.

Liễu Huệ đưa sơ đồ địa điểm nhà cho An, vừa dặn: - Chính bà chủ đã dặn em đưa cho cậu. Bà không nói điều này cho ông biết.

Trong tờ sơ đồ vẽ một ngôi nhà nằm trong một điền trang lớn ở một vùng núi khá rộng. Huệ giải thích thêm: - Đây là điền trang riêng của ông bà, cách nơi này khoảng ba mươi dặm. Nơi đó có sẵn một ngôi nhà khang trang, trước đây xây dựng dành để cho gia đình nghỉ dưỡng vào mùa hè, nhưng từ nhiều năm rồi do ông bận việc quan trường nên rất ít về đó. Nửa năm trở lại đây thì ông lại bị đau nặng một bên chân, nên chắc chắn là sẽ không còn cơ hội về nơi ấy. Đường đi hơi khó, nhưng là nơi có khung cảnh bình yên, thơ mộng. Bà quyết định đưa cô Trúc Quỳnh về đó mai táng là có ý để cho cô cậu có điều kiện gần gũi bên nhau, bởi bà biết ý cô và cậu nữa, dẫu âm dương đôi đường nhưng chắc không muốn rời xa nhau!

An cầm tờ sơ đồ lên tay mà chua xót trong lòng. Anh chép miệng: - Sống không cho gần nhau, thì chết rồi còn nghĩa lý gì đâu!

Liễu Huệ là người hầu của Trúc Quỳnh từ hơn chục năm, được cô chủ thương và tin tưởng, mà cả bà Phủ cũng mến, nên cô nàng biết khá nhiều chuyện:

- Cậu không biết chớ đã nhiều lần bà bênh vực cậu quyết liệt, không để cho ông đuổi cậu đi. Bà thương cậu, nhưng trước uy quyền quá lớn của ông nên đành phải bất lực.

Anh đâu còn ai để tâm sự nên phải nói với Huệ:

- Tôi biết chớ. Chỉ vì làm theo lời mẹ tôi dặn lúc lâm chung, nên tôi mới cắn răng tới ở đây để đi học, rồi khi đi ra trường tôi đã có ý đi tìm chỗ trọ khác, nhưng Trúc Quỳnh không cho.

Huệ thêm vào:

- Cô đời nào để cậu đi! Cô Quỳnh đã nhiều lần kể cho em nghe chuyện gia đình cậu và ông bà Phủ hứa với nhau kết thông gia khi cậu và cô Quỳnh lớn lên. Cho đến khi thấy cảnh nhà cậu sa sút thì ông đổi ý, muốn hủy hôn. Chính cái ngày ông Phủ tuyên bố hủy hôn thì đã một lần cô Quỳnh khóc hết nước mắt, đòi bỏ nhà đi, làm cho ông phải cho người canh giữ cô ấy rất kỹ. Lần đó là lúc cậu gần thi tốt nghiệp, cậu nhớ không?

An gật đầu: - Đó là lần ông ấy đuổi tôi ra khỏi nhà. Cũng nhờ bà Phủ ngăn lại và cũng vì lo cho Quỳnh nên tôi bấm bụng, chịu nhục ở lại đây...

Vừa giúp An chuẩn bị hành lý, Huệ lại dặn:

- Bà dặn em đừng để cho ông biết chuyện này. Hình như ông cũng không thích cậu dính líu bất cứ chuyện gì trong nhà này. Mà này, cậu...

Liễu Huệ định hỏi gì đó thì vừa lúc có tiếng quát tháo của Phủ Vệ bên ngoài, nên cô ngưng ngay, vừa đi ra vừa dặn:

- Khi nào sửa soạn xong cậu cứ đem đồ ra bờ sông, có chiếc ghe nhỏ đợi sẵn ở đó, chừng hai mươi phút sau thì em sẽ ra tới. Em đích thân đưa cậu đi.

An ái ngại: - Đường xa, cô đi đâu có tiện?

Huệ cười: - Đâu có sao. Em vốn là dân sông nước, lại quen địa hình vùng này như lòng bàn tay, cậu An không phải lo.

An vừa hồi hộp, vừa mừng vui. Bởi đây là lần đầu tiên sau hơn một tháng anh mới có dịp tới chỗ chôn cất Trúc Quỳnh. Hôm di quan Quỳnh đi, chẳng hiểu có ý gì mà Phủ Vệ đã quyết liệt ngăn cản không cho An đi theo. An đã tính liều mạng chống lại quyết định ấy, nhưng bà Phủ đã ngầm bảo An cố chịu đựng, và hôm nay An mới hiểu ý của bà mẹ tốt bụng đó. Bà đã ngầm bố trí cho An chuyển tới sống hẳn ở điền trang, và như thế là bất cứ phút giây nào anh cũng ở bên cạnh Quỳnh mà chẳng làm phiền lòng ai. Cũng chính bà đã ngầm vận động cho An chuyển về dạy ở ngôi trường gần điền trang, để anh không phải vất vả đi về trường cũ quá xa xôi. Dẫu sao thì An cũng cảm ơn và được an ủi là trong gia đình Phủ Vệ vẫn còn có những người không tệ bạc.

- Cậu An ơi!

Nghe tiếng gọi khẽ của Liễu Huệ ngoài cửa sổ, An bước ra và hiểu là có chuyện, An hỏi nhanh:

- Có gì trục trặc chăng?

Huệ đưa một gói giấy nhỏ, bảo:

- Ai gửi cái này cho cậu mà để ở ngoài cửa phòng, em sợ ông thấy nên cầm ra đây cho cậu, vừa tiện báo cho cậu nên đi ra ngay, trong lúc ông đang có khách ở nhà trên.

An cầm gói giấy dán kín trên tay ngạc nhiên hỏi:

- Cái này của ai vậy?

Huệ gấp rút chạy đi trước, An đành phải xách va li chạy theo mà vẫn còn thắc mắc về vật cầm trên tay.

Mãi đến khi ghe đã rời bến rồi, anh mới hỏi:

- Cô nói ai gửi cho tôi cái này?

- Em không biết, hỏi bà thì bà cũng không biết. Cậu mở ra xem là cái gì?

An nhẹ tay mở ra và kinh ngạc: - Cái áo cánh lụa màu vàng này là của... của Trúc Quỳnh.

Liễu Huệ xác nhận:

- Đúng là của cô Quỳnh! Nhưng lạ quá cậu An...

Huệ ngừng tay chèo, cầm lấy chiếc áo lụa nhìn kỹ: - Chính tay em giúp bà mặc chiếc áo này cho cô Quỳnh hôm tẩm liệm cô ấy, mà sao bây giờ nó lại ở đây?

An run lên vì xúc động: - Đúng là áo của Quỳnh rồi. Nó có hơi của cô ấy đây.

Liễu Huệ đưa trả chiếc áo lụa cho An vừa lẩm bẩm: - Không lẽ...

An hỏi lại: - Cô vừa nói gì?

- Dạ... không có gì.

Thật ra Huệ đang nghĩ đến điều mà cô cảm thấy nổi gai ốc cả người. Vốn người rất nhạy cảm, nên Huệ có lẽ cảm nhận được điều lạ trước hơn An. Cô lén nhìn An, đưa mắt dò xét... Thấy An ngây người ra, cô im lặng để không phá vỡ dòng suy tư của anh. Mãi khi ghe tới ngay một khúc sông rộng thì Huệ nhắc:

- Cậu An có nhớ lần mình đi về quê ngoại cô Quỳnh không? Khi đi ngang qua đây, cô Quỳnh đã đố cậu cái cây gie ra sông kia là cây gì, khi cậu trả lời đúng tên thì cô ấy giận cậu.

An cười gượng:

- Nhớ chớ. Đó là cây bần. Khi tôi nói tên cây và ví nó như mình thì Quỳnh giận ra mặt, cấm không cho tôi nói như vậy nữa. Mà cũng lạ, tôi nghèo, ví mình như cái cây mọc bơ vơ ven sông đó, sao Quỳnh lại cho tôi yếm thế, mỉa mai.

Liễu Huệ vẫn còn bênh cô chủ mình:

- Lúc nào cô cũng không muốn cậu mang mặc cảm giàu nghèo. Bởi dưới mắt cô, cậu đâu phải thầy giáo nghèo, đâu phải là người bị rẻ rúng.

An nhẹ lắc đầu:

- Thực tế là vậy rồi, chối bỏ làm gì!

Thấy An không vui, Liễu Huệ thôi không nói chuyện đó nữa, cô chuyển sang chuyện khác:

- Em hỏi thật liệu về sống ở điền trang này cậu chịu được bao lâu?

- Sống mãi ở đó.

- Đấy là cậu nói đó nhé! Không ai ép...

An sa sầm ngay nét mặt:

- Từ Iâu nay cô Huệ biết tính tôi. Đâu bao giờ tôi đùa giỡn với tình cảm dành cho Quỳnh. Xin cô tôn trọng cho.

Liễu Huệ hoảng hốt:

- Dạ không, em không có ý đó! Xin cậu...

An nghiêm giọng:

- Tôi sẽ ở với Quỳnh, kể cả khi cha mẹ cô ấy không cho nữa thì tôi vẫn tìm cách ở lại điền trang đó. Làm người quét lá, dọn vườn cũng được!

Huệ pha trò cho nhẹ bầu không khí:

- Em đang tính xin với ông bà về điền trang để ngày ngày được hầu hạ cô Quỳnh như khi cô còn sống, vậy chắc là không có việc làm rồi! Cậu An giành mất còn đâu!

An mải lý sự mà quên chiếc áo cánh còn trong tay, khi nhớ ra, anh đột nhiên hỏi: - Huệ nhớ lại xem, có phải chiếc áo này đã cho vào áo quan?

Huệ gật đầu quả quyết: - Chính tay em đưa cho bà và bà bảo em đặt lên ngực của cô Quỳnh, bởi khi sống cô ấy thích chiếc áo màu vàng này nhất, trong số bốn năm chiếc khác màu. Chẳng biết lý do gì… Em không thể lầm!

An muốn tiết lộ chính anh là người đã mua tặng cho Quỳnh chiếc áo này, và cũng là chiếc áo mà cô nàng luôn mặc mỗi sáng khi đứng nép bên rào tiễn anh đi dạy học.

- Thưa cậu...

Liễu Huệ định nói gì đó, nhưng lúc ấy An đang thẫn thờ đưa mắt nhìn ra xa, nên cô chỉ nhẹ thở dài im lặng...

Đến xế trưa hôm đó thì họ tới nơi. Khu điền trang này An mới đến lần đầu, nên khi vừa bước lên bờ, anh đã hỏi: - Mộ của Quỳnh chôn ở đâu?

- Ngay cạnh ngôi nhà kia. Tuy nhiên vừa đi đường xa đến, cậu không nên ra mộ ngay. Vả lại cậu còn ở đây lâu dài mà, lo gì...

An rất nôn nóng muốn gặp lại người yêu, nên mặc cho Huệ nói, anh hấp tấp đưa hành lý vào nhà rồi bảo Huệ:

- Cô giúp tôi thu xếp chỗ. Tôi ra ngoài một chút.

Không cần hỏi thêm, An bước đi như chạy, nhầm hướng sau nhà. Và anh tìm được khu nghĩa trang gia đình, gồm bốn ngôi mộ nằm quây quần nhau. Trong số đó, mộ của Trúc Quỳnh mới xây nổi bật giữa thảm cỏ xanh rì.

Hôm đi an táng Quỳnh, An bị cấm không cho theo, nhưng sao lạ quá, trên mộ bia của nàng có đôi dòng chữ màu đỏ được viết khác hẳn với những chữ chạm khắc thông thường. Mà những chữ này lại chính là câu thơ của chính An tặng cho Quỳnh cách nay đã lâu! Chẳng lẽ cha mẹ Quỳnh cho viết lên đây?

An đưa tay sờ lên hai dòng chữ thì... từng chữ một dính theo tay anh xóa mất mấy chữ.

- Không!

An rụt tay về và cảm giác như tay mình buốt lạnh, và màu đỏ kia chẳng khác màu máu!

- Có ai đó vừa viết những chữ này?

An chưa biết hỏi ai thì đã có giọng của Liễu Huệ:

- Đã nói rồi, cậu chưa khoẻ mà...

An quay lại hỏi ngay:

- Ai đã viết những dòng này lên bia?

Huệ ngạc nhiên: - Chữ nào?

An quay lại chỉ, dòng chữ bị ngón tay anh xóa vừa rồi đã... hiện trở lại như trước đó, không thiếu một nét! Không tin vào mắt mình, anh ghé sát mắt vào nhìn, vừa định gí tay vào lần nữa, nhưng lại sợ chữ bị biến đi.

Huệ thấy lạ liền hỏi: - Chuyện gì vậy cậu An?

- Cô có biết ai viết hai dòng chữ màu đỏ này lên bia không?

Liễu Huệ bước đến gần xem kỹ, rồi lắc đầu:

- Hôm dựng bia có mặt em, đâu có thấy những dòng này đâu.

Cô vô tình đưa tay chạm vào và rụt ngay tay về, kêu lên: - Lạnh quá!

Huệ có cảm giác lạnh buốt cả đầu ngón tay. Vừa lúc An la lên: - Cô đừng chạm vào đó!

Lần này những dòng chữ cũng bị xóa đi ngay chỗ Huệ vừa chạm vào. Tuy nhiên màu đỏ không bám theo tay của Huệ, mà chảy dài xuống mặt đá phẳng bóng. Chẳng khác gì những giọt máu đang tuôn trào!

Trong lúc An lặng người đi thì Huệ bỗng hốt hoảng, lùi lại:

- Cậu An!

An ra dấu cho Huệ đứng yên, còn anh thì lại đặt tay vào đúng chỗ những chữ vừa mất. Như một điều kỳ diệu, dòng chữ lại y nguyên như trước! An nói, như chỉ muốn mình Quỳnh nghe:

- Anh hiểu rồi, bây giờ anh đã có mặt và mãi mãi sẽ ở bên em!

Anh quay lại bảo Huệ: - Cô có thể về được rồi đó. Tôi sẽ ở lại đây, không cần phải làm quen chỗ đâu.

- Nhưng bà Phủ dặn em là phải chờ cho cậu sắp xếp mọi việc xong rồi mới về, nhất là việc dẫn cậu đến trường học gần đây để cậu nhận việc đã.

An trấn an:

- Không sao đâu. Tôi tự lo liệu được.

Liễu Huệ vẫn không chịu: - Vậy thì cậu cũng phải vào nhà để em dặn mấy điều quan trọng này. Bà sẽ rất buồn nếu cậu không làm theo.

Dẫu đang rất muốn một mình ở lại bên mộ, nhưng nghe vậy, An đành miễn cưỡng đứng lên theo vào nhà. Căn phòng chính trong nhà dành riêng cho An, cửa vẫn khóa. Huệ bảo:

- Bà dặn khi tới đây phải chính cậu với lên trên cao lấy chìa khóa phòng. Ở trên đầu hồi, em không với tới được.

An rất khó khăn mới lấy được xâu chìa khoá bám đầy bụi, chứng tỏ từ lúc để đến giờ chưa một lần lấy xuống. Huệ dặn: - Cậu mở cửa phòng rồi đưa hành lý vào, để em đi làm mấy món ăn cho bữa cơm chiều giúp cậu rồi về cũng không muộn.

An vừa đẩy cửa phòng vào đã khá ngạc nhiên thấy trên giường ngủ chăn, nệm, gối được xếp ngay ngắn, gọn gàng và còn có mùi hương nhẹ thoảng khắp cả phòng. Dấu hiệu căn phòng mới chớ không phải bỏ lâu ngày!

Bật diêm tìm cây đèn dầu hay nến, nhưng vừa khi ấy tự dưng toàn gian phòng sáng trưng. Bóng đèn điện đang cháy khiến An ngỡ ngàng. Anh không nghĩ chốn sơn trang này lại có đủ tiện nghi thế này. Nhưng ai đã bật điện, trong khi anh chưa hề chạm vào công tắc điện?

Nhìn một lượt khắp gian phòng An càng ngạc nhiên hơn, bởi bốn bên tường đều có treo những bức thư pháp toàn những câu thơ của An và Quỳnh. Kể cả những đoạn hai người viết cho nhau một cách kín đáo cũng được chép lại ở đây. Mà chữ thì rõ ràng là của chính Trúc Quỳnh!

- Sao lại thế này?

An còn đang hoang mang thì đã nghe tiếng la thất thanh của Liễu Huệ: - Cậu An ơi, ra xem nè!

An chưa kịp bước ra thì Huệ đã đứng bên ngoài cửa phòng, sắc mặt hớt hải:

- Ai... ai đã... dọn cơm sẵn rồi.

An bước xuống nhà bếp, anh nhìn thấy trên bàn ăn một mâm cơm còn bốc khói, ai đó đã dọn sẵn.

- Cô làm phải không Huệ?

Liễu Huệ giọng vẫn còn run:

- Em mới xuống là đã nhìn thấy rồi.

Nhìn kỹ hơn, An nhận ra toàn những món ăn khoái khẩu của mình. Tuy chưa một ngày chung sống với nhau, nhưng ngoài Quỳnh ra thì chưa một ai rành sở thích của An như vậy. Bởi đã đôi lần Quỳnh hỏi An thích ăn gì, mặn lạt ra sao. Quỳnh bảo phải biết rõ sở thích của anh, để sau này thành vợ chồng còn biết đường mà phục vụ. Đứng im một lúc, An lẩm bẩm:

- Chính Quỳnh đã làm chuyện này.

Nghe không rõ, Liễu Huệ hỏi lại:

- Cậu An nói sao?

An nhẹ lắc đầu: - Không có gì.

Trong lòng An đang lóe lên một điều gì mà ngay lúc đó anh cười một mình. Ngại Huệ hỏi thêm lôi thôi, An mời:

- Huệ cùng tôi ăn bữa cơm này rồi về kẻo muộn.

Chẳng biết ai nấu, nhưng chắc là ai đó có ý tốt, nên mình cũng chẳng ngại.

Liễu Huệ tìm cách về ngay: - Thôi, để em về cho kịp con nước xuôi dễ đi. Cậu cứ ăn đi.

Khi Huệ ra tới ngoài rồi, An chợt nhớ nên chạy theo dặn: - Cô chớ nên kể cho ai nghe những gì thấy nãy giờ. Kể cả với bà Phủ.

- Nhưng bà có lòng với cậu mà!

An phải giải thích: - Biết là vậy. Nhưng chuyện hôm nay còn chưa rõ ràng, nói e bà sẽ lo lắng. Để vài hôm tôi theo dõi kỹ rồi sẽ báo sau.

Huệ vốn tính thật thà, cô hứa liền: - Cậu An không phải lo, em lúc nào cũng kín miệng. Miễn sao cậu sống được yên ổn là tốt rồi. Thôi, em về đây.

An ra bờ sông đứng, chờ cho Huệ đi thật xa rồi mới quay vào nhà. Chỉ còn lại một mình, lúc này An mới ngửa mặt lên trời nói thật to:

- Trúc Quỳnh của anh! Đừng hù doạ anh nữa!

Mặc cho An la, gào, bốn bề chung quanh anh vẫn lặng như tờ. Trời bên ngoài bắt đầu tối...

 

NGÔI MỘ TÌNH

(Tác giả: Người Khăn Trắng)

 

An được trường phân công dạy lớp Đệ Tam và Đệ Nhị. Đây là lớp học mà học sinh đều ở tuổi lớn, sắp trưởng thành, nên với một thầy giáo trẻ như An rất khó khi đứng lớp. Biết anh là giáo viên mới chuyển tới, nên hầu hết học sinh lớp Đệ Nhị đều cứ nhìn thầy mà mỉm cười.

Đặc biệt là các nữ sinh. Suốt trong buổi dạy đầu, An cố gắng nói cười vừa phải, nhưng cũng không quá nghiêm, bởi anh cũng muốn lấy cảm tình với đám học sinh mới của mình. Lúc ra về, anh đi bộ ra chỗ bến xe thổ mộ, khi vừa leo lên xe thì một chị buôn gánh bước lên sau đã nhắc An:

- Cậu có cái gì dính sau quần kìa!

An đưa tay gỡ và nhìn vào tờ giấy cỡ bàn tay có dòng chữ viết khá nắn nót nét đẹp của con gái: “Thầy đẹp trai quá, thầy An ơi!''

Đoán là cô nữ sinh nào đó trong lớp phá mình, An không bực mình, chỉ nhẹ mỉm cười. Anh định vứt mảnh giấy xuống đường, nhưng thấy mọi người trên xe đang nhìn mình, nên An vội nhét đại vào túi quần, định về nhà sẽ vứt đi.

Từ trường về điền trang cũng khá xa, lại phải qua đò, nên phải hơn nửa giờ sau An mới về tới nhà. Thường thì anh phải tự lo bữa ăn, nếu hôm nào về trễ. Cái lạ là ở chỗ này: Lúc nào An dạy về đúng giờ thì có một mâm cơm dọn sẵn. Còn về trễ thì chẳng thấy! Vài lần An thắc mắc, nhưng sau đó thì anh hiểu: Về trễ là bị phạt!

Như hôm nay, chẳng có mâm cơm, trái lại trên bàn ăn còn có một cái chén không và đôi đũa nằm chỏng chơ.

Như thường lệ, An nói rất khẽ: - Anh xin lỗi.

An lại đi nhóm lửa, nấu cơm và ăn qua loa. Tối đó anh có nhiều bài phải chấm điểm, nên anh phải thức khá khuya. Và cũng như những đêm trước, ngồi làm việc thỉnh thoảng anh lại nhìn qua cửa sổ để chờ đợi... Cái mà anh chờ là một đóa hoa tươi, chẳng biết từ đâu mà luôn rơi đúng trước mặt An khi anh ngồi trên bàn. Chẳng cần nghĩ ngợi xa xôi, An cứ cho tác giả của hành động đó là... Trúc Quỳnh.

An thường hướng ra mộ mỗi khi nhận được hoa và luôn khấn: - Em hãy yên nghỉ. Anh luôn chờ em! Những lúc như vậy, An luôn có cảm giác như một bên má của mình được ai đó hôn phớt qua.

Tối nay, An đợi khá lâu mà chưa thấy bông hoa bay qua cửa sổ, rơi lên trang vở. Anh thầm nghĩ chắc là nàng giận...

Và có lẽ quá mệt, nên trong lúc chấm bài An đã gục xuống ngủ ngon lành. Đến khi choàng tỉnh, anh càu nhàu:

- Lại gục rồi..

Chợt An nhìn thấy đóa hoa tươi nằm đó. Và ngoài ra, anh còn phát hiện trên trang vở còn có một dấu chân rất lạ. Không phải dấu chân người, mà giống như Chân một con vật.

Điều này lần đầu An nhận ra, anh giật mình tự hỏi: - Con vật gì lại vào đây?

Dấu chân lớn hơn chân mèo, cũng lớn hơn chân của những con chó thông thường... Mà ở vùng này ngoài những con vật đó ra đâu còn loài nào nữa. Chồn cáo thì chân cũng cỡ chân chó. Chỉ có cọp, beo? Nhưng từ ngày về đây ở đến nay đã mấy tháng rồi, An có nghe ai nói chốn này có những loài mãnh thú đó. Mà ví dụ có thì lúc anh ngủ, một khi chúng đã vào đây rồi thì mạng sống của anh làm sao còn giữ được! Dấu chân còn khá mới, lại hơi ươn ướt, chứng tỏ bên ngoài sương đêm đã khá nhiều...

Hơi rờn rợn người nên An xếp sách, đóng cửa sổ và đi nghỉ. Anh cứ thắc mắc mãi chuyện lạ đó cho đến khi ngủ say trở lại.

Sáng dậy, việc đầu tiên của An là đi ngay ra mộ người yêu làm cái việc mà gần ba tháng nay sáng nào anh cũng làm là đốt nén nhang cắm trước đầu mộ, nhìn nhang cháy đến gần phân nửa mới vào sửa soạn đi dạy.

Hôm nay vừa ra tới nơi, anh đã ngạc nhiên khi nhìn thấy ngay ở đầu mộ có một mảnh giấy nhỏ, trông quen quen. Anh chụp vội đưa lên xem thì lại càng ngạc nhiên hơn, bởi đó chính là mảnh giấy mà các nữ sinh viết chọc phá anh!

- Mình bỏ nó trong túi mà...

Vừa lẩm bẩm, An vừa cho tay vào túi quần thì không còn gặp. Anh lại ngẩn ngơ hồi lâu. Chẳng lẽ Trúc Quỳnh lấy đưa ra đây.

Thay vì chỉ chờ nhang cháy nửa cây là An đi dạy như thường khi. Bữa nay anh mắc lo suy nghĩ chuyện khó hiểu kia, nên đến khi nhang tàn anh mới chợt nhớ, hốt hoảng chạy vào sửa soạn vội rồi đi thật nhanh cho kịp giờ.

Vào lớp trễ gần mười phút, Cũng may, An không bị Ban giám hiệu phát hiện và đám học sinh cũng ngoan ngoãn ngồi yên trong lớp đợi thầy.

Điều làm An ngạc nhiên hơn là thấy một nữ sinh đang đứng cạnh bàn, trong tư thế khoanh tay. Mặt cô bé đỏ bừng, nước mắt ràn rụa.

- Ủa, em bị sao vậy?

Cô bé nói trong sợ sệt:

- Em xin lỗi thầy. Chính em…

Cô ta ngập ngừng mãi khiến An phải nhìn xuống lớp hỏi: - Thanh Thủy có chuyện gì vậy mấy em?

Có một bạn nữ đứng lên thưa?

- Dạ thưa thầy, lúc nãy Thủy cùng đi với em tới trường, bỗng dọc đường nó lảo đảo như bị ai đó xô.

Sau đó, nó ôm lấy mặt kêu oai oái! Em chẳng biết chuyện gì, nhưng khi nhìn lại thì thấy hai bên má nó đã sưng vù!

- Bị ai đánh?

An hỏi và nhìn Thủy. Cô bé lắc đầu:

- Dạ, em cũng không biết.

Bạn kia nói thêm: - Lúc ấy chỉ có hai chúng em, không có ai khác cả!

An hỏi lại: - Vậy em xin lỗi thầy mà lỗi gì?

Thủy ngập ngừng một lúc nữa rồi mới nói được: - Dạ... hôm qua em đã… thất lễ với thầy, em viết...

- Viết mà viết cái gì?

Ở dưới lớp, nhiều học sinh la to:

- Dạ, bạn ấy viết rồi gắn phía sau túi quần của thầy. Chợt nhớ ra mảnh giấy, An trố mắt:

- Em là tác giả?

Thanh Thủy sợ điếng hồn, bởi nghĩ thầy nổi giận:

- Dạ. Em biết lỗi. Em xin thầy tha cho.

An kịp bình tĩnh, anh nhẹ giọng bảo:

- Thôi không sao, em về chỗ ngồi đi.

Anh hướng về lớp:

- Các em im lặng và chúng ta bắt đầu tiết học. Thầy cũng xin lỗi vì đi trễ gần mười phút.

Buổi đứng lớp hôm đó chính An cũng có cảm giác bất an. Cũng chẳng biết là điều gì. Đứng trên bục giảng mà thỉnh thoảng anh như nhột nhạt sau gáy. Lúc bất chợt nhìn lại thì lần nào An cũng thấy ánh mắt cô nữ sinh Thanh Thủy nhìn mình. Cô bé vội cúi gằm mặt tránh đi.

Trong giờ ra chơi buổi học chiều, thầy giám thị tới phòng giáo viên báo cho An biết có một học sinh bị choáng vừa được đưa đi cấp cứu. Khi hỏi ra thì đó chính là Thanh Thủy. Hỏi các bạn thân của cô bé thì An được họ cung cấp thêm thông tin:

- Thầy không biết chớ Thanh Thủy lớn hơn bọn em đến hai tuổi. Bạn ấy là con nhà giàu, đáng lý ra đã nghỉ học hồi năm rồi để lấy chồng theo ý của cha mẹ, nhưng Thủy từ chối, quyết phải học cho hết năm Tú tài rồi mới thôi. Bạn ấy hiền và dễ thương nên trong lớp ai cũng mến. Hồi sáng khi chuyện xảy ra chính Thủy cũng không ngờ. Giờ ra chơi sáng, Thủy mới nói riêng với em là chẳng hiểu sao từ lúc đó trở đi, bên tai Thủy lúc nào cũng như có tiếng nói của ai đó khiến cho Thủy bất an và sinh bệnh.

An tính hết giờ sẽ đi thăm cô học trò, nhưng khi tan học thì bạn bè Thủy báo tin rằng cô bé đã được người nhà đón về.

An dặn các học trò:

- Sáng mai nếu Thủy vẫn chưa đi học thì em nào biết nhà dẫn thầy đi thăm Thủy nhé.

Anh ra về với lòng nặng trĩu về cô học trò. Chuyện Thủy bị những hiện tượng lạ khiến An ngờ ngợ điều gì đó. Mà chính xác là điều gì thì An cũng không rõ...Vừa về đến nhà, việc đầu tiên là An đi thẳng ra mộ của Trúc Quỳnh.

- Thanh Thủy!

An sững lại, kinh ngạc khi thấy người đang phủ phục trước mộ là... Thanh Thủy.

Cô gái chừng như không nhìn thấy An, vẫn quỳ và chắp tay, mắt nhắm nghiền.

An lại gọi:

- Thanh Thủy! Sao em...

Chợt một cơn gió rất mạnh thổi tung bụi mịt mù, khiến An phải bịt mắt mũi lại. Đến khi nghe hết gió, mở mắt ra anh vô cùng ngạc nhiên khi không còn thấy cô gái đâu nữa.

- Thanh Thủy!

An gọi to và quay bốn hướng tìm kiếm. Chẳng thấy bóng dáng cô ta đâu. Vừa định bước đi xa hơn để tìm, thì một chân của An vướng vào một cục đá, ngã nhoài về phía trước. Vô tình mặt An gần như chạm vào chỗ để đồ cúng trước ngôi mộ. Và... anh lại thấy một mảnh giấy khác, nức mùi hương quen thuộc. Hương của Trúc Quỳnh!

Cầm mảnh giấy lên, An giật mình đọc: “Có còn thương em không? Nếu hết thì đi theo hướng Tây, ắt sẽ gặp được người con gái khác và đó là lương duyên của anh. Còn bằng không thì trở vào nhà ngủ một giấc cho đến sáng mai, khi thức dậy ắt sẽ biết phải làm gì.

Đừng thắc mắc uổng công. Trúc Quỳnh".

An vui quá, không kiềm chế được, anh ôm mộ bia và kêu lên: - Quỳnh ơi!

Mảnh giấy theo gió cuốn tung lên rồi biến mất. Vẫn muốn lưu lại đó thêm, nhưng hình như Quỳnh không muốn, nên trong phút chốc chung quanh ngôi mộ đã đầy những cành lá, bụi bặm, không có một chỗ trống nào để ngồi. An đành thất thểu bước về nhà.

Đêm đó, An biết chắc là mình sẽ chẳng thể nào an giấc được. Tuy nhiên, rất lạ vì chỉ vừa nằm xuống là An đã ngủ say...

Lúc An tỉnh dậy, anh nhìn thấy ngay dòng chữ bằng phấn viết trên tấm bảng treo ở tường: “Đến ngay làng Đông Hà, ấp Hạ, tìm nhà ông bá hộ Sang. Đến ngay kẻo không kịp''.

Dưới dòng chữ không ký tên. Nhưng giọng văn và nét chữ An đã biết là của Trúc Quỳnh! Đêm đó, trong phòng còn vương lại hương thơm quen thuộc... An định không nghe theo, nhưng chẳng hiểu sao như có ai thúc giục, khiến anh phải thay quần áo và đi ngay. Cũng may hôm ấy là ngày nghỉ cuối tuần.

Chưa quen vùng này, nhưng An cũng không khó để tìm ra xã Đông Hà. Đó là xã giáp ranh với nơi An đang dạy học. Khi anh hỏi thăm nhà bá hộ Sang thì ai cũng biết. Họ chỉ ngay: - Cậu đi tới chỗ đầu cầu đúc, nhìn thấy ngôi nhà ngói lớn nhất thì chính là nhà ông ta. Bộ cậu đi đám ma hả?

An ngạc nhiên, chùng bước:

- Nhà đó có đám ma sao? Vậy thì...

Người nọ nói thêm: - Khách đến viếng đông lắm rồi. Cậu tới là vừa đó. Tội nghiệp con nhỏ, mới lấy chồng mà đã yểu mạng.

Nghĩ mình là người lạ, tới trong lúc nhà họ có ma chay e không tiện, nên sau khi chào cám ơn người nọ, anh định bước tháo lui, thì chợt có tiếng gọi:

- Thưa thầy!

An nhìn lại thì thấy ba cô cậu học trò của lớp Đệ Nhị của mình đang đi tới, trên tay cầm vòng hoa tang.

Bọn chúng reo lên: - May quá, có thầy cùng đi thì tụi em đỡ lúng túng. Đi nhanh lên thầy.

An lưỡng lự:

- Nhưng mà... đám tang nhà ai?

Một cô bé tên Lan nói ngay:

- Đến nơi thầy sẽ ngạc nhiên! Đi nhanh lên thầy!

Cô bé tên Sương thì nói:

- Nhà bá hộ Sang chớ nhà ai! Vả lại nhà con...

Cậu học sinh còn lại chặn lời:

- Đừng nói. Để tới nơi thầy sẽ ngạc nhiên!

Thấy mấy cô cậu học trò cứ úp mở, An định hỏi thêm thì chúng đã kéo tay anh đi. Từ chỗ đó tới cầu đúc không xa, nên chỉ năm phút sau là họ đã đến. Cô bé tên Lan liến thoắng:

- Có thầy tới nó mừng lắm!

- Ai mừng?

- Ủa, vậy ra trước khi tới đây thầy chưa biết đám tang nhà ai sao?

An lắc đầu: - Không?

- Nhà của...

Cậu nam sinh lại chặn lời:

- Để chút nữa thầy sẽ biết!

Vừa khi ấy từ trong nhà có một người chạy ra, mừng: - Thầy ơi, thầy cứu chị con!

An sững sờ khi thấy người đó là Thanh Thủy. Anh ngơ ngác: - Em... tại sao em ở đây?

Lan nói nhanh:

- Đây là nhà của nó mà thầy! Hôm nay...

Thủy không e ngại nữa, cô chụp tay An lôi đi nhanh vào nhà:

- Thầy vào mau đi!

Lúc thấy An bước vào thì một người phụ nữ lớn tuổi hỏi ngay: - Ai đây con?

Thủy đáp liền:

- Thầy An đó má! Thầy giáo mà suốt đêm rồi chị Hai con trong lúc mê sảng đã gọi tên!

Bà bá hộ Sang cũng reo lên:

- Cậu tới đây giúp con gái tôi với!

Lúc ấy, có giọng người đàn ông:

- Giúp cái gì nữa khi xác con Hai đã lạnh ngắt, ngưng thở từ hồi khuya rồi!

Đó là ông bá hộ Sang. Mọi người vừa nhìn thấy ông đã im thin thít, không dám khóc. Chỉ có bà là tiếp tục gào lên: - Ông để con nó chết thảm như vậy mà đành lòng sao?

An nhìn thấy một xác người đã liệm vào quan tài mà chưa đóng nắp. Một cô gái còn khá trẻ, trông hao hao giống với Thanh Thủy. Lúc ấy Thủy cũng kịp lên tiếng: - Chị Hai em tên là Diệu Hoa, lớn hơn em hai tuổi. Ngày hôm qua lúc đang tiến hành lễ cưới thì bỗng lăn đùng ra chết mà chẳng có bệnh tật gì!

Bà bá hộ nắm tay An van lơn:

- Cứu con tôi với thầy ơi.

Thủy lại phải nói rõ hơn:

- Lúc ngã lăn ra hôn mê thì miệng chị Diệu Hoa luôn kêu tên thầy giáo An, bảo phải đi tìm thầy tới đây cho chị ấy. Em chưa kịp đi thì chị ấy đã tắt thở.

An ngạc nhiên: - Sao cô ấy lại biết thầy? Có khi nào có sự nhầm lẫn?

Thủy lắc đầu: - Em nghĩ là không lầm. Bởi khi gọi tên thầy thì chị Diệu Hoa lay tay em. Em hiểu đó chính là thầy. Mặc dù chị ấy chưa biết thầy bao giờ.

Bà bá hộ cũng nói: - Nó còn bảo phải tìm cho được thầy để thầy chạm vào người nó thì nó sẽ tỉnh lại. Nhưng đó là lúc nó đang hôn mê, chớ bây giờ ngừng thở rồi thì còn hy vọng gì nữa?

Rồi bà hướng về phía những người đang đứng chung quanh quan tài: - Cũng tại thằng chồng nó. Lúc con Diệu Hoa vừa kêu tên thầy An thì nó nổi máu ghen hét toáng lên, hỏi An là thằng nào? Nó cho rằng An chắc là người yêu cũ của con Hoa. Cũng tại tiếng hét quá lớn của nó nên con Hoa mới tắt thở luôn!

Có giọng của ai đó, có lẽ là thân nhân bên nhà chú rể: - Ai mà không ghen khi đang giữa đám cưới mà vợ mình kêu tên người đàn ông khác!

Thủy nói khẽ với An: - Thầy đừng chấp những lời của họ. Em xin thầy hãy đốt cho chị em nén nhang.

An làm theo lời. Anh thành tâm chấp tay khấn:

- Tôi là thầy giáo An. Nghe chuyện, tôi quá đỗi ngạc nhiên, bởi cô chưa bao giờ biết tôi! Nếu có sự nhầm lẫn thì xin hiểu rằng, tôi tới đây với tấm lòng thành...

Chợt An giật mình!

Lời khấn của An vừa dứt thì đôi mắt của xác chết khẽ động đậy. Chẳng riêng An thấy, mà Thanh Thủy đứng cạnh cũng thấy, cô kêu lên: - Chị Hoa! Chị đã...

Bằng một phản xạ tự nhiên, An chợt đưa tay chạm vào thành quan tài. Vừa khi ấy bàn tay của xác chết chụp lấy anh và siết chặt!

An vốn đã nghe người ta kể về trường hợp hồi sinh của xác chết, nên thay vì hoảng hốt anh lại bình tĩnh, đưa bàn tay còn lại vịn lên bàn tay kia. Đó là tư thế vừa để gở bàn tay đang bị siết chặt, vừa có tác dụng vận dụng sức lực tự vệ. Tuy nhiên, thật bất ngờ, cả thân thể người chết bỗng ngồi bật dậy, đôi mắt Diệu Hoa mở to ra và kêu lên mừng rỡ.

- Anh đến với em rồi!

Lần này thì An hoảng hốt thật sự. Bản chất một nhà giáo khiến An không thể tay trong tay với một cô gái khác không phải là người yêu của mình. Anh định rút tay về thì cả hai tay của Diệu Hoa lại càng siết chặt hơn.

- Cô... cô…

Bà Bá hộ thấy con mình sống lại thì mừng quá. - Hoa ơi!

Trong khi đó thì những người khác do quá sợ hãi đã ù té chạy. Có người còn gào lên: - Ma! Ma đội mồ!

An thì lúng túng quay sang cầu cứu với Thanh Thủy: - Giúp thầy với!

Bỗng anh nghe giọng nói từ miệng của người sống lại: - Đỡ em xuống!

An bỗng ngoan ngoãn làm theo. Anh đỡ Diệu Hoa ra khỏi quan tài, dìu ra ngoài. Bà bá hộ định nhào tới ôm con thì Diệu Hoa đã nghiêm giọng nói:

- Chỉ thầy An được chạm vào người tôi thôi. Bất cứ ai khác chạm vào là tôi... chết trở lại liền!

Trong âm thanh của cô nàng có gì đó khiến bà bá hộ và cả Thanh Thủy nữa nghe kỳ kỳ. Bởi nó không giống với tiếng nói quen thuộc của Diệu Hoa bình thường! Bà quay sang Thủyỷ hỏi khẽ:

- Con Hoa bị sao vậy?

Thủy đưa mắt nhìn vào chị mình, thì bất chợt bị Diệu Hoa chỉ thẳng tay vào mặt:

- Không được đứng gần thầy An như thế?

- Kìa, chị Diệu Hoa!

- Lui ra ngay! Nếu không thì đừng có trách!

Bỗng Thanh Thủy lui ra sau mấy bước, vừa lắp bắp nói:

- Cô... cô ấy! Chính cô ấy đã đánh em! Cô… cô...

An còn chưa biết phải làm gì thì đã bị cô nàng nắm tay kéo đi: - Anh vào đây giúp em cởi mấy thứ quần áo lỉnh kỉnh này ra ngay với. Ai lại mặc hai ba lớp, nóng muốn chết!

An trì lại, ngượng đỏ mặt:

- Đâu được. Cứ để tôi...

Lúc này, nàng ta trừng mắt nhìn thẳng vào An:

- Đến lúc này mà anh chưa nhận ra em nữa sao?

Giọng nói thật là quen. An kêu lên:

- Trúc Quỳnh!

- Dữ hôn! Mới vắng có mấy ngày đã sinh tâm rồi!

An càng bối rối hơn: - Nhưng mà... tại sao...

Thấy mọi người chăm chú nhìn mình, cô nàng gắt lên: - Bộ chưa từng thấy phụ nữ sao, nhìn gì nhìn dữ vậy? Đi hết đi!

Đến lúc này thì một số người còn nán lại vì tò mò đã phải rút lui hết. Chỉ còn vợ chồng bá hộ Sang và con cái trong nhà. Ông bá hộ giờ mới lên tiếng:

- Đứa nào chạy đi kêu thầy Tư Núi tới coi! Sao có chuyện kỳ lạ thế này?

Diệu Hoa nghe nói vậy đã quay sang trừng mắt:

- Với bất cứ ai bước ra đi kêu thì phải bước qua xác chết của tôi!

Ông bá hộ Sang xưa nay chỉ quen quát nạt và ra lệnh cho thiên hạ, chớ ít khi phục tùng ai. Vậy mà trước cái quắc mắt đó, khiến ông sợ thất thần, câm như hến ngay! Kể cả bà cũng vậy.

Diệu Hoa nói như ra lệnh: - Những gì liên quan tới sính lễ của Diệu Hoa đều không còn ý nghĩa gì nữa, hãy đem trả lại hết cho nhà trai!

Nói vừa xong thì cô ta lôi An đi vào nhà trong, trước sự sợ hãi của An và sự kinh ngạc tột độ của gia đình bá hộ Sang. Thậm chí mấy cô cậu học trò bạn Thanh Thủy cũng lo ngại. Họ bàn với nhau:

- Phải làm gì để cứu thầy An đi chớ, Thủy?

Thanh Thủy vẫn còn chưa hết bàng hoàng, cô lẩm bẩm nói: - Hình như đâu phải chị Diệu Hoa?

Ở ngoài cổng rào có tiếng huyên náo. Cha mẹ chú rể và cả chú rể Tấn Đạt cùng chạy vào một lượt. Họ được tin báo cô dâu sống lại thì mừng rỡ chạy sang ngay. Đạt lên tiếng trước: - Đâu? Vợ con đâu?

Bà bá hộ lúng túng: - Nó… nó...

Nhà trai nhìn thấy Diệu Hoa đang nắm tay An kéo vào phòng thì sững sờ! Bà chủ Tự vốn là người mồm miệng nhanh hơn chân tay, nên la lớn cả xóm cùng nghe: - Mấy người gả con gái chưa đưa dâu về nhà chồng mà đã rước trai về nhà cho nó rồi! Bớ làng xóm tới mà coi!

Trong lúc mọi người chưa kéo tới xem thì bỗng nhiên bà ta ngã lăn ra, miệng hộc máu tươi như bị ai cắt cổ! Tấn Đạt thấy mẹ bị như vậy thì hốt hoảng:

- Má ơi, má làm sao vậy? Má tôi...

Anh ta cũng đang sôi máu ghen, nên gào lên:

- Con dâm phụ, mày đã sinh tâm mà còn hại má tao nữa à.

Lời anh ta vừa dứt thì cùng lúc ngã theo mẹ. Tình trạng y như vậy. Ông chủ Tự còn đang bàng hoàng thì từ trong nhà Diệu Hoa đi ra. Cô lột hết đồ nữ trang sính lễ trao lại: - Bác hãy cầm những thứ này về. Còn hai người kia nếu họ đừng nói bậy nữa thì lát nữa họ sẽ khỏe lại, tự đi về được. Không chết chóc gì đâu! Nhưng nên nhớ, Diệu Hoa mà ông bà coi là dâu đã chết rồi!

Nói xong, cô không đợi xem phản ứng đã bước nhanh vào nhà. Đi ngang qua chỗ Thanh Thủy đứng, cô ta nói: - Cô cho thu xếp tang lễ lại đi. Ai có hỏi thì nói Diệu Hoa không còn là con nhà này nữa!

Và một lần nữa, cô ta nắm tay dẫn An đi thẳng vào phòng riêng. Thanh Thủy nhìn mấy người bạn học, hội ý:

- Mấy bạn có cách nào cứu thầy An không? Tội nghiệp thầy quá...

Lan nhanh nhảu: - Tại sao mình không gõ cửa phòng để phá không cho chị bạn làm hại thầy An!

Họ làm ngay. Trong lúc gõ cửa, Lan đẩy hơi mạnh tay làm cho cánh cửa bật vào trong.

- Em xin lỗl! Em chỉ muốn gặp thầy An...

Nhưng khi nhìn vào trong thì chẳng có một ai! Căn phòng trống không. Thanh Thủy phải nói to lên:

- Chị đâu rồi Diệu Hoa?

Không có tiếng trả lời:

- Rõ ràng, họ mới vào đây mà?

Họ chạy khắp nơi tìm kiếm vẫn chẳng thấy bóng dáng Diệu Hoa và An đâu...

Vừa xách giỏ thức ăn bước từ bến đò lên, Liễu Huệ đã nghe ai đó gọi mình. Cô quay lại thì không thấy ai, nhưng khi bước đi thêm mấy bước nữa thì Huệ cảm thấy chiếc giỏ như bị ai đó nắm ghì xuống. Nhìn lại thì Huệ vô cùng ngạc nhiên khi không còn thấy món đồ ăn nào trong giỏ.

- Ủa?

Liễu Huệ không tin vào mắt mình, nên cố xốc tìm. Vẫn là chiếc giỏ không. Những vật trong giỏ gồm quần áo sạch, thức ăn khô và một số giấy bút... Những thứ mà chính tay bà Phủ Vệ chuẩn bị và sai Huệ mang tới điền trang cho An. Hôm qua chính bà đã bảo rằng Trúc Quỳnh về trong giấc mộng bảo bà mang những món cần thiết đó. Bà nói với Huệ:

- Nó dặn mày tới đó đặt giỏ đó rồi đi về ngay, đừng la cà ở lại!

Liễu Huệ không tin điều đó, bởi lúc còn sống thì cô Quỳnh đối với nó khác nào chị em ruột. Sao lại có chuyện cấm đoán này? Huệ định bụng khi gặp An rồi cô sẽ tìm cách ra mộ thăm cô chủ rồi mới về... Nhưng bây giờ mất hết đồ trong giỏ thì biết ăn nói sao với An. Huệ một lần nữa nhìn quanh xem có ai lấy cắp đồ của mình. Tuyệt nhiên không một ai. Con đường rẽ về phía điền trang là đường riêng, nên khách sau khi lên đến đã rẽ về hướng khác.

Mải suy nghĩ miên man mà đã tới điền trang lúc nào Liễu Huệ không hay. Khi thấy cổng rào không chốt, Huệ bước thẳng vào mà không lên tiếng hỏi.

- Kìa! Sao lại…

Liễu Huệ sững sờ khi thấy đang bày trên bàn là những món đồ của mình vừa bị mất. Không thiếu một món nào...

Còn đang ngơ ngác thì chợt Huệ giật mình quay lại, bởi có tiếng bước chân bước sau lưng mình.

- Cô là…?

Lúc ấy, Diệu Hoa đang mỉm cười nhìn thẳng vào Huệ: - Con nhỏ thật vô tình. Mới có mấy tháng mà đã quên rồi!

Nghe giọng nói quen thuộc của Trúc Quỳnh, Liễu Huệ đảo mắt nhìn, tìm kiếm. Nhưng rõ ràng âm thanh vừa phát ra là từ miệng của cô gái này.

- Con quỷ thật là vô tâm. Đem đồ cho cậu chủ mà hớ hênh như thế, nếu không có ta thì còn gì!

Bấy giờ Huệ mới kịp trấn tĩnh:

- Cô là... chính cô…

Vừa khi ấy An từ trong bước ra, anh thật tự nhiên bước tới ôm vai Diệu Hoa.

- Sao cô cháu gặp nhau mà cứ trơ mắt nhìn như vậy? Trúc Quỳnh, em hãy...

Huệ kêu lên: - Kìa, cậu An!

- Sao không chào ta, con quỷ!

Đúng kiểu nói đùa của Trúc Quỳnh lúc sinh thời! Huệ không tin vào tai mình, cô hỏi lại:

- Cô vừa nói gì?

Diệu Hoa bất chợt chộp lấy cánh tay của Huệ siết chặt. Huệ đờ người ra, miệng lắp bắp:

- Cô cô là…

- Tao là Trúc Quỳnh đây, con khỉ!

An giải thích:

- Huệ ở lại đây chơi rồi tôi và Quỳnh sẽ giải thích thêm. Người này chính là Quỳnh đó!

Huệ cứ nghĩ nếu là Trúc Quỳnh hiện thân thì cơ thể phải lạnh buốt như xưa nay người ta vẫn nói, đã là ma thì người phải lạnh, không có sinh khí. Nhưng tay của Diệu Hoa thì bình thường như mọi người khác. Biết là Huệ đang hoài nghi, Diệu Hoa kéo tay cô bé ra ngoài vừa nói:

- Đi ra đây rồi sẽ hiểu.

Cô ta dẫn Huệ đi thẳng ra chỗ phần mộ của Trúc Quỳnh. Huệ vô cùng kinh ngạc khi tên ghi trên bia không còn là Trúc Quỳnh như trước, mà đã thay vào đó là: Diệu Hoa!

- Sao lại thế này?

- Đừng ngạc nhiên. Thay hồn đổi xác là chuyện đã từng xảy ra. Cái xác trong phần mộ là của ta. Nhưng hồn là của cô Diệu Hoa, như vậy mộ này vừa là của Trúc Quỳnh vừa của Diệu Hoa. Nhưng ta thì không muốn chết, không muốn xa chàng, nên giờ đây vẫn là... Trúc Quỳnh!

Liễu Huệ vốn tính thật thà, cô đâu dễ chấp nhận:

- Làm sao như vậy được? Cô Quỳnh chết rồi! Cô

Quỳnh nằm trong mộ này, không thể nào...  An kịp bước ra, giải thích: - Ban đầu tôi cũng không tin, nhưng khi đi dự đám tang cô chị của một học trò, tôi đã chứng kiến tận mắt việc này, nên không thể phủ nhận được. Đây chính là hồn của Trúc Quỳnh. Cô ấy thác oan nên hồn phách không siêu thoát được, may gặp người con gái có cùng hoàn cảnh bị ép duyên tự tử, nên hồn của Quỳnh đã kịp thời mượn xác của người ấy mà sống lại! Anh thuật lại chi tiết hơn chuyện đã xảy ra cho Huệ.

- Cô về thuật lại cho bà Phủ nghe, nhưng nhớ là không được đồn ra ngoài. Bởi chúng tôi chỉ muốn được yên ổn sống ở đây.

Dẫu không tin, nhưng trước lời xác nhận của An, Liễu Huệ đành im lặng đứng hết nhìn ngôi mộ rồi lại nhìn Diệu Hoa. Chốc chốc, Diệu Hoa lại nắm tay Huệ, giống như cử chỉ ngày xưa. Giọng trìu mến:

- Huệ hãy tin cô. Xưa nay cô không bao giờ nói dối Huệ.

Qua giọng nói, Huệ xác nhận chắc chắn là Quỳnh. Tuy nhiên cô làm sao quen được chuyện cô chủ mình. Trúc Quỳnh củng cố thêm niềm tin cho Huệ: - Em ở lại đi, trưa nay cô sẽ nấu món canh rau tôm thịt mà thường khi cô vẫn nấu cho cả nhà ăn!

Đúng đó là món canh độc nhất vô nhị, bởi chỉ có Trúc Quỳnh mới nêm nếm đạt độ thơm, ngọt mà không một ai khác nấu được.

Do vậy, trưa hôm đó Liễu Huệ ở lại để dùng bữa trưa. Ngoài món canh ngon tuyệt, còn có những món khác mà đã hơn chục năm ở chung trong nhà, Huệ đã được Trúc Quỳnh cho ăn. Hương vị không thể lẫn lộn với ai được. Thậm chí lúc ăn, tuy là trong lốt Diệu Hoa, nhưng từ cách ăn, cách cười nói đều giống y như Trúc Quỳnh!

Thấy Huệ cứ nhìn mình mãi, Diệu Hoa phải nhắc: - Em phải ăn cho nhanh và no rồi còn về cho bà hay mọi việc chớ. Nhớ là chỉ mình mẹ ta biết thôi. Còn cha ta thì ta đã có cách cho ông hay sau.

Khỏi nói thì cũng biết sự kinh ngạc của bà Phủ Vệ lên tới mức nào! Khi nghe Liễu Huệ thuật chuyện, lúc đó dù… trời đã tối, nhưng bà cũng đòi phải đi tới điền trang ngay!

Huệ phải khuyên bà: - Tối quá đã hết đò. Mà tự chèo thuyền thì đang là mùa nước lũ, một mình con không thể nào chèo được.

Tuy biết là lời khuyên đúng, nhưng bà Phủ vẫn đứng ngồi không yên. Đêm đó bà gần như thức trắng đêm, khiến cho ông Phủ phải gạn hỏi:

- Có chuyện gì làm bà như vậy? Hay là nhớ con Trúc Quỳnh…

Ông hỏi mà không đợi vợ trả lời, liền đó ông lại tiếp: - Chẳng hiểu sao hai đêm rồi tôi đều nằm mơ thấy một đứa con gái lạ đứng ngay đầu giường cất tiếng gọi. Vừa gọi nó vừa khóc!

Bà bị kích động ngay bởi tiết lộ đó: - Nó nói gì?

- Nó bảo là nếu tôi đừng khắt khe thì một ngày nào đó nó sẽ là… con gái của nhà mình!

Mọi chuyện hầu như trùng hợp với những gì Liễu Huệ kể cho nên bà Phú không thể giấu được, phải kể cho ông nghe. Bà hỏi:

- Ông có tin chuyện này không?

Ông Phủ sau vài giây suy nghĩ đã nhẹ gật đầu.

Thế là ngay sáng sớm hôm sau, vợ chồng Phủ Vệ cùng với Liễu Huệ đi chuyến đò đầu tiên lên khu điền trang. Họ cũng giống như Liễu Huệ lúc đầu nhìn thấy Diệu Hoa.

Tuy nhiên, khi nghe cô lên tiếng thì họ ngơ ngác: - Con đây mà, ba má không nhận ra hình hài con, nhưng giọng nói cũng không biết nữa sao con là Trúc Quỳnh đây! Để ba má tin, con sẽ nói ra các thói quen của ba, của má, và những vết thẹo, nốt ruồi riêng trong người mà người ngoài không thể nào biết rõ được!

Cô kể vanh vách mọi chi tiết, đến đỗi ông Phủ Vệ phải lên tiếng.

- Quá đúng rồi!

An quỳ trước mặt họ, lễ phép nói: - Thưa hai bác, nếu được phép thì từ lúc này con xin gọi là ba má.

Bà Phủ vốn dễ tính và thương An nên gật đầu ngay. Riêng ông Phủ thì chỉ im lặng. Ông cứ dán mắt nhìn. Liễu Huệ giục:

- Mình ra ngoài mộ đi ông bà!

Họ cùng kéo ra phần mộ. Khi thấy tên trên bia đổi khác thì bà Phủ không hài lòng.

- Sao lại tên là Diệu Hoa?

Bấy giờ chính Diệu Hoa giải thích:

- Hồn con bây giờ đã trở lại dương thế rồi, thì sao lại có mộ bia mang tên mình được? Bộ ba má muốn con gái mình chết trở lại hay sao?

Hai ông bà hốt hoảng:

- Không! Không...

Bà nói: - Thôi, xác của ai cũng được miễn là con trở về nhà với ba má là được rồi ba má sẽ giải thích sau với mọi người.

An muốn nói nhưng Diệu Hoa đã chặn lời:

- Tuy con đã mượn xác sống lại, nhưng đời con đã trót gắn liền với người con gái tên Diệu Hoa, cho nên mãi mãi con và An phải ở lại đây.

Ông Phủ ngạc nhiên, gặng hỏi:

- Sao lại ở chốn này? Con nên nhớ là ba má chỉ có mình con...

Diệu Hoa vội đáp:

- Nằm dưới mộ là thân xác của con. Hồn nhập vào Diệu Hoa có điều kiện: Con không thể sống xa phần mộ lâu quá một tuần. Do vậy, con và An sẽ sống ở đây, thỉnh thoảng tụi con về thăm ba má một lần. Cho đến khi nào con sinh con...

An nói rõ hơn: - Theo điềm báo trước mà lúc nhập hồn vào Diệu Hoa, Quỳnh đã được biết: cô ấy sẽ sinh đôi ở lần sinh đầu tiên. Sẽ là hai đứa con gái. Và đến lúc đó thì một đứa sẽ ở bên nhà Diệu Hoa, còn đứa kia thì về sống ở nhà với ba má.

Bà Phủ la lớn: - Sao có chuyện đó được? Nó sẽ là con cháu tôi mà!

Diệu Hoa nghiêm giọng: - Cái gì cũng có cái giá của nó. Con hồi dương được là qua xác người khác, vậy nên cũng phải trả nghĩa cho người ta một giọt máu chớ! Như vậy vong hồn Diệu Hoa nằm trong xác con dưới mồ mới yên ổn, tiêu diêu được. Vả lại, tụi con đã thề nguyền với nhau trước ngôi mả này rằng: từ nay về sau xem đây là ngôi mộ chung. Ngôi mộ tình. Ngày sau khi tụi con chết thì cũng xin ba má cho mai táng chung ngôi mộ này.

Không thật sự hài lòng, nhưng ông bà Phủ cũng phải chấp nhận. Riêng Liễu Huệ thì tình nguyện:

- Ông bà cho phép con từ hôm nay được ở lại chốn này. Con sẽ sống với cô Trúc Quỳnh như xưa.

 

HỒN SÓI

(Tác giả: Người Khăn Trắng)

 

Lăn lộn nhiều lần mà vẫn không làm sao ngủ được, Ngọc Trâm lại ngồi dậy, bật đèn sáng. Hai giờ sáng. Cô lẩm bẩm.

- Kỳ lạ...

Rồi cô tắt đèn và cố nhắm mắt, gạt ra ngoài đầu óc hết mọi suy nghĩ, để cố tìm giấc ngủ của đêm đầu tiên đến ngôi nhà lạ này. Và bất chợt Trâm nhận ra nguyên nhân nãy giờ khiến cô không tài nào ngủ được chính là hơi thở kỳ lạ vọng vào từ bên ngoài cửa sổ.

úc đầu Trâm ngỡ đó là tiếng gió, nhưng lần này do đổi đầu nằm, áp tai gần cửa sổ, nên cô nhận ra đấy không phải là tiếng gió thổi. Nó phát ra lúc dồn dập lúc rên rỉ, y như ai đó đang áp sát mặt vào cửa sổ. Ai nhìn lén vào phòng chăng. Nhớ trước lúc đi ngủ, ông Sâm, chú cô còn dặn nếu nóng nực thì cứ mở cửa sổ ra, không phải lo sợ gì. Như vậy dù là ngôi nhà lớn, chung quanh là khoảng vườn rộng, nhưng chắc là chẳng có ai rình rập...

Giả vờ như đang đi vào giấc ngủ, rồi bất thần Trâm ngồi bật dậy khi phát hiện hơi thở rõ ràng hơn. Cô nhìn ra cửa sổ và thấy một bóng người vừa thoát chạy biến vào màn đêm!

Con tim vốn không lấy gì làm khỏe lắm của Trâm đập nhanh, khiến cô phải đưa tay ôm ngực, sợ thất thần? Giờ này cả nhà đang say ngủ và có lẽ ông chú của cô cũng đang say giấc. Muốn báo động với mọi người, nhưng ngại phá giấc ngủ chú Sâm, nên Trâm đành mang nỗi sợ một mình. Đóng ngay cửa sổ, gài chốt thật chặt bên trong. Cô nhủ thầm:

- Cũng may cửa có song sắt.

Đóng cửa xong Trâm trở lại giường, vừa nằm xuống cô đã chạm ngay một vật mà lúc nãy không hề có. Một lọn tóc dài của phụ nữ!

Đèn bật sáng trở lại, và Trâm lạnh cả người khi thấy đúng là lọn tóc nặng cả ký lô, dài trên năm tấc, mà ai đó đã đặt ngay cạnh gối nằm của cô. Lọn tóc được cột túm lại khá gọn và được chải suôn sẻ, như do một phụ nữ mới vừa thực hiện.

Căn phòng này Trâm tiếp nhận, lúc chiều chính tay cô đã dọn dẹp, thay tấm trải giường mới và lúc đi ngủ đã cẩn thận xem lại lần cuối, sợ sâu bọ lên giường, khi không thấy gì khác lạ mới đi ngủ. Như vậy lọn tóc này do ai đó mới đem vào. Mà ai mới được, khi cửa phòng khoá kín?

Do con người bí mật vừa nhìn lén qua cửa sổ kia? Nhưng giường cô mắc mùng, đứng từ ngoài cửa sổ thì không làm sao ném cả lọn tóc to nằm gọn lên giữa giường được.

- Có gì vậy Trâm?

Tiếng của chú Sâm bên ngoài. Ngọc Trâm mở ngay cửa ra. Nhìn nét mặt đầy âu lo của cô, ông càng ngạc nhiên hơn.

- Chú nghe tiếng động không bình thường ở phòng con. Có chuyện gì phải không?

Biết không thể giấu, Trâm cầm lọn tóc đưa cho chú: - Chẳng hiểu ai đã để vật này trong phòng cháu!

Vừa nhìn thấy, ông Sâm đã kêu lên:

- Đưa chú xem!

Ông đón lấy và không ngại đưa lên mũi ngửi rồi thảng thốt.

- Đúng rồi!

Ngọc Trâm ngạc nhiên: - Chú biết nó là của ai?

Ông Sâm mất bình tĩnh thấy rõ:

- Cháu có thấy ai... ai đã vào đây?

Trâm thành thật: - Có một bóng người đứng bên ngoài cửa sổ trong lúc cháu dỗ giấc ngủ. Khi cháu phát hiện thì người ấy chạy biến trong vườn.

- Người đó ra sao?

- Dạ cháu thì thấy bóng chớ không rõ lắm. Có điều khi đứng ở đây người ấy đã thở gấp và thở dữ lắm!

- Ngọc Lan!

- Chú nói ai?

Biết mình lỡ lời, ông Sâm không đáp, quay đi chỗ khác. Trâm nghe rõ tiếng thở dài của ông...

Rồi như cố giữ kín trong lòng chuyện gì đó, ông Sâm ôm lọn tóc và bước như người mất hồn về phòng mình...

Ngọc Trâm cảm thấy sợ, muốn nhờ giúp đỡ, nhưng nhìn hình ảnh ông chú như thế, cô đành quay vào phòng đóng cửa lại. Lúc ấy, do không để ý nên Trâm không hay cái bóng trắng bỏ chạy lúc nãy đã quay trở lại và đang đứng ngoài cửa sổ nhìn vào…

Đúng ra Trâm đã bỏ về ngay thành phố sau những bất trắc vừa xảy ra. Tuy nhiên do chú Sâm ngã bệnh đột ngột nên cô phải lưu lại và nhờ vậy cô mới có dịp đi dạo quanh khu vườn ngôi nhà rộng lớn của chú mình.

Nếu ban đêm quanh nhà đầy vẻ âm u, hoang vắng thì ban ngày trái lại. Lúc đầu Trâm chỉ định đi quanh quẩn gần nhà để đầu óc bớt căng thẳng sau một đêm mất ngủ, tuy nhiên đi được vài chục bước thì những luống hoa hai bên đường nhỏ đã thu hút cô đến không cưỡng được, nên cứ tiếp bước. Theo lời chú Sâm, thì ngôi nhà to lớn này chỉ là nơi để thỉnh thoảng chú về nghỉ dưỡng, ít có dịp chăm sóc... Nhưng cứ nhìn những luống hoa đủ màu sắc, được cắt tỉa chăm chút khá cẩn thận và đẹp mắt này, thì ai dám nói đây là khu vườn hoang?

Con đường nhỏ chung quanh trồng đầy hoa dẫn sâu vào khu vườn rộng trên hai mẫu này, nếu chỉ một người như chú Sâm thì chắc chắn không thể tạo ra được. Nhưng còn có ai nữa, khi từ lúc về đây tới nay đã hai ngày, Trâm đâu có nghe chú nhắc tới người nào khác?

Có một chú mèo vàng bụ bẫm, dễ thương, chẳng biết từ đâu chạy tới cạ vào chân Trâm như muốn làm quen. Nó lại đưa mắt nhìn cô gái lạ bằng đôi mắt thiện cảm. Trâm vốn yêu loài vật, nên cô cúi xuống định đưa tay xoa đầu thì bất chợt con vật phóng chạy về phía trước. Vừa chạy nó vừa nhìn lại Trâm như mời gọi. Không tiện đuổi theo, nhưng Trâm cũng đi về hướng đó.

Qua khỏi một gốc cây to, chợt Trâm reo lên:

- Ồ, đẹp!

Trước mắt Trâm là một khoảng đất rộng đến vài trăm mét vuông, trồng toàn hoa layơn nhiều màu sắc. Dưới ánh nắng ban mai, màu sắc rực rỡ của hoa khiến cho khu vườn rộng trở nên sinh động, ấm áp lạ thường!

Chợt con mèo lúc nãy chạy ra từ các luống hoa, nó rẽ về phía tay phải như hướng dẫn khách đi về hướng đó. Trâm mỉm cười, nói thầm: ừ, thì đi... Đi được hơn năm mươi mét thì Trâm phải khựng lại, bởi trước mắt hiện ra một căn nhà gỗ nằm lẩn trong cái tàn cây rậm rạp.

Nghĩ là mình đã đi vào xóm nhà bên ngoài, nhưng khi nhìn lại Trâm thấy tường rào ngăn cách ngôi biệt thự vẫn còn ở phía trước. Có nghĩa đây là một nhà phụ, có thể là của người làm vườn. Vừa định quay lại thì chợt có tiếng kêu to của con mèo. Có thể nó bị cái gì đó?

Vốn yêu chó mèo, lại thấy con mèo vàng dễ thương lúc nãy, nên Trâm quên sự dè dặt vốn có, đi nhanh về phía ngôi nhà. Cô hy vọng gặp ai đó trong nhà để yêu cầu họ giúp con vật đang càng lúc càng kêu thống thiết hơn. Tuy nhiên, khi đã tiến sát vào cửa rồi mà Trâm vẫn chưa thấy một ai trong nhà.

- Có ai...

Cô phải ngừng câu hỏi, bởi vừa lúc đó có một tiếng động mạnh, cùng lúc bóng con mèo vàng lao vút ra. Nhìn kỹ lại thì thấy con mèo đang nằm quằn quại dưới đất. Hình như nó mới bị ai đó ném từ trong nhà ra! Con vật hầu như chỉ còn cử động yếu ớt, chớ không thể nào gượng dậy được. Trâm quá xúc động, cô cúi xuống xoa lưng nó, chép miệng:

- Tội nghiệp quá!

Cô ngước nhìn vào nhà, định sẽ lên tiếng phản đối ngay với bất cứ ai mình gặp. Nhưng phòng khách ngôi nhà chẳng có một ai, ngoài bộ ghế gỗ vô hồn.

- Ai đó, sao lại đối xử với con vật nhỏ bé này như thế? Cô lên tiếng để chờ ai đó trả lời. Nhưng tuyệt nhiên không một tiếng động nào khác. Không có ai trong nhà. Vậy tại sao…

Ngọc Trâm còn đang thắc mắc thì chợt nhìn thấy có một vật gì đó rơi nằm vắt ngang trên mặt bàn của bộ sa lông gỗ.

- Thì ra...

Trâm hiểu rất nhanh. Vừa rồi có lẽ con mèo đã leo lên cao, làm rơi vật kia xuống và nó bị hất tung lên quá mạnh. Tuy đã hiểu nguyên nhân, nhưng do không thấy chủ nhà, nên Trâm không tiện bước vào để xem vật bị rơi kia là vật gì, có cần sự giúp đỡ không... Nhận thấy con mèo bị thương khá nặng, nên Trâm ôm nó lên. Vừa khi ấy cô nghe có tiếng người phía sau lưng: - Cô bị con quỷ đó đánh lừa rồi, nó làm đổ vỡ đồ đạc, nên giả vờ nằm im như chết đó, chớ thương tích gì đâu!

Trâm giật mình quay lại, thấy một người đàn ông đứng tuổi ăn mặc giản dị, đang từ ngoài vườn bước vào. Cô lúng túng…

- Cháu... cháu đi dạo, vô tình tới đây...

Người đàn ông cười đôn hậu: - Cô là cháu ông chủ phải không? Cô là… cô Trâm?

Hơi giật mình khi ông ta biết tên mình, Trâm cố bình tĩnh đáp lại.

- Dạ!

- Tôi là Đạm, ông chủ thường gọi là Tư Đạm, quản gia kiêm làm vườn ngôi biệt thự này.

- À, thì ra...

Trâm đánh bạo chỉ tay vào trong, bảo:

- Có vật gì đó rơi. Có lẽ do chú mèo này gây ra.

Vừa khi ấy bất chợt con mèo vùng dậy và chạy biến đi rất nhanh. Tư Đạm nói: - Đó, cô thấy chưa! Tôi gọi nó là con mèo mánh mà!

Trâm nhìn theo, lắc đầu. Tuy thấy nó mánh như vậy, nhưng tự dưng cô cảm thấy mến nó!

Tư Đạm bước vào nhà, mời: - Mời cô vào nhà chơi. Tôi ở một mình nên thiếu mọi tiện nghi. Mời cô.

Trâm tò mò, nên không đợi mời thêm đã bước vào. Lúc này Tư Đạm đỡ vật ngã lên, vừa lúc Trâm hốt hoảng.

- Con... con… chó sói!

Đúng, trên tay Tư Đạm là một con chó sói trắng rất lớn. Tuy nhiên nó chỉ là cái xác phơi khô còn nguyên hình hài!

Ông Đạm trấn an: - Nó chỉ là cái xác ướp thôi, cô đừng sợ. Mà chẳng hiểu sao con mèo mánh lúc nãy cứ vờn theo con sói này hoài. Đây là lần thứ một chục nó nhảy lên và làm rơi xác con sói xuống rồi đó!

Nhìn cách con sói nhe nanh, tự dưng Trâm rùng mình. Chưa từng gặp sói thật ngoài đời, chỉ được xem qua phim ảnh, nhưng chẳng hiểu sao chỉ mới nhìn xác con sói này Trâm lại cảm thấy có điều gì đó sợ đến khó hiểu!

Thấy Trâm mất bình tĩnh, Tư Đạm phải lên tiếng:

- Xác con sói này chết đã lâu. Nó lại ở tận vùng băng giá Bắc Mỹ, chứ ở xứ ta làm gì có sói. Cô không phải sợ.

Trâm cố gượng cười cho đến khi Tư Đạm treo nó lên chỗ cũ trên tường. Cô luôn nhìn đi chỗ khác suốt trong hơn mười lăm phút lưu lại trong nhà. Đôi mắt con sói như còn cái thần hồn trong đó!

- Dạ, xin phép chú.

Thấy Trâm về đột ngột, Tư Đạm cố giữ lại:

- Tôi định hái tặng cô bó hoa layơn, để cô chưng trong phòng.

Trâm bước nhanh ra cửa.

- Dạ, cháu không được khỏe.

Cô bước đi rất nhanh. Và lạ lùng hơn, khi ra tới con đường mòn thì Trâm lại gặp con mèo đang đứng chờ ở đó. Nó vẫy vẫy đuôi như chào mừng Trâm!

- Mày gớm lắm nhé!

Chừng như con mèo hiểu được lời nói của Trâm, nó cúi mặt chạy biến đi ở phía trước.

Trâm định đi về phòng riêng, tuy nhiên khi đi ngang qua phòng của chú Sâm, cô nghe ông gọi:

- Chú tìm cháu nãy giờ!

Trâm phải ghé lại và lo lắng hỏi:

- Chú có thấy đỡ hơn không? Hay là cháu lái xe đưa chú về Sài Gòn để bác sĩ khám.

Ông Sâm lắc đầu:

- Không cần đâu. Chú chỉ bị mệt bởi mất ngủ.

Nhưng vừa dứt câu nói thì ông ho một hơi dài. Hơi thở gấp và mệt nhọc. Trâm hốt hoảng:

- Chú!

Phải một hồi lâu ông mới lấy lại cân bằng sau khi uống hai viên thuốc trợ tim. Nhìn thấy lọn tóc vẫn còn đặt bên gối nằm của ông, Trâm không khỏi thắc mắc:

- Lọn tóc này... sao chú vẫn để đây?

Ông Sâm chỉ nhẹ thở dài rồi quay đi chỗ khác, không trả lời. Trâm nhìn ông rồi ngước nhìn lên tường, nơi có treo tấm ảnh lớn. Bỗng cô khựng lại khi thấy có một bức ảnh lớn chụp hình một con sói trắng đang nhe nanh!

- Chú. Ảnh này...

Cô kêu hơi lớn tiếng nên chú Sâm phải quay lại. Trâm chỉ bức ảnh: - Con sói này… có phải là cái xác ở nhà chú Tư Đạm?

Đang nằm, chợt ông Sâm ngồi bật dậy, vẻ thất thần: - Cháu nói... xác ai?

- Dạ, xác... xác con sói trắng, giống như trong bức ảnh này!

- Con... sói... trắng...

Lần này thì ông Sâm như chiếc bóng xì hơi, ông chỉ kịp chụp tay lên ngực rồi ngất đi.

- Chú Sâm.

Một mình Trâm ngồi trong phòng của chú Sâm. Ông già đã qua cơn nguy kịch, nhưng vẫn nằm thiêm thiếp. Suốt hơn nửa đêm ông hầu như không mở mắt ra, không nói tiếng nào. Chỉ thỉnh thoảng buông tiếng thở dài.

Đến gần hai giờ sáng, do quá mệt nên Trâm đành phải quay về phòng. Hôm nay có người tài xế riêng của chú vừa từ Sài Gòn lên, anh ta ngủ ở phòng gần đó và Trâm đã có dặn, nếu nghe gì bất thường ở phòng ông chủ thì phải chạy sang và báo cho Trâm biết ngay.

Lúc sang phòng chú Sâm, Trâm đã khóa cửa phòng mình cẩn thận vậy mà lúc trở về, khi vừa bật đèn Trâm suýt kêu thét lên. Nằm gọn trên giường cô là... xác con chó sói mà cô đã thấy tại nhà Tư Đạm!

Nghĩ là ông già làm vườn đang có mặt, Trâm hỏi lớn:

- Phải chú không, chú Tư?

Không có ai đáp. Trâm vừa bước lùi ra cửa phòng, vừa hỏi lần nữa? - Chú Tư ở đâu vậy?

Câu hỏi chỉ là một cách để tự trấn an, bởi sau khi lùi được mấy bước thì Trâm đã thấy vụt ngay một người cắm đầu chạy một mạch. Anh tài xế Tám Ân ngủ gần đó giật mình chạy ra hỏi:

- Có chuyện gì xảy ra với ông chủ?

Trâm chỉ tay về phía phòng mình:

- Có. Có... con... con...

Cô không thể nói hết câu, bởi nỗi sợ bị dồn nén lúc nãy, bây giờ đã lên đến cao độ, khiến Trâm thốt không thành lời. Tám Ân tức tốc chạy về phía tay chỉ của Trâm. Anh ta nhìn vào phòng không thấy gì lạ, nên từ đó nói vọng lại: - Phòng cô đâu có gì, cô chủ?

Trâm đã hoàn toàn kiệt lực, nhưng vẫn cố nói:

- Có con... chó... chó sói!

Câu nói của Trâm vô tình khiến cho ông Sâm nghe được, và như có một động lực phi thường đẩy ông ra khỏi giường chạy ra ngoài, vừa lúc chạm phải cô cháu gái vừa ngã gục.

- Gì vậy? Con nói là…

Trâm không còn đủ sức trả lời ông, nhưng đôi mắt lờ đờ của cô như muốn nói gì đó. Ông Sâm bước liêu xiêu về phía tài xế Ân đang đứng, cất giọng run run: - Chuyện gì trong đó?

Tám Ân đáp: - Dạ, cô Trâm nói có con chó sói trong phòng, nhưng con có thấy gì đâu?

Anh ta nói không thấy, nhưng ông Sâm khi bước vào phòng thì lại thảng thốt kêu lên: - Đúng là đây rồi.

Ông quỵ ngay bên mép giường, đưa tay sờ lên chỗ cái xác phơi khô của con sói trắng mà Trâm nhìn thấy lúc nãy. Bàn tay sờ như cảm nhận được của ông, khiến càng lúc người ông càng run lên, xúc động dữ dội. Và trong lúc không kiềm chế được, ông Sâm đã thốt lên.

- Ngọc Lan!

Tài xế Ân lái xe cho chủ đã khá lâu mà chưa từng nghe ông nhắc tới tên ấy. Thậm chí cả Ngọc Trâm lúc ấy đã tỉnh lại, và đang đứng ngoài phòng nhìn vào cũng ngơ ngác hỏi:

- Kìa chú, Ngọc Lan là ai?

Ông nhìn lên và đưa tay chỉ ra ngoài:

- Con đi gọi Tư Đạm...

Ông chỉ nói được bấy nhiêu rồi sau đó lặng người đi, trông chẳng khác cái xác không hồn...

Tư Đạm vừa thấy Trâm đã lên tiếng:

- Tôi biết thế nào cô cũng trở lại. Theo lệnh ông chủ phải không?

Trâm ngạc nhiên: - Chú biết?

Không vội vã, Tư Đạm rót ly nước lọc mời Trâm: - Cô cứ ngồi uống nước đi, tôi sẽ kể cô nghe...

Trâm sốt ruột: - Chú tôi đang bị mệt. Chú ấy muốn gọi chú tới ngay.

- Tôi có tới nhanh hay chậm thì cuối cùng ông ấy cũng phải tới đây mà thôi. Cô yên tâm, tôi rõ sức khỏe ông chủ hơn cô nhiều. Ngay những ngày còn ở Canada ổng đã từng như thế mà rồi đâu có sao...

Trâm càng ngạc nhiên:

- Chú từng sống với chú Sâm bên nước ngoài?

Giọng Tư Đạm trở nên hơi lạ: - Chẳng những cùng sống nhiều năm, mà còn nhiều việc hơn thế...

- Chẳng hay...

Tư Đạm đưa tay ngăn lại: - Cô uống nước đi. Những việc khác thì sớm muộn gì cô cũng biết thôi.

Chợt nhìn lên vách, Trâm ngạc nhiên:

- Con... con chó sói đâu rồi?

Giọng Tư Đạm trở nên lạnh lùng:

- Nó vốn không ở chốn này, nên việc nó có mặt hay không cô đừng quan tâm.

- Nhưng... vừa rồi nó tới phòng của cháu.

Đến phiên Tư Đạm ngạc nhiên: - Sao là phòng cô? Phải là phòng… ông chủ chớ!

- Thế ra chú biết chuyện ấy?

Tư Đạm đứng lên ra dấu cho Trâm theo mình. Ông ta đưa Trâm ra một khoảng sân rộng sau nhà, nơi đó có một ngôi nhà mồ nằm khuất sau những luống hoa, mà người lạ chắc chắn là khó nhìn thấy. Ông bảo:

- Cô có sợ nhà mồ không?

Thấy Trâm hơi lưỡng lự, ông động viên:

- Đi theo tôi thì không sao.

Ông đi trước, bước vào nhà mồ không khoá cửa. Bên trong chỉ có duy nhất một ngôi mộ đá nằm giữa nền đá đen khá rộng. Trâm còn chưa dám bước lại gần thì Tư Đạm giục. - Tới đây đi, cô sẽ rõ.

Lúc Trâm nhìn vào bia mộ, cô giật mình khi đọc dòng chữ: ''Ngọc Lan chi mộ''.

- Ngọc Lan! Phải chăng...

Tư Đạm cúi xuống ngôi mộ, ông cởi chiếc áo đang mặc, một cách nhẹ nhàng, ông lau từ trên xuống dưới, từ trước ra sau. Hành động ấy khiến Trâm ngạc nhiên: - Đây là…

Ông đáp mà không ngẩng lên: - Con gái của tôi!

- Con gái của chú? Cô ấy có liên quan gì tới Ngọc Lan mà chú Sâm cháu nhắc tới?

- Ông ta nhắc tới vật này thì đúng hơn!

Ông chỉ tay lên tường phía sau phần mộ.

- Cái này… Con sói!

Thì ra xác con sói phơi khô từng treo ở phòng khách nhà chú Đạm và Trâm thấy trong phòng mình bây giờ đang ở đây! Đúng là nó, không thể sai được.

- Hồi nãy cô hỏi tôi con sói đâu, thì nó ở đây. Nó thuộc về nơi mà nó gắn bó.

- Gắn bó với ai trong nhà mồ này?

- Cô xem, nơi đây còn ai ngoài…

- Chẳng lẽ... cô Ngọc Lan trong mộ này?

Tư Đạm chỉ thở dài, không đáp. Sau đó ông đột ngột rời nhà mồ. Trâm khựng lại một lúc, rồi mới quay ra. Phía sau cô đang xảy ra một chuyện mà Trâm không bao giờ nghĩ đến: Cái xác con sói bỗng từ trên tường rơi xuống mộ và... biến mất.

Ông Sâm thức giấc lúc nửa khuya.

Hôm nay ông cảm thấy trong người khỏe hơn, nên ngồi dậy thu xếp mấy thứ lặt vặt trong phòng, tính sáng sớm sẽ trở về Sài Gòn. Ông đã dặn tài xế Tám Ân, đúng năm giờ thì gọi. Bây giờ mới ba giờ mười phút, còn khá lâu nữa, nhưng ông biết cố nằm lại thì cũng không ngủ được.

Do bị tim mạch nên lâu nay ông kiêng cữ cả trà và cà phê, vậy mà giờ này ông lại thèm được ngồi nhấm nháp một cốc chất đắng ấy. Như cách đây vài năm, lúc còn ở bên kia trời Tây.

Lúc ấy ông hay uống cà phê không đường và rượu mạnh, bởi cái lạnh cắt da của vùng biên thùy Canada, và còn một nguyên nhân khác...

Nhớ tới Canada, chợt con tim đang được dỗ dành của ông nhói lên! Điều bí ẩn sâu kín đó đã đổ dồn về và hành hạ ông suốt mấy hôm nay rồi, mãi cho đến chiều nay ông mới bình tâm trở lại sau khi ông ngồi trong phòng riêng, khóa kín cửa và đốt nén nhang ngồi khấn thầm. Ông khấn những gì chỉ mình ông biết, và hình như đó là việc lặp lại nhiều lần mà vẫn chưa toại nguyện.

Đã hơn chục lần, ông Sâm đốt nén nhang này đến nén nhang khác rồi khấn, nhưng lần nào thì nhang cũng đều tắt ngang. Mà mỗi lần như vậy là khiến cho con tim của ông đau nhói lên. Lời khấn của ông đã bị từ chối! Mãi đến hồi chín giờ tối vừa rồi, lần đầu tiên cây nhang cháy đến hết. Đầu óc ông Sâm cũng tươi tỉnh từ đấy... Và ông đã ngủ được một giấc.

Lúc này ngồi chờ sáng, ông Sâm mới hiểu ra, lời khấn của ông được chấp nhận là bởi ông đã hứa sẽ rời khỏi đây và không bao giờ trở lại nữa! ''Người ta'' đã thật sự xua đuổi ông rồi. 

- Mà cũng phải thôi... Ông Sâm tự dưng thèm được nói chuyện với bất cứ ai, chừng như những chất chứa trong lòng ông đang có nhu cầu tuôn ra. Gọi tài xế Ân thật ông không muốn, bởi cần phải để anh ta nghỉ ngơi, mai còn lái xe. Giờ chỉ còn Ngọc Trâm. Cô cháu gái mà ông nuôi từ nhỏ sau khi người anh trai và chị dâu qua đời trong một tai nạn giao thông. Ông thương Trâm như con, nên lần này ông đích thân dẫn Trâm lên đây, định giao đứt cho cô ngôi nhà này khi nào Trâm lấy chồng và tạo lập sự nghiệp.

Lúc chiều ông đã đồng ý cho Trâm ở lại đây sau khi ông ra về. Rồi ít hôm Trâm sẽ về sau, ý của Trâm là muốn có thời gian làm quen với ngôi nhà hơn... Có lẽ ông muốn dặn dò thêm cô cháu gái đôi điều...

Ông Sâm nhẹ bước qua phòng Trâm. Ông đưa tay gõ nhẹ vào cửa, bởi biết thường khi Trâm rất nhạy thức. Tuy nhiên, gõ đến ba lần mà vẫn chẳng nghe Trâm lên tiếng, ông Sâm hơi lo, hay là có chuyện gì với cô cháu gái của mình?

Linh tính báo cho ông chuyện chẳng lành. Ông Sâm cầm nắm cửa xoay mạnh và... thật bất ngờ, cửa phòng không khóa nên bật vào trong. Phòng còn sáng đèn, nhưng không có người!

- Trâm ơi.

Ông Sâm cất tiếng gọi, vừa lúc nhìn qua cửa sổ ông thấy bóng một phụ nữ đi sâu vào vườn phía sau.

- Trâm.

Không kịp suy nghĩ, ông Sâm tức tốc chạy theo. Từ dãy phòng có một hành lang nối với vườn sau bằng một cửa hậu, nên chỉ mấy chục giây sau ông đã ra tới con đường nhỏ. Trước mặt ông là bóng tối dày đặc, tuy nhiên là chủ nhà nên ông không khó để đi nhanh theo cái bóng vừa khuất.

Tự dưng ông Sâm lo sợ cho cô cháu gái vô cùng. Những gì ở phía đó từ lâu rồi ông không còn dám nghĩ tới chớ đừng nói là bước vào. Vậy mà bây giờ, với sự an nguy của người thân duy nhất còn lại trong đời mình, ông Sâm gần như quên hết, chỉ biết cố đi nhanh. Khoảng năm phút sau thì vườn hoa layơn đã ở trước mặt. Lâu lắm chưa ra đây, nhưng ông biết có người chăm sóc nó, nên tuy vội ông vẫn chép miệng:

- Chu đáo quá.

Mười phút sau, ông đã tới trước ngôi nhà của Tư Đạm. Cửa đóng kín, đèn tắt. Chứng tỏ chủ nhân đã ngủ say. Không chút chần chừ, ông Sâm vòng ra sau, hướng về phía nhà mồ. Nơi này, kể từ khi về nước hai năm trước, ông chỉ nghe một tin nhắn qua điện thoại của Tư Đạm: ''Mồ mả đã xong, khi nào tới thì nên đi một mình.''

Nhưng chưa bao giờ ông Sâm tới...

Vừa bước vào nhà mồ, ông Sâm đã khựng lại, tim ông đập nhanh? Trước mặt ông là một cô gái đang ngồi gục đầu trước ngôi mộ.

Trong cảnh tranh tối tranh sáng, ông Sâm thảng thốt kêu lên: - Ngọc Lan!

Rồi như một quán tính, ông sà xuống ôm chầm lấy cô gái, miệng rít lên như một người trong cơn hấp hối: - Anh xin lỗi em! Vừa lúc đó, ông Sâm nghe một giọng nói thật quen: - Con đây mà chú Sâm!

Người con gái đó chính là Ngọc Trâm!

Cái chết của chú Sâm khiến cho Ngọc Trâm bàng hoàng! Đêm hôm đó sau khi biết mình ôm nhầm đứa cháu gái, tự dưng ông ngã lăn ra, rồi không bao giờ dậy nữa!

Trâm tuy phản ứng đúng, khi lên tiếng nói rõ mình không phải là Ngọc Lan, khiến ông hốt hoảng, thất vọng rồi đứng tim. Tuy nhiên, dẫu sao thì Trâm cũng gián tiếp gây ra cái chết của chú mình, nên cô khóc và đập đầu mấy lần.

Đến lúc ấy Tư Đạm mới xuất hiện. Ông lạnh lùng bảo Trâm.

- Tôi tiếp cô đưa ông chủ ra ngoài. Rồi có lẽ cô cho xe chở ông về Sài Gòn ngay sáng nay đi.

Trâm chủ ý đưa chú mình ra nhà ngoài lo thủ tục mai táng, nhưng cô lại có ý khác: - Cháu sẽ mai táng chú Sâm tại đây. Có thể là trong nhà mồ này.

Tư Đạm la to lên: - Không được!

Trâm cau mày: - Sao không được? Đây là nhà của chú Sâm, chú ấy có quyền nằm trên cơ ngơi của mình! Nếu cần thì cháu sẽ xây một nhà mồ khác.

Tư Đạm xem ra bị kích động dữ dội. Ông ta cố nén lắm mới quay ra, không nói thêm gì. Bỏ mặc Trâm lại đó với xác của chú mình.

Đến chiều hôm đó, trong lúc nhiều bạn bè thân nhân gần xa của chú Sâm từ Sài Gòn lên khá đầy đủ thì bỗng người ta hay tin có đám cháy lớn sau vườn. Khi Trâm ra tới nơi thì thấy ngôi nhà gỗ của Tư Đạm còn lại đống tro tàn.

Không ai biết nguyên nhân vụ cháy. Cho đến khi bước sang ngôi nhà mồ còn nguyên vẹn, thì Trâm hiểu. Tư Đạm đang ngồi im lặng trước ngôi mộ của Ngọc Lan. Trâm đứng nhìn ông rất lâu, cô đợi cho đến khi ông cử động. Và cuối cùng, Trâm đã nghe ông ta lên tiếng.

Không biết là nói một mình hay cho Trâm nghe:

- Lão ta đã phải trả giá cho tội lỗi của mình. Nhưng như thế vẫn chưa đủ. Bởi những gì con gái tôi phải gánh, đã quá nặng nề, thảm khốc! Cái chết của lão ta chỉ mới là một phần...

Rồi sau đó, ông ta cúi xuống nói vào ngôi mộ: - Ngọc Lan! Ba đã bắt nó phải tới đây để đền tội, vậy sao con vẫn chưa vừa lòng? Sao con không cho ba đốt luôn ngôi nhà của nó! Nghe tới đây thì Trâm giật nẩy mình. Cô nhìn trở lại phía ngôi nhà lớn. Nó vẫn chìm trong bóng đêm.

- Tiếng ai khóc? Trâm tự hỏi và nhìn quanh. Vừa lúc đó có tiếng nức nở. Nó vọng ra từ phía ngôi mộ!

- Ngọc Lan! Ba đã chờ con về nói với ba một câu thôi cũng được. Hay là khóc một tiếng... vậy mà đã hai năm nay rồi con chưa hề. Nay con khóc, phải chăng đã mãn nguyện, bởi cuối cùng thì đứa hại đời con cũng phải đền tội. Vậy ba vui lắm rồi, ba có thể đi theo con được rồi! Ngọc Lan ơi, chờ ba!

Tư Đạm vừa dứt lời thì bất thần phóng người lên cao, rồi lao đầu thẳng xuống mặt trên ngôi mộ. Hành động của ông quá nhanh, quá bất ngờ, nên dẫu Trâm đã kêu thét lên ngay, nhưng đã không còn kịp nữa. Một âm thanh khô khốc vang lên. Có lẽ đó là sự va chạm mạnh của phần đầu ông ta vào đá!

- Kìa, chú Tư!

Trâm lao tới. Vừa kịp lúc cô sững sờ, khựng lại. Bởi lúc ấy bỗng có một vật khá lớn, hứng trọn thân thể Tư Đạm và nhảy sang một bên. Gọn gàng, nhẹ nhàng.

- Con sói!

Không thể tin được. Trước mắt Trâm là một con sói trắng to gần bằng một con người, đang ôm gọn Tư Đạm vào lòng. Nó không nhe nanh, mà lại lè lưỡi liếm lên má và mặt của Tư Đạm. Vốn đã một lần thất thần vì con vật này, nên lần này Trâm cũng không tránh khỏi thót tim. Cô chỉ kịp kêu lên một tiếng: - Cứu!

Rồi ngất đi. Lúc tỉnh lại, Trâm vô cùng ngạc nhiên khi thấy ngồi trước mặt mình là Tư Đạm và... một cô gái. Vẫn ở trong nhà mồ.

Tư Đạm lên tiếng, giọng dễ nghe hơn:

- Vừa rồi xác con sói đã cứu tôi, nhưng người thật sự duy trì sự sống cho tôi chính là cô. Nếu không có tiếng thét của cô thì con gái tôi nó chưa kịp hồn, để đỡ lấy thân thể tôi. Cám ơn cô Trâm...

Trâm bật dậy, đưa mắt nhìn sang cô gái như ngầm hỏi. Hiểu ý, Tư Đạm nói:

- Nó là Ngọc Lan, con gái tôi.

- Cô ấy. Cô ấy.

Trâm suýt kêu lên lần nữa, kịp lúc Tư Đạm nói tiếp: - Cô đã biết rồi nên tôi không giấu. Ngọc Lan không còn là người. Oan hồn nó...

Trâm run rẩy: - Tôi có còn... còn sống không?

Tư Đạm phải bật cười: - Nếu cô chết thì con gái tôi đâu phải ngồi đợi hơn nửa giờ rồi để nói một câu thôi, trước khi nó trở về với thế giới riêng của mình...

Lúc này bất chợt cô gái tên Ngọc Lan quay mặt ra. Trâm thất thần khi nhìn vào khuôn mặt thật đẹp, nhưng trắng bệch, hầu như chẳng có chút sinh khí nào.

Cái nhìn lạ lùng của cô ta khiến cho Trâm sợ hãi, bối rối, chỉ muốn nhanh chóng nhìn đi chỗ khác để tránh! Tuy nhiên, hình như đã bị thôi miên nên Trâm vẫn phải nhìn vào cô ta.

- Tôi hiểu lầm. Suýt nữa...

Vừa dứt lời, tức thì toàn thân cô ta chuyển động và... nhanh như ánh chớp, chỉ còn thấy một vệt trắng mờ mờ... Rồi sau vài giây, trước mắt Trâm chỉ còn lại... cái xác khô của con chó sói!

- Kìa, chú Tư!

Trâm phải ôm lấy ngực để trấn tĩnh. Trong lúc Tư Đạm nhẹ giọng:

- Bây giờ tôi mới nói thật. Cô suýt chết, bởi con gái tôi nghĩ lầm cô là... người tình của ông chủ Sâm!

- Ủa, kỳ vậy! Cháu là cháu ruột mà...

- Khi biết ra thì Ngọc Lan mới không còn quấy phá cô nữa. Chớ ngay đêm đầu cô tới đây, nó cứ nghĩ cô được lão Sâm đưa tới để thay nó quản lý ngôi nhà này, nó quyết phá và thậm chí sẽ hại cô nữa. Cô nhớ lọn tóc và xác con sói không? Đêm đó đúng ra cô đã chết do lọn tóc quấn ngay cổ cô, siết cho đến khi nào cô không còn thở nữa. Và con sói nằm trên giường cô đêm ấy, nếu tôi chậm tay một chút thôi thì Ngọc Lan đã bắt hồn cô đi rồi!

- Trời ơi!

Thấy Trâm quá sợ hãi, Tư Đạm nói ngay:

- Khi lão Sâm tới chết bên mộ nó thì Ngọc Lan đã rõ mọi việc rồi, nó tính là sẽ gặp cô nói cho cô rõ. Nó còn muốn trả lại cho cô cơ ngơi này...

Trâm xua tay lia lịa: - Cháu không có ý định lấy ngôi nhà này đâu. Sau khi chôn cất chú Sâm xong thì cháu sẽ về ngay Sài Gòn.

Tư Đạm nhẹ lắc đầu:

- Cô không cần phải như vậy. Cô có thể an táng ông Sâm ở tại đây. Chính tôi và Ngọc Lan sẽ đi.

Ông đứng lên nhặt xác con sói định bước ra, chợt dừng lại và hơi ngập ngừng:

- Tôi không muốn khơi lại chuyện cũ. Nhưng suy cho cùng, có những điều cô cần biết thì tốt hơn... Vậy cô theo tôi ra ngoài này, đỡ ngột ngạt hơn.

Trâm theo ông ta ra cuối khu vườn. Ông đặt xác khô con sói xuống thảm cỏ, rồi thở dài:

- Đời người cuối cùng thì cũng về với cỏ cây, cát bụi. Trước đây một ngày, tôi cùng với con gái mình vẫn còn sôi sục sự hận thù. Nhưng kể từ khi lão Sâm chết đi, tự dưng tôi thấy trả thù cũng có ích gì đâu! Người này chết, rồi người kia nằm xuống, đâu còn gì ngoài nắm xương tàn. Còn thua con sói này, ít ra nó còn để lại bộ da cho người ta hoảng sợ! Có lẽ từ nay tôi sẽ chôn bộ da sói này xuống lòng đất, để hồn con Ngọc Lan không còn vương vấn...

- Nhưng... có liên hệ gì giữa cô Ngọc Lan và bộ da sói?

Tư Đạm lại thở dài: - Đó là một bi kịch!

Ông lặng đi đến gần một phút rồi mới tiếp: - Lão Sâm đã chết rồi, nên tôi cũng không còn muốn giữ câu chuyện này nữa. Ba năm trước, tôi và Sâm là bạn thân, ông du học và ở lại Canada lập nghiệp...

Ông ngẩng lên, nhìn về phía chân trời xa như hồi tưởng lại: - Không vốn liếng, nên chúng tôi chọn vùng biên giới xa của xứ sở lạnh giá quanh năm để định cư. Sâm tốt nghiệp ngành lâm nghiệp nên rất giỏi về rừng, còn tôi thì thuộc lĩnh vực kinh tế, nhưng cũng đồng tình với Sâm để chọn mua một nông trại nhỏ ở vùng rừng núi. Tôi ly dị vợ và dẫn đứa con gái mười sáu tuổi đi theo. Hằng ngày, trong lúc Sâm lái xe đi ra thị trấn cách đó bốn mươi cây số để giao dịch bán lâm sản thì nhân tiện chở Ngọc Lan cùng đi đến trường. Ngọc Lan rất mến bác Sâm, bởi sự hiền lành, giàu nghị lực của anh ta. Mà tôi thì cũng thầm nể phục bạn bởi sức chịu đựng giỏi, sự thích nghi cuộc sống nhanh nhạy, nên nghĩ con bé được gần gũi với một ông bác như vậy nó sẽ có cơ hội học hỏi được nhiều. Còn tôi, sở dĩ ít đi đâu ngoài thời gian quanh quẩn ở nông trại nhỏ, bởi tôi có bệnh, sợ lái xe đường hiểm trở. Cuộc sống an bình của chúng tôi kéo dài được gần một năm thì biến cố xảy ra! Ác nghiệt thay, biến cố đó lại rơi đúng vào đứa con gái bé bỏng của tôi!

Tư Dạm chừng như đã quá sức chịu đựng, nên kể tới đó thì ông phải dừng lại. Bởi nước mắt đã tràn ngập cả hai khóe mắt chảy vào trong, khiến cổ họng ông không còn phát ra âm thanh được nữa! Phải mất một lúc lâu sau, ông mới tiếp tục: - Vào một buổi chiều cuối tuần, hôm ấy cả Sâm và Ngọc Lan đều ở nhà. Tôi đề nghị làm một buổi tiệc nhỏ để mừng con bé tròn mười bảy tuổi, đồng thời đó cũng là kỷ niệm ngày bỏ đi của mẹ nó. Ngọc Lan tỏ ý không vui.

- Hay là ba cho con bỏ qua bữa tiệc này. Có gì vui đâu mà làm...

Tôi nhìn nét hơi lạ của con gái, thắc mắc hỏi:

- Con sao vậy?

Nó quay đi tránh ánh mắt nhìn của tôi, trả lời qua loa: - Con mệt...

Nghĩ đó là triệu chứng thông thường của con gái tuổi mới lớn, nên tôi nói: - Được rồi, nếu mệt thì con đi nghỉ. Để ba làm bếp, khi nào xong ba gọi.

Tôi đã chuẩn bị sẵn mấy món nướng nên vào bếp lo bữa tiệc. Tôi nhìn không thấy Sâm thì nghĩ có lẽ cậu ta nằm trong phòng riêng hay đi quanh quẩn đâu đó. Đến khi làm xong thức ăn, tôi gõ cửa phòng gọi.

- Xong rồi, con mời bác Sâm ra ăn!

Gọi đến lần thứ ba vẫn không nghe con gái lên tiếng, lại thấy cửa phòng hé mở, nên tôi đẩy nhẹ vào. Không có Ngọc Lan trong đó.

Tôi quay sang phòng của Sâm gọi:

- Sâm ơi, cậu có thấy con Lan đi đâu không?

Cũng không có tiếng trả lời. Phòng Sâm cũng trống trơn, lúc ấy trời đã bắt đầu tối, nên tôi hơi lo chạy ra sau nhà, cất tiếng gọi: - Lan ơi! Sâm ơi!

Kêu đến rát cả cổ mà chẳng thấy tăm hơi hai người đâu, sự lo lắng biến thành sợ hãi! Nhất là lúc ấy tôi nhìn thấy chiếc áo khoác của Ngọc Lan rơi trên lối mòn từ nhà ra suối phía sau nhà.

- Ngọc Lan!

Linh tính báo điều chẳng lành, tôi vùng chạy theo lối đó ra suối. Đến khi tới bên bờ suối thì tôi khựng lại, bởi vừa nhìn thấy có hai bóng người ngồi sóng đôi trên một gộp đá. Một trong hai người là Ngọc Lan, với mái tóc dài quá lửng mà chỉ cần nhìn từ phía sau là có thể nhận ra ngay con bé. Còn người kia...

Tôi không tin vào mắt mình. Bởi không ai khác hơn là… Sâm? Lúc ấy Ngọc Lan đang ngả đầu lên vai Sâm khóc rưng rức. Đứng chỉ cách chưa đầy ba mét, nên tôi nghe rõ tiếng khóc của con gái mình. Rồi sau đó là giọng nghẹn ngào của nó: - Sao anh không trả lời em? Có gì khó đâu, anh chỉ thú thật với ba mọi chuyện. Ba có thể nổi giận, nhưng dẫu sao anh và ba cũng là chỗ bạn bè, chẳng lẽ ổng giận chúng ta sao? Vả lại... Ngọc Lan ngừng lại vài giây rồi nó tiếp liền:

- Vả lại cái thai trong bụng em đã hơn năm tháng rồi, làm sao giấu mãi được! Tôi nghe giọng hốt hoảng của Sâm: - Không được. Anh đã nói rồi, sao em chưa chịu phá. Tôi lại nghe một tiếng thét cực lớn: - Khốn nạn. Anh tạo ra rồi bây giờ xúi tôi giết con phải không? Sau tiếng thét đó, tôi thấy người của Ngọc Lan vọt lên trong cơn kích động dữ dội! - Đừng! Khoan đã... Tiếng kêu đó là của Sâm. Nhưng đã quá trễ rồi. Khi ấy toàn thân Ngọc Lan đã lao thẳng xuống vực sâu, mà bên dưới là dòng suối đang chảy xiết.

Ngay lúc ấy, tôi nghe một tiếng gầm rú khác từ dưới vực vọng lên. Tiếng rú khác thường đó là của bầy chó sói thường ra kiếm mồi ở ven suối mỗi đêm. Tôi vừa kịp hoàn hồn, lao tới chụp lấy Sâm:

- Mày làm gì hả Sâm? Mày... mày...

Qua ánh sáng lờ mờ, tôi nhìn xuống vực và thấy rõ ràng thân thể con gái mình nằm vắt ngang trên một gộp đá bên cạnh đó là một con sói trắng đang nhe nanh! Tôi không kịp suy nghĩ gì thêm, đẩy Sâm sang một bên và lao ngay tới chỗ con tôi đang gặp nguy. Rồi, tôi không còn biết gì nữa…

Khi tôi tỉnh lại và biết mình còn sống thì bên cạnh tôi là xác đứa con gái yêu dấu của mình và... con chó sói! Chẳng hiểu tại sao lại như vậy? Có thể lúc rơi xuống, tôi đã vô tình đè lên và làm chết con vật hung dữ đang xé xác Ngọc Lan. Tôi không cần biết gì khác, cố gượng đau, ôm lấy xác con mà gào lên kêu cứu! Nhưng vô vọng, bởi ngoài Sâm ở trên kia thì khu nông trang của chúng tôi đâu có ai khác.

Tư Đạm ngừng kể, lặng im, như để nuốt nỗi đau vào lòng mình. Trâm ngập ngừng một lúc rồi mới dám hỏi: - Vậy lúc ấy chú Sâm đâu, sao không cứu?

- Có lẽ quá sợ trách nhiệm nên anh ta bỏ chạy mất! Trâm nhẹ thở dài...

Đáng lẽ cô không nên hỏi tiếp, bởi mỗi câu hỏi trong lúc này hết sức nhạy cảm, đều có khả năng khơi gợi nỗi đau và sự hận thù trong lòng người đàn ông nhiều đau khổ này... Tuy nhiên, chẳng hiểu sao cô lại buột miệng: - Rồi làm sao chú mang được xác cô Ngọc Lan lên?

Giọng Tư Đạm trở nên vô cùng thống thiết:

- Xác con tôi vĩnh viễn nằm lại ở đó! Bởi sau đó tôi kẹt lại ở vực sâu ấy đến ba ngày. Lúc tỉnh lúc mê, đến khi cuối cùng tôi tỉnh lại thì nhìn bên cạnh chẳng còn thấy xác con tôi đâu, chỉ còn lại nguyên lọn tóc dài của nó đang quấn lấy thân mình con sói bị chết! Có thể lúc tôi hôn mê, thì lũ sói khác đã tới và ăn thân thể Ngọc Lan, chẳng hiểu sao chúng lại không ăn thịt tôi! Đêm hôm đó, trong lúc tôi hầu như chỉ chờ chết, bởi kiệt lực vì đói và thương tích đầy người thì chẳng biết ai đó đã thòng dây xuống kéo tôi lên... Tôi chỉ biết bấy nhiêu thôi tôi hầu như hôn mê sâu, cho đến lúc tôi tỉnh lại. Có lẽ phải ba bốn tháng sau.

Ông ngừng kể. Vừa vuốt bộ lông mượt của con sói vừa nói sang chuyện khác:

- Từ nay Ngọc Lan sẽ ở đây.

Ngọc Trâm vẫn muốn hỏi thêm:

- Vậy còn ngôi mộ trong nhà mồ kia?

Tư Đạm bất thần nắm lấy tay Trâm: - Dẫu sao ta cũng cám ơn chú Sâm con! Khi ta tỉnh lại sau ba tháng hôn mê như vừa kể thì thấy mình đã ở trang trại này rồi! Lúc ấy ta mới hiểu, thì ra người kéo ta lên khỏi vực chính là chú Sâm của cô. Rồi anh ta lo chuyện đưa ta hồi hương, bố trí cho ta lên ở tòa nhà này. Mặc dù từ sau đó anh ta không bao giờ xuất hiện nữa...

Ông lại phải ngừng kể, thở dài như nén xúc động: - Thật ra khi về đây thì chỉ có mỗi mình ta. Còn ngôi nhà mồ và ngôi mộ kia là do ta quá thương con nên tự tay dựng lên, chớ trong mộ nào có xác của Ngọc Lan..

- Thế còn xác con sói này?

Tư Đạm nở nụ cười héo hắt: - Ta cũng không rõ. Vào một đêm, sau khi ta vừa xây xong ngôi mộ trong nhà mồ, do quá mệt mỏi nên nằm ngủ thiếp đi ngay trên đầu mộ. Lúc tỉnh lại, ta đã thấy xác con sói bên cạnh. Ta chợt hiểu, đó là vong linh con Ngọc Lan hiện về. Nó đã bị một con sói tinh ăn thịt và đã theo hồn sói về đây. Nhưng rất lạ là nó và con sói này không hề hung dữ. Mà phải nói là rất hiền lành...

Trâm đã khóc từ lúc nào rồi mà không hay. Đợi cho Tư Đạm ngừng kể, cô mới tự tay nâng xác con sói lên mà không hề sợ hãi:

- Theo con nghĩ thì chỗ an nghỉ xứng đáng cho xác con sói này chính là trong nhà mồ kia, chớ không phải ngoài này. Chú hãy nghe con, đưa xác nó vào.

Cô tiếp cùng Tư Đạm một tay, đưa xác khô con sói trở vào nhà mồ. Đẩy nắp mộ đá ra, họ đặt con sói lên chiếc gối mà trước đó Tư Đạm đã đặt sẵn cho con gái mình. - Y như một cuộc mai táng thật sự!

Trâm thành khẩn chấp tay khấn rất lâu. Đứng ngay bên cạnh, nhưng Tư Đạm cũng không rõ Trâm khấn những gì... Phần ông, ông nói thành lời:

- Con hãy yên nghỉ nơi này và hãy để cho ông nằm bên cạnh. Hãy quên hết chuyện cũ đi...

Họ ở trong nhà mồ rất lâu…

Đó là lần cuối cùng Ngọc Trâm lưu lại trang trại. Nhiều năm sau, cô nghe tin cái điền trang đó càng ngày càng có nhiều hoa hơn. Ông Tư Đạm thì tuổi đã già, sức yếu, đâu còn chăm sóc vườn tược chu đáo nữa, vậy mà các luống hoa vẫn tươi, vườn layơn vẫn rộ nở buổi ban mai...

 

CHUYỆN TÌNH NGƯỜI VÀ CÁ

(Tác giả: Bồ Tùng Linh)

 

Ở vùng Trực Lệ có chàng trai tên là Mộ Sinh. Anh là con của một nhà buôn Mộ Tiểu Hoàn. Mộ Sinh vốn thông minh, học giỏi nhưng người cha cho rằng văn chương là cái nghề viễn vông không thực tế, năm mười sáu tuổi Sinh bị cha buộc thôi học chữ để bước vào tập việc trong nghề buôn bán. Người cha dẫn Sinh sang đất Sở tìm kiếm thị trường. Họ đi bằng thuyền đến đất Sở. Trên sông nước mông mênh hiu quạnh nên những lúc rảnh rỗi Mộ Sinh lại ngâm nga thơ phú, đôi lúc cao hứng anh ngâm lớn làm vang động cả khúc sông. Thỉnh thoảng, anh thấy sau song thuyền một bóng người đang nấp nghe trộm nhưng vẫn không để ý lắm. Đêm nọ, Mộ ông lên bờ đi ăn cơm khách đến khuya vẫn chưa về, Sinh cảm thấy vui thích vì vắng cha nên đem thơ phú ra đọc tụng. Lúc ấy ánh trăng sáng vằng vặc ngoài sông nên cảnh vật hiện lên rõ ràng. Một bóng người lại thấp thoáng. Sinh lấy làm lạ, vội chạy ra xem là ai. Anh gặp một thiếu nữ rất đẹp chừng mười lăm mười sáu tuổi. Vừa chợt thấy Sinh, thiếu nữ trốn mất. Hai hôm sau thuyền đậu bên một bờ hồ, người cha cũng đã lên bờ đi chơi. Đang thơ thẩn trong khoang thuyền bỗng Sinh thấy một bà cụ xin xuống thuyền và nói rằng:

- Anh hại chết con gái tôi rồi!

Sinh kinh ngạc hỏi đầu đuôi, bà kể: - Con gái tôi là Bạch Thu Luyện vốn yêu văn chương chữ nghĩa. Nó bảo khi còn ở quận thành có dịp nghe anh ngâm thơ nên đem lòng tưởng nhớ, và sinh ra tương tư đến nỗi lâm bệnh, bỏ cả ăn cả ngủ. Nó nói rằng chỉ muốn sống cùng anh, tôi can thế nào nó vẫn không chịu.

Sinh nghe nói thế bụng lấy làm thoả mãn và thích chí, anh thưa với bà cụ là anh ưng ý lắm nhưng chỉ sợ cha phản đối. Bà lão cũng dễ tính, bảo anh chỉ cần ước hẹn một lời, nhưng Sinh từ chối vì còn phải hỏi ý cha. Bà lão giận mắng:

Lương duyên chỉ gặp một lần, có khối kẻ cầu cạnh mà tôi chưa chịu, nay thân già phải khúm núm tự đi làm mối con mà anh chối thì nhục lắm. Anh đã không thấu nhân tình như thế thì đừng hòng đi được tới miền Bắc.

Nói rồi bà lên cầu đi thẳng. Khi cha về, Mộ Sinh khéo chọn lời ngỏ ý cùng ông, mong ông thuận cho chàng lấy vợ nhưng người cha vô tâm, cứ ngỡ con mình vì đường xa hiu quạnh nên nhớ con gái mà nói năng hão huyền. Ông không thèm bận tâm nữa.

Đêm ấy, chỗ đang cắm thuyền bỗng nhiên đất nổi lên làm thuyền mắc cạn, không sao nhúc nhích được. Trong hồ đều có những thuyền gặp nạn như thế nên hàng hoá nhiều khi hàng tháng trời không vận chuyển được đến nơi khác, vì thế mà giá hàng lên vùn vụt hơn giá ngày thường, do đó Mộ ông cứ nhởn nhơ, dặn con ở lại trông hàng, ông trở về Nam cất thêm hàng ra nữa để sang năm con nước lên, thuyền sẽ thẳng đến mạn Bắc bán hàng, kiếm món lời to.

Thấy cha đã trở về bỏ một mình lại, Sinh càng mừng trong bụng, chỉ tiếc rằng chẳng biết bà lão ấy cư ngụ nơi đâu để đi tìm. Một buổi trời đã sụp tối, bà lão lại đến, lần này có thêm mấy người hầu khiêng theo thiếu nữ. Bà lão nhăn nhó với Sinh: - Con tôi ốm gần chết thế này mà anh cũng nhởn nhơ thế ư?

Nói rồi bà cùng bọn người hầu bỏ thiếu nữ lại, lên bờ đi thẳng. Sinh hoang mang không biết làm sao, nên cầm đèn xem sức khoẻ cô gái thì thấy nàng tuy đang đau yếu, nhưng vẫn còn nét đẹp diễm lệ não nùng, ánh mắt thu ba vẫn liếc đưa tình tứ.

Sinh tìm chuyện hỏi han an ủi nàng. Nghe hỏi mãi nguyên do sinh bệnh, nàng ấp úng:

- Khi xưa em nghe chàng ngâm bài gì trong truyện "Mái Tây" nên đâm ra mê đắm rồi sinh bệnh chàng hãy ngâm lại cho em nghe: "Vì ai yếu ớt, thẹn vì ai" (một câu trong bài Tây Sương ký).

Sinh sướng quá muốn ôm lấy nàng nhưng thấy nàng còn yếu nên chưa dám. Cô gái gần Sinh như uống được thần dược, dần dần tươi tỉnh: - Chàng hãy vì em mà ngâm tiếp bài "La y điệp điệp" của Vương Kiếm, ngâm ba lần là em khoẻ ngay.

Sinh hứng chí ngâm liền. Mới ngâm đến hai lần nàng đã đứng dậy được, vui vẻ: - Thiếp cảm thấy khoẻ rồi. Sinh vẫn ngâm tiếp lần thứ ba, nàng cất giọng oanh vàng khẽ run run ngâm hoạ theo. Cả hai tâm hồn như cùng quyện vào nhau và họ vui vầy suốt đêm.

Sáng hôm sau trời chưa ló ánh bình minh, nàng đã trở dậy:

- Mẹ em sắp tới rồi đấy!

Quả nhiên, một lát bà lão đến. Nhìn thấy con gái mặt mày tươi tỉnh khoẻ mạnh, bà lão giục con mau về. Nàng không đáp, tỏ ý bất bình, bà lão cũng không ép, chỉ giận dỗi bỏ đi: - Mày cứ vui duyên mới, ta về đây.

Sinh gặng hỏi nơi cư ngụ của nàng, cô gái thở dài: - Em với chàng duyên như bèo nước gặp nhau, đã chắc chi mà nói chuyện dài lâu, hỏi nơi ở của em làm gì? Tuy nói buồn vậy nhưng giữa hai người vẫn đượm tình quyến luyến, lại cùng thề non hẹn biển. Vài hôm sau, bỗng một đêm nọ nàng giở một quyển sách ra xem rồi nức nở khóc. Sinh vội hỏi nguyên do, nàng đáp: Cha anh sắp trở lại, chuyện của đôi ta, em vừa bói được một quẻ không hay trong sách này.

Sinh an ủi: - Chuyện bói toán mơ hồ, việc chi mà phải buồn vì nó? Nàng hơi bớt buồn nhưng vẫn bảo:

- Sợ cha anh về, đem theo nhiều người làm rồi sinh ra lắm lời dèm pha. Xin tạm biệt hôm nay, đợi dịp khác vậy.

Sinh buồn rầu, ân cần nắm tay nàng: - Nếu như ý cha thuận việc hôn ước, anh biết tìm em ở đâu?

Nàng thản nhiên đáp: - Em vẫn theo dõi việc nhà chàng, nếu cha đồng ý tất em sẽ biết.

Sinh đòi lên bờ đưa tiễn, nhưng cô gái khăng khăng từ chối, chỉ muốn đi một mình.

Vài ngày sau cha Sinh đã về tới. Mộ Sinh lựa dịp thuận tiện ngỏ ý với cha về việc hôn nhân. Người cha lại càng sinh nghi, ngờ khi vắng mặt ông, anh đã giở trò trăng gió với ai đó nên ông mắng nhiếc rồi rà soát lại hàng hoá trên thuyền, thấy mọi vật y nguyên nên ông mới bớt giận.

Sinh không biết tính sao nhưng bụng vô cùng giận cha. Đêm nọ khi Mộ ông lên bờ thì đột nhiên cô gái đến. Hai người bồi hồi xúc động và cảm thấy buồn vì không biết phải tính kế ra sao. Nàng than:

Nghĩ cho cùng, ai cũng có số mệnh. Đường dài thật chẳng biết ra sao nhưng trước mắt, em xin ở lại với chàng ít lâu rồi sẽ liệu sau.

Khi chia tay nhau, nàng hẹn với Mộ Sinh mỗi lần muốn gặp nàng thì anh cứ ngâm thơ lên, nàng sẽ đến. Từ đó Sinh chỉ đợi dịp vắng mặt cha là ngâm thơ, quả lần nào nàng cũng y hẹn.

Tiết đã gần qua tháng tư, đột nhiên giá hàng xuống vùn vụt khiến các nhà buôn đều hoảng hốt. Họ bèn lấy tiền mua lễ vật cúng bái thuỷ thần cầu con nước sớm lên để vận chuyển hàng hoá đi bán nhanh chóng. Sau tiết Đoan Dương, trời bỗng nổi mưa như trút, nước hồ dâng cao nên thuyền bè đã đi lại được. Nhà họ Mộ cũng nhổ neo về quê.

Đến nhà, Mộ Sinh lại ngã bệnh vì tương tư. Cha lo lắng lắm, chạy chữa hết thuốc thang và đến khắp đền chùa cầu cúng mà xem ra vô hiệu. Mộ Sinh chỉ nói riêng với mẹ: - Bệnh con không cần thuốc, chỉ cần nhìn thấy mặt Bạch Thu Luyện là khoẻ ngay.

Nghe lọt câu ấy Mộ ông càng giận dữ, mắng chàng như tát nước, nhưng càng ngày thấy bệnh chàng càng nặng đến độ trơ ra như bộ xương khô nên ông cảm thấy sợ hãi. Theo ý Sinh ông thuê xe đưa con trở lại đất Sở, tìm đến bờ hồ nơi họ đã cắm thuyền lúc trước. Mộ ông hỏi thăm khắp nơi mà vẫn không ai biết nhà họ Bạch ở đâu.

Mộ ông gần tuyệt vọng, hôm nọ đi dạo trên bờ hồ bỗng ông gặp một bà lão chèo thuyền quanh hồ. Ông hỏi thăm, không ngờ bà lão xưng là họ Bạch. Mộ ông xin lên thuyền rồi nhìn thấy một thiếu nữ xinh đẹp, hỏi tên đúng là Thu Luyện. Mộ ông khấp khởi mừng thầm, nhưng khi hỏi về gia thế thì ông biết họ là dân thuyền chài, suốt đời lênh đênh sông nước. Mộ ông kể chuyện con trai mình sắp chết, mời Thu Luyện về nhà mình nhưng bà lão từ chối, nói rằng con gái mình không hẹn ước cùng ai nên không thuận. Nhưng cô gái nghe chuyện thì nước mắt tuôn trào, nàng nằng nặc đòi đi. Bà lão đành chiều ý con. Đêm ấy, quả nhiên nàng tới một mình, đến bên giường Mộ Sinh mà khóc: - Không ngờ bệnh em lại lây sang chàng, nhưng có vậy chàng mới biết vị sầu thảm tương tư. Nhưng chàng yếu quá rồi, có lẽ nghe em ngâm thơ may ra chàng mới thuyên giảm. Sinh vui mừng, đòi đem những bài thơ cũ đã từng ngâm cùng nhau ra ngâm lại. Ngâm đến câu "hương sen nồng đượm vẫn thơm xa" thì Sinh đã khoẻ hẳn đứng dậy được, chàng ôm lấy nàng đùa cợt: - Ta có bệnh bao giờ đâu? Hai người đều vui, Sinh chợt hỏi: - Cha anh đã gặp mẹ em rồi, việc của ta liệu thành được không?

Nàng đáp: - Em đã gặp cha, chắc không xong rồi!

Nói xong nàng từ biệt ra về. Mộ ông quay trở lại thấy chàng đã khoẻ nên mừng lắm, ông bèn tỏ lời khuyên: - Cô ấy trông cũng đẹp, nhưng sống lênh đênh sông nước như vậy, liệu còn giữ được sự trong trắng không?

Sinh bất bình nhưng không nói. Đợi cha đi khỏi chàng lại ngâm thơ gọi nàng. Lần này nàng nói: - Em tính rồi, cầu cạnh mãi cũng vô ích thôi. Chi bằng cứ phó mặc cho Trời định liệu. Sinh hỏi có kế gì hay, nàng đáp: - Phàm dân buôn thì chỉ tính đến lợi. Em có thuật riêng biết trước giá hàng, em thấy trong chuyến này cha chàng mang toàn những loại kém giá trị, giờ đây em sẽ mách cho chàng những loại hàng sắp lên giá gấp nhiều lần. Nếu thấy linh nghiệm chắc cha sẽ mừng mà thuận cho em lấy chàng ngay. Một vài năm nữa ta cũng vừa tuổi, vội vàng làm chi?

Mộ Sinh đem hết lời nàng dặn về các loại hàng kể cho cha nghe. Cha Sinh còn bán tín bán nghi nên chỉ nghe dè dặt, do đó chuyến hàng vẫn có lãi đôi chút chứ không lỗ. Khâm phục tài tiên tri của Thu Luyện, Mộ Sinh lại bịa thêm chuyện Thu Luyện có thể làm cho cả nhà giàu lớn. Lần sau Mộ ông hoàn toàn nghe lời nàng thì trúng to.

Mộ Sinh được cha cho phép mua sính lễ. Anh tìm mãi mới gặp chiếc thuyền nhỏ của lão bà họ Bạch. Anh xin cưới con gái bà rồi thuê một chiếc thuyền lớn làm lễ hợp cẩn. Cưới hỏi xong nàng hối chồng về Nam mang theo một số hàng lớn do nàng căn dặn. Dĩ nhiên chuyến hàng lãi to. Khi về nàng có đem theo vài vò nước hồ và mỗi lần xuôi Nam nàng vẫn mang theo loại nước ấy. Sau vài năm nàng sinh đặng con trai.

Một ngày nọ nàng xin phép được về nước Sở thăm mẹ, Mộ ông cho hai vợ chồng ra đi.

Đến bên bờ hồ tìm mãi vẫn không thấy thuyền mẹ đâu, Thu Luyện gõ vào mạn thuyền ít cái rồi biến sắc mặt sai chồng đi lùng khắp hồ. Mộ Sinh đi tìm, trong lúc ấy anh tình cờ đến nhà một thuyền chài vừa bắt được con cá chép trắng, nhìn xem thì anh thấy con cá to lớn, hình dáng giống hệt như người và có đầy đủ bộ phận của con người. Sinh lấy làm lạ, tối về kể với vợ.

Nàng có vẻ thất sắc, hốt hoảng nhờ chồng cố mua được con cá ấy để phóng sinh. Anh quay lại nhà chài xin mua nhưng nhà chài đòi giá cao quá chàng không mua nên trở về và kể với vợ, nàng giận dỗi:

Em về nhà chàng bấy lâu và đã vì nhà chàng mà sinh lợi rất nhiều, nay chàng tiếc tiền chăng? Nếu không được con cá ấy, em sẽ đâm đầu xuống hồ mà chết cho xong.

Sinh hoảng sợ vội vã mang thêm tiền chạy đi mua. Khi trở về Sinh không thấy mặt vợ. Một lúc sau nàng mới về nói: - Em vừa đi thăm mẹ.

Sinh hỏi mẹ ở đâu, nàng ngập ngừng:

Đúng ra, chưa nên nói. Nhưng không sao, bây giờ em nói thật với chàng, con cá mà chàng mua về là mẹ em đó. Vì có chút lỗi với Long Vương, nên mẹ em bị trừng phạt đến chết, còn em thì bị tuyển vào cung Long Vương nhưng vì yêu thương chàng mà em cưỡng lại. Nếu bây giờ, chàng biết phận em mà không ưng vì khác loài thì em xin đi, trả con lại cho chàng. Còn muốn tai qua nạn khỏi hãy cố thành tâm mà cầu với Chân Quân.

Mộ Sinh sợ hãi hỏi Chân Quân ở đâu, nàng đáp:

Giờ mùi ngày mai, ngài sẽ tới, chàng cứ thấy vị đạo sĩ nào khập khiễng thì cứ quỳ lạy. Đạo sĩ có xuống nước thì cũng cố xuống theo. Thành tâm thì may ra ông ấy chứng cho.

Nàng đưa cho Mộ Sinh một vuông vải trông giống như cái vảy cá rồi bảo: - Nếu đạo sĩ hỏi muốn gì chàng hãy đưa vuông vải này và xin ông viết cho một chữ "miễn" là được.

Sinh nghe lời hôm sau ra bờ hồ đứng đợi, Quả có một đạo sĩ khập khiễng đi tới, đạo sĩ có vẻ vội vã nên đi thẳng không nhìn ai. Sinh lẳng lặng theo sau. Đến bờ hồ đạo sĩ ném một chiếc gậy xuống mặt nước rồi leo lên. Mộ Sinh vội vã leo theo. Gậy đột nhiên biến thành một chiếc thuyền.

Sinh sụp xuống lạy. Đạo sĩ hỏi: - Ngươi muốn gì mà lẽo đẽo theo ta? Chàng đưa vuông vải xin viết một chữ, đạo sĩ kinh ngạc: - Cái vây con cá chép đây mà, sao ngươi có? Mộ Sinh cứ đầu đuôi kể thật. Đạo sĩ cười ha hả: - Lão Long Vương này đúng là lắm vợ, ta e hoang dâm như vậy là không nên. Nói xong ông viết tháu chữ "miễn" như vẽ bùa rồi bảo Sinh lên bờ.

Ngoảnh lại thì Sinh thấy thuyền vùn vụt ra xa rồi biến mất. Sinh về đến thuyền mình, Bạch Thu Luyện mừng lắm nhưng cấm chồng không được kể ra tông tích nàng. Rồi nàng theo chồng trở về và vẫn mang theo mấy vò nước hồ.

Sau vài năm, nhân một chuyến Mộ ông chở hàng đến Sở, nàng yêu cầu ông mang về cho nàng vài vò nước hồ, nhưng không hiểu vì trắc trở buôn bán ra sao mà qua mấy tháng Mộ ông vẫn chưa về. Đợi đến khi nước hồ đã cạn, nàng bỗng nhiên ngã bệnh. Bệnh càng ngày càng nặng và nàng thoi thóp thở, căn dặn chồng:

Khi em chết chàng đừng vội chôn. Cứ đến các giờ Mão, Ngọ, Dậu, chàng ngâm bài thơ "Mộng thấy Lý Bạch" của Đỗ Phủ thì dù chết, xác em vẫn còn tươi. Đợi khi cha về mang theo nước hồ về, chàng đổ nước vào bồn, ngâm em vào đó, em sẽ sống lại.

Thoi thóp được mấy ngày nữa rồi nàng mới chết thật, Mộ Sinh y lời ngong ngóng đợi cha. Đến gần hết tháng. Mộ ông mới trở về, Sinh làm theo lời nàng dặn.

Ngâm nước được nửa ngày thì quả nhiên nàng dần dần tỉnh lại và sống hẳn như người thường. Biết tính vợ không thể không có nước hồ đất Sở, Mộ Sinh muốn dọn nhà luôn đến tận cạnh hồ cho tiện.

Đợi vài năm Mộ ông qua đời, Mộ Sinh đưa vợ con đến đất Sở, làm nhà bên cạnh hồ và gia đình sống hoà thuận đến hết đời.

 

HỒN HOA

(Tác giả: Người Khăn Trắng)

 

Đi suốt hơn hai ngày, cuối cùng Hoàng Duy mới tạm ưng ý một nơi mà anh định chọn để vẽ trong thời gian lưu lại thành phố Đà Lạt. Đúng là khó chọn chỗ trong một nơi có quá nhiều phong cảnh đẹp như thế này. Tuy nhiên, với một họa sĩ thì không hẳn nhà sang trọng, cảnh trí hào nhoáng là có thể vẽ...

Với Duy, anh chỉ mong tìm một khung cảnh hoang sơ, thâm u càng tốt. Và nơi này, một biệt thự bỏ hoang hay ít ra là cũng rất cũ, sân cỏ mọc đầy chừng như rất ít người lui tới.

Tìm mãi mới gặp một cụ già đang cuốc đất cách ngôi nhà gần trăm mét, Hoàng Duy dò hỏi:

- Thưa ông, cháu muốn hỏi thăm chủ của ngôi nhà kia?

Ông lão ngẩng lên nhìn Duy rồi nhìn theo hướng chỉ của anh. Khi nhận ra ngôi nhà, ông lắc đầu bảo: - Làm gì có chủ mà hỏi. Nhưng cậu tìm để làm gì?

Duy thú thật:

- Thưa bác, cháu cần tìm nơi trú ngụ ít lâu để vẽ tranh. Cháu thấy nơi đây thích hợp nên định...

Dừng cuốc, đưa tay lau mồ hôi trán, ông cụ bảo:

- Nếu muốn vẽ tranh thì cậu tha hồ muốn vẽ gì cũng được ở đó. Nhưng nếu để ở thì... e khó.

- Bởi vậy cháu mới định gặp chủ nhà để hỏi thuê, hoặc…

Ông lão ngừng hẳn tay làm, ông chỉ một tảng đá gần đó rồi cùng Duy ngồi xuống. Giọng ông chân tình: - Chắc cậu là người ở xa đến nên không biết gì về ngôi nhà này. Đây là một biệt thự đã xây trên nửa thế kỷ rồi, đầu tiên là của một người Pháp, sau đó đổi chủ là một viên chức cao cấp của thời Bảo Đại, rồi kế đến là một trọc phú ở Sài Gòn lên mua để nghỉ ngơi cuối tuần. Nhưng chuyện đó đã cách nay gần 30 năm rồi. Từ ấy ngôi nhà hầu như bỏ hoang...

Hoàng Duy chép miệng: - Uổng quá! Sao người ta có thể uổng phí với một ngôi biệt thự bề thế này hả bác? Lý do sao vậy bác?

Ông lão lại nhìn Duy lần nữa, định trả lời, nhưng nghĩ sao, ông lại thôi, chỉ nhẹ lắc đầu rồi nói lảng sang chuyện khác: - Trong lúc nhiều người không có nhà ở, nơi này lại bỏ không…

Ông đứng lên, nói với lại: - Nhà không ai ở, cậu muốn vẽ gì thì cứ vô mà vẽ, nhưng không nên ở lại.

Ông lại trở về với công việc của mình, như muốn tránh những câu hỏi tiếp theo của vị khách trẻ.

Hoàng Duy tự hiểu, anh nghĩ chắc là cũng chẳng khai thác thêm được gì. Vả lại, biết đâu lại là một dịp may, bởi Duy vốn không muốn phiền lụy ai...

Nghĩ thế nên Duy một mình bước thẳng vào sân ngôi biệt thự to đùng. Anh chưa vô nhà, mà đánh một vòng khắp sân trước, sân sau để quan sát.

Đúng là ngôi nhà hoang, khắp nơi cỏ mọc đầy gần ngang ngực.

Nhìn những gốc đào, những cây ăn trái quá lâu ngày không được chăm sóc, tưới tiêu đã khô trơ lá, Duy đâm tiếc nên đứng săm soi khá lâu. Bước thêm một đoạn nữa, Duy thích thú khi phát hiện một hòn giả sơn, tuy không còn nước và hoang phế theo thời gian, nhưng dáng vẻ, cách tạo hình chứng tỏ chủ nhân trước đây khá sành nghệ thuật chơi non bộ.

Cách không xa, có một cái hồ bán nguyệt, tuy chung quanh cỏ che phủ hết, nhưng dưới hồ lại còn có nước và lạ thay, có một đóa hoa sen hồng đang nở rất đẹp.

Hình ảnh khác thường như hớp hồn chàng họa sĩ lãng mạn, nên anh quên cả gai góc, vội vẹt cỏ bước đến bờ hồ để nhìn cho rõ hơn đóa hoa. Chưa bao giờ Duy thấy đóa hoa sen nào có màu sắc tươi thắm và đẹp đến như thế này. Đẹp đến mê hồn.

Hương thơm từ nhụy hoa theo gió thoảng phả vào mũi làm cho Duy chợt rùng mình. Anh buột miệng: - Lạ thường.

Rồi như mê đắm, cao hứng tột cùng, Duy lấy khung vải, cọ, màu rồi vẽ như ngây như dại. Chỉ trong vòng nửa tiếng, trên nền vải đã hiện ra hình dáng đóa sen hồng đẹp như đóa hoa trước mặt. Khi ngừng cọ, Duy mới chợt nhận ra là bụng đói cồn cào, miệng khát nước đến gần khô cháy cổ họng. Mặt trời đã hơi ngả khỏi đỉnh đầu, với cái nắng càng gay gắt hơn...

Hơi thấm mệt, Duy quay bước vào thềm ngôi nhà hoang, nhưng mắt thì vẫn liếc nhìn như không nỡ rời đóa sen hương sắc kỳ lạ kia. Khi đã ngồi phệt xuống thềm nhà, Duy mới chợt có ý nghĩ hay là tranh thủ thiếp đi một lát...

Có lẽ đến hơn một giờ sau..

Lúc Duy choàng dậy, anh tìm trước tiên là bức tranh vừa vẽ. Nó vẫn nằm trên túi vải, nhưng như bị điện giật, Duy chụp lấy bức tranh và nhìn trân trối. Lúc nãy Duy vẽ đúng đóa sen, chưa kịp tỉa tót, nhưng giờ đây sao lại có một con bướm đang đậu trên đài hoa? Không tin vào mắt mình. Duy đưa tay xua nhè nhẹ, nghĩ rằng đó là con bướm thật đã vô tình đậu vào...

Nhưng khi chạm vào nó, ngón tay của Duy đã bị dính màu còn ướt. Con bướm do ai đó mới vẽ lên.

- Ai vậy?

Nghĩ là có người nào đó nhân lúc mình ngủ quên, đã nghịch phá. Nhưng nhìn quanh một lượt Duy chẳng thấy ai. Anh lại lên tiếng hỏi:

- Ai vừa ở đây?

Hỏi mãi mà chẳng có ai đáp, Duy bắt đầu bực, anh lấy cọ và màu định xóa con bướm đi. Nhưng mỗi lần cọ sắp chạm vào thì cánh bướm như chập chờn! Duy lại ngừng và định thần giây lát rồi sờ lần nữa. Không thể sai được, con bướm như đang đùa cợt anh. Duy đặt tấm tranh xuống và bước nhanh về phía hồ sen. Và một lần nữa mắt anh như hoa lên: Có một con bướm đang đậu trên đóa hoa sen giữa hồ!

Nếu là người khác thì chắc đã rút khỏi ngôi biệt thự hoang phế ngay lúc xảy ra chuyện lạ trên bức tranh hoa sen. Nhưng với Duy, hình như có sự thôi thúc nào đó, khiến anh có quyết tâm cháy bỏng là phải ở lại nơi đó.

Lưu lại, trước tiên là để được ngắm tiếp bông hoa kỳ lạ kia, thứ hai là chờ đợi một điều gì đó mà chính Duy cũng không biết là gì... Anh mở cửa một căn phòng phía sau ngôi nhà, nơi có cửa sổ trông ra hồ bán nguyệt và hòn giả sơn.

Căn phòng vẫn còn lại chiếc giường lò xo đã cũ, nhưng vẫn còn sử dụng được, chỉ có điều là quá nhiều bụi. Hơn 30 năm nay không có người ở rồi còn gì. Nhưng không sao, Duy ra sức dọn dẹp hơn một giờ sau là đã tươm tất sạch sẽ, anh nghĩ thầm, có phần diễu cợt: Đêm nằm ngủ mà có nàng nào vào ngủ cùng thì thú vị biết mấy.

Mua sẵn 10 cây nến, Duy dự tính, mỗi đêm anh sẽ đốt một cây, khi nào nến cháy hết là ngủ, không đốt thêm.

Như vậy anh sẽ có đủ ánh sáng trong suốt 10 đêm, một thời gian đủ dài để anh thực hiện việc sáng tác như ý.

Việc đầu tiên của đêm đầu. Duy lấy bức họa hoa sen ra xem lại. Và một lần nữa như có ai đùa cợt với anh: Con bướm trên bông hoa đã biến mất!

Đáng lý phải sợ hãi trước hiện tượng kỳ bí này, nhưng trái lại, tự dưng Duy đâm ra lì lợm, anh bỗng nảy ra một ý nghĩ táo tợn: - Lấy khung vải khác ra và vẽ theo trí nhớ đóa hoa sen và khéo tưởng tượng ra một cô gái nhô lên từ dưới nước, nàng đang nâng niu đóa hoa. Cô gái thật đẹp với mái tóc dài, da trắng, môi son...

Trí tưởng tượng của một họa sĩ đôi khi vượt quá hiện thực mà vẫn như chưa vừa ý, nên Duy cứ tô vẽ thêm, để gương mặt mỹ nhân càng lúc càng sắc sảo hơn, quyến rũ hơn...

Bên ngoài cửa sổ trăng bắt đầu lên. Đêm thanh vắng, với ánh trăng bàng bạc càng làm cho khung cảnh thêm trữ tình và huyền bí. Tự dưng Duy nổi hứng, anh đặt bức tranh xuống rồi nhẹ bước ra khỏi phòng, đi về phía hồ sen. Dưới ánh trăng, đóa sen hồng như khoe sắc trọn vẹn hơn, lung linh, sống động hơn. Hoàng

Duy phải buột miệng lần nữa:

- Tuyệt đẹp!

Anh mê mẩn tâm thần, hồn như bị cuốn hút vào hương sắc bông hoa. Quên thời khắc, quên cơn gió thổi càng lúc càng mạnh và trời tối sầm lại. Có một cơn mưa kéo đến. Bị mất hứng đột ngột, Duy bịn rịn hồi lâu rồi đành lòng quay vào. Anh thầm nghĩ: Tội nghiệp, không khéo trời mưa giông làm cánh hoa tan tác mất!

Duy chợt muốn quay lại để hái ngay đóa sen vào, nhưng lại bỏ ngay ý đó, bởi xưa nay Duy chán ghét làm lìa cành bất cứ bông hoa nào. Với Duy, hoa chỉ đẹp khi nó ở trên cành nguyên vẹn.

Mãi nghĩ ngợi miên man, Duy đã bước vào phòng mà không hay. Ngọn nến bị gió thổi chao đảo, suýt tắt rồi lại sáng tỏ lại. Vừa lúc mắt Duy sững sờ dừng lại trước tấm lưng thon, mái tóc dài phủ tận thắt lưng của cô gái nào đó đang đứng giữa phòng, mặt quay vào tường.

- Ai vậy?

Giọng của Duy hơi run. Chợt nàng quay lại và rõ ràng hồn phách của anh chàng liều mạng cũng phải choáng váng: Một cô gái đẹp lạ thường, đẹp như trong tranh... à, mà đúng rồi, nàng ta đúng là hiện thân của mẫu người trong tranh mà Duy vừa vẽ!

Trong lúc Duy chưa kịp hoàn hồn thì nàng ta đã lên tiếng:

- Đã dám vẽ trộm người ta mà còn sợ nỗi gì nữa?

Duy lắp bắp:

- Cô... Cô là…

Nàng cầm bức tranh lên và cười:

- Cũng may là anh vẽ không dở nên tôi tha cho tội lạm dụng.

Bấy giờ nàng mới nhìn thẳng vào mắt Duy, giọng nói hơi nghiêm:

- Tôi thích kiểu người gan dạ như anh. Đã biết đây là nhà ma mà vẫn chui vào ở và còn dám đùa cợt với ma nữa.

Bằng phản xạ tự nhiên. Duy đảo mắt nhìn xuống chân cô nàng. Người ta thường cho rằng hễ là ma thì đứng không chạm đất, đằng này...

Chừng như hiểu ý Duy, nàng cười phá lên:

- Có những loại ma đi đứng giống như người thường, anh không ngạc nhiên sao?

Duy không còn tự chủ nữa, anh phải vịn thành giường mới đứng vững, và cho đến lúc này anh vẫn không tài nào nói câu gì cho rõ nghĩa. Trong lúc nàng vẫn huyên thuyên:

- Đúng căn phòng này trước đây tôi đã ngủ. Anh không nghe người ta nói nằm ngủ trên giường người con gái đã chết thì... Coi chừng bị nàng ta bắt hồn đó!

- Thế… cô...

Thế là đến lúc ấy Duy mới thốt lên được, nhưng cũng dừng ngang, bởi nàng như hiểu ý, đã chặn lời:

- Anh muốn hỏi liệu tôi có bắt hồn anh đi không chứ gì? Theo anh, anh có muốn cùng đi với tôi không?

Nói đến đó nàng từ từ bước tới, đến rất gần bên Duy, rất gần.

Người Duy như cứng đờ ra, anh nửa muốn vùng chạy, nửa lại muốn đứng yên xem nàng làm gì. Mà cũng phải thôi, trước một mỹ nhân nhan sắc quyến rũ nhường ấy, thì dù nàng có là yêu ma, liệu đã mấy ai đủ sức bỏ chạy?

Hơi thở của nàng bắt đầu phả vào mũi Duy, anh ngửi được mùi thơm chết người, lại sắp chạm được vào thịt da trắng nõn nà kia...

- Nằm xuống đây, còn đợi gì nữa!

Duy hoàn toàn mất khả năng tự vệ...  

- Này, cậu gì ơi! Dậy đi, gần giữa trưa rồi!

Ông lão gọi đến lần thứ tư thì mới thấy Duy động đậy. Anh chỉ mở mắt nhìn chớ chưa ngồi dậy được. Toàn thân anh tê nhừ, rã rời như qua một cơn bạo bệnh. Đến khi định thần nhìn kỹ lại, Duy mới thu hết sức tàn, ngồi dậy, vừa ngơ ngác hỏi:

- Cháu đang ở đâu vậy bác?

Ông cụ cuốc đất đang đứng trước mặt Duy, ông lắc đầu bảo:

- Sáng nay tôi ra cuốc đất và chợt nhớ đến cậu, tôi chờ mãi mà chẳng thấy cậu đến vẽ tranh nên tôi nghi và tôi đi vào đây quả nhiên...

Ông nhìn quanh căn phòng bằng cặp mắt e dè và chờ câu trả lời của Duy. Anh chàng như người tỉnh lại từ giấc mơ, run giọng hỏi:

- Bác có thấy...?

- Cậu nói thấy cái gì? Hay là cậu...

Ông lão nhìn Duy dò xét. Nhận ra nét mệt mỏi và ngơ ngác của anh, ông lo lắng hỏi:

- Có phải cậu gặp yêu ma gì, phải không?

Có một nỗi sợ hãi hiện ra, làm cho Duy rụt rè:

- Dạ không...

Dò hỏi thêm một lúc nữa, vẫn không khai thác được gì ở Duy, ông cụ quay ra, nhưng nói với lại:

- Cậu gan góc đầy mình nên mới dám ở lại nơi này. Theo tôi thì cậu nên đi chỗ khác, ở đây...

Ông không nói hết câu đã bỏ đi. Duy gượng đứng dậy nhưng lại khụy xuống đến vài lần.

 Sau cùng, anh phải lần thành giường mới bước được ra ngoài. Trong lòng Duy muốn rời ngay, bởi anh vừa nhớ lại mọi việc đã qua, mà đầu óc anh còn hoang mang không biết đó là mơ hay thực? Nhưng cơ thể thì không theo ý của anh... Duy cứ đi quanh quẩn trước sân khá lâu.

Việc Duy vào khám phá ngôi biệt thự hoang phế chỉ mỗi ông lão cuốc đất biết. Ông ta cứ nghĩ là sau lời khuyên của mình Duy sẽ rời xa đó lập tức. Nào ngờ những ngày sau đó ông ta vẫn còn thấy chàng trai vào ra nơi đó. Điều gì đang xảy ra thì chỉ có Duy biết. Nhưng anh chàng càng lúc như càng muốn lánh xa ông lão...

Nếu ai để ý sẽ thấy sắc diện của Duy ngày càng xanh xao, như người cõi âm...

Ông cụ cuốc đất có ý chờ gặp Duy để nói cho anh nghe một chuyện vô cùng quan trọng về ngôi biệt thự đó... Nhưng chờ suốt mấy ngày vẫn không gặp. Rồi ông lại phát bệnh khá nặng nên nằm liệt giường. Câu chuyện ông định kể liên quan đến cái hồ bán nguyệt, rằng ngày trước một cô gái của chủ ngôi nhà đã thất tình và đang đêm lén ra trầm mình dưới đó, chết đi để lại bao nỗi tiếc thương, uất hận của cả nhà, chẳng hiểu cô chết oan hay sao đó, mà đêm nào cũng hiện hồn về kêu gào thảm thiết, khiến cha mẹ cô phải quyết định chuyển nhà về Sài Gòn, rồi từ đó biệt tăm luôn...

Tuần sau thì ông cụ chết vì trọng bệnh.

Thế là câu chuyện bí ẩn của ngôi nhà cũng theo ông đi luôn...

 

CHÀNG THƯ SINH HỌ DIỆP

(Tác giả: Bồ Tùng Linh)

 

Miền Hoài Hương có chàng thư sinh họ Diệp, không rõ cả tên và tự. Văn chương từ phú trội nhất đương thời, nhưng đến đâu cũng lận đận, long đong khốn khổ mãi trong trường công danh.

Gặp lúc ông Ðinh Thừa Hạc, người Ðông Quan, đến làm quan ở ấp ấy, xem văn chương của chàng, cho là kỳ tài, bèn mời đến đàm đạo.

Ông rất bằng lòng, cho chàng đến ở trong dinh thự, cơm nước đèn sách, cấp cho đầy đủ, thỉnh thoảng lại gửi tiền thóc về giúp đỡ gia quyến nữa.

Ðến kỳ sơ thí, ông hết sức tán dương văn tài của chàng trước mặt quan học sử, rồi đó chàng đỗ đầu hàng xứ. Ông trông mong vào chàng rất tha thiết; sau khi vào trường thi Hương, cho lấy văn của chàng để xem và đọc vừa gõ bàn đánh nhịp, ngợi khen không ngớt. Ngờ đâu thời vận neo người, văn chương ghen mệnh, bảng đã treo, lại hỏng tuột.

Chàng trở về, choáng váng tê mê, trong lòng lại thẹn là mình đã phụ người tri kỷ, thân hình gầy ruộc như bộ xương còn đứng, người ngây ra như khúc gỗ.

Ông nghe tin, cho mời đến an ủi.

Chàng rơi lụy dầm dề.

Ông rất thương tình, hẹn đến khi mãn kỳ khảo tích về kinh thì đem chàng cùng đi. Chàng rất cảm kích cáo từ ra về, từ đấy đóng cửa không đi đâu nữa.

Chẳng bao lâu chàng lâm bệnh, ông luôn luôn hỏi thăm và đưa quà, nhưng thuốc uống đã trăm thang mà vẫn không công hiệu. Vừa lúc ấy ông lại có điều xúc phạm đến quan trên, bị cất chức, sắp về nhà, viết thư cho chàng, đại lược nói rằng: "Tôi nay mai về Ðông, mà sở dĩ còn chần chừ chưa đi ngay, là chỉ vì muốn chờ túc hạ đi đó thôi. Túc hạ đến buổi sáng, thì buổi chiều là tôi khởi hành..."

Thư đưa đến bên giường nằm, chàng cầm xem khóc sụt sùi, rồi nhắn sứ giả về nói là đang bị bệnh nặng, khó bình phục ngay được, xin cứ đi trước.

Sứ giả về bẩm, ông không nỡ đi, ráng ở lại chờ.

Qua mấy hôm, người canh cổng báo có chàng họ Diệp đến, ông mừng quá, ra đón mà hỏi han.

Chàng nói: - Vì cái bệnh của thân hèn để đại nhân phải chờ đợi lâu, lòng này thật áy náy không yên. Nay, may đã có thể ráng theo kịp dấu giày chân ngựa. Ông bèn gói buộc hành trang lại, để dậy sớm ra đi. Chẳng mấy ngày đã về đến làng, ông cho con thụ giáo với chàng, đêm ngày ở liền bên cạnh.

Cậu con tên là Tái Xương bấy giờ mới mười sáu tuổi, chưa biết làm văn chương nhưng thông minh lắm, phàm văn bài cử nghiệp, xem qua hai ba lần thì không quên nữa. Ở được một năm, cậu đã hạ bút thành văn, nhờ có thêm thế lực của ông, nên được nhận vào nhà học của huyện. Chàng bèn chép lại những bài văn cử nghiệp đã làm lúc bình thời đem hết cho công tử học.

Vào trường thi, bảy đầu đề không sai đề nào, công tử liền đậu á khôi.

Một hôm ông bảo chàng rằng: - Túc hạ chỉ vứt ra một mối tơ thừa mà cũng đủ làm cho thằng trẻ nên danh, nhưng còn quả chuông vàng kia cứ bị bỏ rơi mãi thì làm thế nào? Chàng nói: - Ðiều đó e rằng có mệnh. Tôi mượn cái phúc trạch của đại nhân để hà hơi cho văn chương, khiến người thiên hạ biết nửa đời luân lạc không phải vì kém tài đánh trận, thế là thỏa nguyện rồi. Vả chăng kẻ sĩ mà được một người biết, đã đủ không ân hận nữa, cần gì phải đỗ đạt mới đắc chí?

Ông thấy chàng xa nhà đã lâu, sợ nhỡ mất kỳ sát hạch năm, khuyên chàng nên về thăm nhà. Chàng rầu rĩ không vui. Ông cũng không nỡ ép, bèn dặn công tử khi đến kinh đô thì nạp thóc hộ chàng, công tử lại giật giải Nam Cung được bổ chức Chủ sự trong bộ, đem chàng vào Giám sớm tối gần nhau.

Qua một năm, chàng vào trường thi Hương ở kinh, đỗ Cử nhân. Vừa lúc ông được bổ đi coi thi ở Hà Nam bàn nhân tiện nói với chàng rằng: - Chuyến đi này không xa quê hương tiên sinh là mấy. Nay hãy nhẹ bước đường mây, tiên sinh cũng nên một phen về làng cho được khoái chí.

Chàng cũng mừng. Rồi chọn ngày tốt lên đường. Ðến địa giới Hoài Dương, công tử cho người và ngựa đưa chàng về. Ðến nhà thấy cổng ngõ tiêu điều, chàng chạnh lòng buồn bã lững thững đi vào sân. Người vợ cầm nong nia đi ra, thấy chàng thì vứt xuống sợ hãi bỏ chạy. Chàng rẫu rĩ mà nói: - Ta bây giờ đã nên danh phận rồi. Mới ba bốn năm không thấy mặt, sao bông như không quen biết nhau vậy?

Người vợ đứng xa mà bảo rằng: - Chàng chết đã lâu, còn nói nên danh nên phận gì nữa?

Sở dĩ còn để mãi linh cữu trong nhà, là vì nhà nghèo con bé đó mà thôi! Nay thằng cả đã khôn lớn, cũng đang tìm một ngôi đất để đưa chàng ra. Chớ nên hiện về làm gở để quấy người sống.

Chàng nghe nói thì bùi ngùi rũ rượi, bàn lững thững đi vào trong nhà, thấy linh cữu rành rành, liền ngã ra giữa đất mà biến mất.

Người vợ kinh hãi nhìn xuống thấy áo mũ giày tất bỏ đấy, như cái xác lột. Nàng mũi lòng quá, ôm xống áo khóc lóc. Người con đi học về, thấy một cỗ xe ngựa buộc ở trước thì dò hỏi xem ở đâu đến, rồi kinh hãi chạy về báo với mẹ.

Mẹ gạt nước mắt kể lại chuyện vừa xảy ra. Lại hỏi kỹ những người theo hầu mới biết rõ đầu đuôi.

Người theo hầu trở về, công tử nghe tin nước mắt rơi ướt cả ngực, lập tức lên xe, đến tận nhà mà khóc, rồi bỏ tiền lo liệu việc tang, chôn cất theo lệ hiếu liêm.

Lại chu cấp rất hậu cho đứa con, mời thầy về dạy và gửi gắm cho quan học sứ, hơn một năm sau được vào nhà học phán.

 

CHÀNG THƯ SINH HỌ DIỆP

Chịu trách nhiệm xuất bản:

       BÙI CAO TIÊU

Biên tập:   NGUYỄN CẨM HƯƠNG

Sửa bản in: GIANG MINH TRƯỞNG

Trình bày bìa: SONG THÀNH

 

In 1.200 cuốn khổ 13x19cm, tại Xưởng in NXBGTVT

Số trích ngang xuất bản: 375-2009/CXB/27-53/ThaH,

In xong và nộp lưu chiểu Quý II năm 2010

.............................................................................................................

- Cập nhật theo bản lưu trữ tại tại Công ty TNHH Văn Hóa Bảo Thắng.

- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.

.

 

0 comments:

Đăng nhận xét