CHÀNG THƯ SINH HỌ DIỆP
*
TÊN TRỘM VÔ HÌNH
(Tác giả: Tam Tang)
Một buổi tối, chàng ở lại để làm thí nghiệm trên
con chuột bạch,
Khi quay lại chỗ làm việc thì cái lọ đã bị đổ, chất
hóa học vàng kia văng vãi trong khung và bóng con chuột thì biến mất dạng! Tìm
quanh quẩn cũng chẳng thấy nó đâu cả!
Buồn rầu
- Chúa ơi! Tôi có thể tàng hình và đi xuyên qua
được cả tường gạch nữa!! -
Ngay tuần sau
Đêm về,
TV, đài phát thanh, và báo chí tặng cho
Và để chứng minh tối đó anh sẽ vào hốt hột xoàn tại
tiệm hột xoàn "Thủ Đô!" Nói là làm, tối đó anh hốt một số lớn hột
xoàn trong tiệm đó mà không ai bắt được anh cả! Báo chí liền đăng hình và tiểu
sử của
Lần vào
Hôm sau các báo đăng tin "Tên trộm vô
hình" đã làm một mẻ rất lớn tại Ngân Hàng Quốc Gia, số tiền mất lên đến 10
triệu Mỹ Kim. Nhưng từ đó về sau không ai thấy tăm hơi của "Tên trộm vô
hình" nữa. Dần dần "Tên trộm vô hình" cũng đi vào quên lãng, như
thân xác
Note: Đây chỉ là một truyện do tôi tưởng tượng ra
để giúp vui các bạn thôi! Tuy tôi có dùng một số địa danh có thật trước năm 75.
Nhưng thật ra các chi tiết trong truyện đều không có thật, đừng tốn công đi hỏi
người khác!
XÀ TINH
(Tác giả: Người Khăn
Trắng)
Thời ấy khi Tây mới xâm chiếm nước ta, trên con
đường đi từ Rạch Giá đến Hà Tiên rất ít cư dân sinh sống. Hầu hết những người
ngụ cư đều là những kẻ tha phương cầu thực những người xâu lậu thuế tìm đến để
ẩn náu.
Tuy nhiên vào một năm người ta thấy có một ngôi nhà
mái ngói rất bề thế mọc lên ở khoảng giữa lộ vắng, hai bên cách chục cây số mới
có nhà láng giềng. Nghe đâu chủ nhân ngôi nhà một đại điền chủ có máu mặt ở
ngoài tỉnh thành. Ông ta xây nhà lớn với mục đích sẽ khai khẩn vùng đồng cỏ,
rừng tràm quanh đó thành một đồn điền tầm cỡ.
Nhà xây xong làm lễ tân gia rất lớn, có đàn ca
xướng hát linh đình suốt mấy ngày liền. Cuộc phô trương thanh thế khá ấn tượng,
khiến mọi người tấm tắc khen chủ nhân là người biết thời thế, nhạy bén kinh
doanh. Bởi vùng đất Tám Ngân - Cà Bây Ngộp đó sẽ là một mỏ vàng vô tận...
Nhưng chuyện đời không đơn giản như sự toan tính
của con người. Sau lễ tân gia chưa đầy hai tháng, bỗng có đám gia nhân được gia
chủ thuê ở giữ nhà đã đồng loạt nghỉ việc mà chẳng ai biết nguyên nhân.
- Việc gì đã xảy ra?
Ông Phủ hàm Phan Hớn là chủ nhân ngôi nhà đã hoảng
hốt tìm hiểu nguyên do. Và bốn trong số hơn hai mươi nhân công đã kể lại cho
ông nghe các chi tiết mà họ cho là có cho đống vàng thì họ cũng không dám trở
lại sống trong ngôi nhà ấy!
- Họ tiết lộ điều gì?
Hãy nghe Sáu Nhơn kể lại:
- Tôi được giao ngủ giữ ngôi nhà lớn nên đêm nào
sau khi chốt chặt cửa vô, tôi đi ngủ sớm. Đêm đầu tiên tôi chỉ ngủ được có nửa
giấc thì phải giật mình dậy, bởi có những tiếng động gì đó rất lạ ở dưới nền
nhà... Ban đầu sau khi lắng nghe tôi cho rằng đó là tiếng côn trùng kêu, nhưng
nghe kỹ thì hoàn toàn không phải. Các tiếng động phát ra như tiếng thở phì phò
của cả chục người. Tưởng đám gia nhân khác ngủ gần đó ngáy nên ngồi dậy đốt đèn
đi tìm. Chẳng có một ai ngủ gần tôi, bởi theo phân công thì trong gian lớn chỉ
một mình tôi có mặt. Lúc tôi dậy soi đèn thì tiếng phì phò giảm bớt. Tuy nhiên
khi tôi tắt đèn nằm ngủ lại thì âm thanh ấy lại có trở lại. Chưa hiểu nguyên
nhân nhưng vì buồn ngủ nên tôi có dở giấc ngủ lại. Vừa chợp mắt bỗng tôi có cảm
giác như cạnh tôi có ai đó chen vào nằm chung.
- Ai vậy?
Tôi hỏi nhỏ vừa đưa tay sang sờ thì... đụng một
thân thể thịt da mát lạnh. Mắt nhắm mắt mở nhưng tôi cũng bật dậy được để đốt
cây đèn dầu lên xem cho rõ. Chẳng có ai cả, ngoài một vật gì đó to hơn bắp tay
đang bò nhanh vào xó nhà. Một con rắn màu đỏ rất lạ thường!
Khi mọi người tản ra rồi tôi không tài nào ngủ lại
được bởi hễ tắt đèn là y như rằng những âm thanh quái dị kia lại trỗi lên...
Người thứ hai kể lại là Tư Thơm, một nông dân được
tiếng là gan dạ: - Tôi thay Sáu Nhơn lên nhà lớn ngủ, bởi Nhơn sợ quá đã xin ra
nhà kho quét dọn và ngủ ở đó. Tôi tự nhủ có ma quỷ gì thì đêm nay cứ ta ngủ
chung cho vui. Và đêm đầu tiên tôi đã nếm đủ mùi kinh dị. Ban đầu tôi chỉ nghe
những tiếng động lạ, từ nhỏ rồi lớn dần và sau cùng thì nền nhà dưới lưng tôi
như đang rung chuyển. Tôi vừa định mở mắt ra thì hai mí mắt đang bị ai đó bít
kín lại không tài nào mở ra được. Tôi quờ quạng tay chân thì va vào một thân
thể ai đó mát lạnh đến rợn người. Mà chẳng phải một, có đến hai nằm hai bên
tôi. Tôi vốn có thói trăng hoa, thích gần phụ nữ, nhưng lúc ấy thú thật là thần
tứ tôi đang hoảng loạn thật sự, không nghĩ gì khác ngoài tìm cách bật dậy.
Tư Thơm ngừng lại lấy hơi, cũng là để trấn tỉnh
trước khi kể tiếp:
- Cuối cùng thì tôi vùng dậy được và trong cơn vùng
vẫy tôi đã làm sập chiếc mùng. Đốt đèn sáng lên, tôi nhìn quanh không hề thấy
gì khác thường... Sau khi trấn tỉnh lại tôi kéo mùng định ngủ tiếp thì chợt kêu
thét lên, bởi nằm trong mùng tôi lúc ấy là hai con rắn cực to, da vẩy của nó
phát ra những ánh ngũ sắc lạ thường! Trong đời tôi chưa từng nhìn thấy con rắn
nào to và kỳ dị như vậy. Hai con rắn nhìn thấy tôi chúng không hề tỏ ra sợ sệt
hay có phản ứng hung dữ gì, mà chỉ từ từ bò ra khỏi chiếu, sóng đôi nhau tiến
về phía vách tường và biến mất!
Một người nãy giờ ngồi nghe kể đã thốt lên:
- Những con xà tinh thường là như vậy. Chúng không
cắn người mà chỉ nuốt người vào bụng thôi.
Ông Phủ Nhơn nạt ngang:
- Để nghe nó kể tiếp, nói tào lao hoài!
Tư Thơm vẫn còn sợ hãi:
- Tôi không bỏ chạy như Sáu Nhơn, nên đêm sau nữa
tôi trải chiếu trên giường để ngủ.Thay vì tắt đèn khi đi ngủ, tôi lại treo một
cây đèn bão sáng cả gian nhà để có thể yên tâm hơn.Tôi ngủ được một giấc khá
ngon và thức dậy vào nửa đêm. Đưa mắt nhìn lên trần nhà tôi không còn tin vào
mắt mình nữa, bởi trên trần lúc ấy đang có hai... mỹ nữ mặc áo hồng, áo tía
đang đu trên cây xà ngang. Một trong hai cô nàng còn nhoẻn miệng cười khi bắt
gặp ánh mắt của tôi.
Câu chuyện hấp dẫn làm ông Phủ Hơn cũng chen vô: -
Mày là thằng háo sắc có tiếng mà, lúc ấy có cười cợt lại với các nàng không?
Tư Thơm đưa tay ôm lấy ngực:
- Tim muốn rụng ra ngoài, còn tâm trí đâu mà háo
với sắc! Lúc đó tôi dụi mắt vì không tin vào mình, có thể là do ảo giác hoặc là
mộng mị... Nhưng vừa lúc ấy thì chiếc đèn treo vụt tắt. Cả căn phòng tối thui.
Hoảng quá tôi tìm ống quẹt đốt lên. Phải mất cả phút sau thì đèn mới sáng trở
lại, và... thay vào chỗ hai cô gái lúc nãy, giờ chỉ còn là hai con rắn to đang
treo đung đưa trên xà ngang. Rồi trong phút chốc hai con rắn biến mất thật kỳ
lạ.
Tư Thơm ngừng kể rồi mà Phủ Hơn vẫn còn chưa hết
hồi hộp. Ông lắc đầu ngao ngán:
- Tao vốn sợ rắn, gặp trường hợp đó chắc là tao
đứng tim mà chết mất.
Tư Thơm nói dứt khoát:
- Con xin ông cho nghỉ việc, con không thể nào...
Chín Hải ngồi cạnh nãy giờ, đã lên tiếng:
- Hai anh Sáu Nhơn, Tư Thơm chỉ gặp có một hai con
yêu tinh, còn tôi mới tợn người hơn. Tôi gặp cả một bầy!
Anh ta đã cố ngăn xúc cảm khi kể lại:
- Sau khi hai người kia không ai còn dám ngủ trên
nhà lớn thì cả bọn chúng tôi đều cương quyết không lên ngủ ở đó nữa. Tôi giữ
lẩm lúa nên đêm nào nếu không mưa đều trải chiếu ở bộ ván kê gần cửa kho để ngủ
cho mát. Ngủ cả tháng rồi đâu có gì xảy ra... Vậy mà hai đêm sau khi Tư Thơm
thấy mấy con rắn tinh thì đến lượt tôi. Đêm ấy khi đang ngủ say, chợt trong mơ
màng tôi thấy có nhiều bóng người lướt qua bên ngoài mùng. Nghĩ là bọn trộm lúa
nên tôi bật dậy, tay chụp cây xà gài cửa định đối phó. Nhưng như có một sức
mạnh vô hình nào đó đẩy tôi nằm trở lại. Mắt tôi hướng ra ngoài nên nhìn rất
rõ, có đến cả chục bóng người đang đi lại. Họ không hấp tấp, không ra dáng kẻ
trộm đạo, mà biết đi nhẹ nhàng, uyển chuyển, dường như là lướt trên mặt đất!
Nhìn kỹ hơn tôi vô cùng kinh ngạc, bởi những người
kia là các cô gái. Quần áo họ mặc toàn bằng tơ lụa, đủ sắc, nên lấp lánh dưới
ánh trăng đêm.
Tôi định kêu lên nhưng không tài nào mở miệng ra
được. Ngoài kia sau một hồi lui tới nhởn nhơ, những bóng con gái ngồi xếp vòng
tròn rất trật tự. Chợt từ đâu có một cô gái khác mặc toàn trắng dáng đi thướt
tha bước ra.
Dường như đó là đầu lĩnh của các cô gái nên vừa
trông thấy tất cả đã đồng loạt cúi mọp đầu xuống vô cùng cung kính. Người áo
trắng bước vào ngồi ngay giữa vòng tròn và đảo mắt một vòng như để điểm danh.
Sau đó tất cả họ lại im lặng...
Tôi cố vểnh tai nghe ngóng thì phát hiện ra họ đang
đọc điều gì đó trong miệng, những tiếng thì thầm nhưng do có nhiều người nên âm
thanh phát ra thành tiếng phì phì quái dị! Họ cầu nguyện chăng? Hay là một cách
luyện phép? Chẳng thể nào hiểu được. Phải mất hơn mười lăm phút sau thì cái
vòng tròn ấy mới tản ra. Các bóng áo hồng áo tím đi về phía tôi. Người mặc áo
trắng đi trước như dẫn đường. Tôi cố thét thật lớn, bởi biết các bạn tôi đang
ngủ gần đó. Nhưng tiếng thét của tôi chẳng thể nào phát ra được. Tôi lại vùng
vẫy...
Trong khi đó các mỹ nhân kia đang tiến rất gần, tôi
đành bất lực chờ điều bất hạnh gì đó xảy ra.
- Chín Hải!
Đó là tiếng gọi của một người bạn ngủ gần đó. Và đó
chính là cứu tinh của tôi. Sau tiếng gọi, tôi như được giải thoát.
Lúc đó khi mọi người bu lại hỏi thì tôi chỉ còn đủ
sức thuật lại sơ lược câu chuyện đã chứng kiến. Sau đó tôi gần như ngất đi.
Trời sáng, lúc đó tôi và mọi người mới nhìn thấy
khắp trong sân có nhiều dấu vết của vật gì đó. Một người sành về rắn đã quả
quyết:
- Dấu vết này chính là do nhiều con rắn bò qua bò
lại. Cả vài chục con chứ không ít!
- Tới lúc đó tôi vẫn còn cảm giác lạnh xương sống.
Tôi rùng mình và bỏ đi. Thề sẽ không bao giờ trở lại ngôi nhà kinh hoàng ấy.
Ông Phủ Hơn lại thở dài...
Người thứ tư, chính là cháu rể của ông, được cử tới
để làm tài phú. Anh chàng còn độc thân nên quyết vào ngủ ở nhà lớn, mặc cho lời
cảnh báo của nhiều người. Hai Hữu tên của anh chàng, đã cương quyết:
- Tôi chẳng tin chuyện hoang đường. Mấy anh không
dám ngủ trong đó, thì tôi sẽ ngủ. Phòng tôi ở chứa nhiều sổ sách nên cấm không
ai được tự tiện vô đó cả ngày lẫn đêm.
Nhiều người ngao ngán lắc đầu. Bởi họ biết nếu có
nói cũng vô ích đối với anh chàng ngạo mạn này.
Hai Hữu kể lại đầu đuôi cho Phủ Hơn nghe:
- Con vào phòng riêng ngủ, đóng cửa phòng lúc ngủ
nên tin chắc là sẽ không thể có chuyện gì xảy ra. Con cũng mang theo con chó
vện vốn rất dữ và giỏi phát hiện kẻ xấu, kẻ lạ. Chỉ ngay đêm đầu tiên là con
gặp ngay thử thách, khi vào nửa đêm từ trên trần nhà có vật gì đó ngọ nguậy,
uốn éo sà xuống thấp ngay nóc mùng của con. Do chuẩn bị từ trước nên con thủ
sẵn cây đèn pin lớn, lúc đó con chụp lấy đèn chĩa lên nóc mùng và... có mấy vệt
màu tím vụt biến đi rất nhanh, làm cho con không nhận ra đó là gì? Nhưng có một
mùi tanh khó chịu còn vương vất đâu đó, con phải mở cửa phòng để xua hôi tanh
đi và... chẳng hiểu sao con lại bất tỉnh ngay lúc đó.
Ngừng lại nhìn sang mấy người có mặt ở đó vào đêm
xảy ra chuyện. Hai Hữu bảo:
- Anh Năm Tròn kể lại chuyện tiếp theo đi.
Năm Tròn vốn thật thà, ít nói, nhưng khi được
khuyến khích, anh sôi nổi hẳn lên:
- Khi sáng lại, thấy mặt trời lên cao mà cậu Hai
Hữu chưa dậy, con mới vào để gọi cậu. Thấy cửa phòng mở, còn cậu Hai thì đang
nằm im dưới nền nhà. Con hoảng quá vội tri hô lên, khi mọi người chạy vô thì
mới phát hiện trên giường của cậu Hai ngủ có 2 bộ da rắn lột, nằm xếp thẳng
hàng như nằm ngủ.
Kể tới đây Năm Tròn hơi ngập ngừng, nhìn sang Hữu.
Anh chàng này cũng khó nói ra điều gì đó. Phải đợi ông Phủ Hơn lên tiếng:
- Chuyện gì thì cứ nói ra tao nghe, ngại gì?
Lúc này Năm Tròn mới tiếp lời:
- Con nhìn vào quần của cậu Hai thì thấy ở phía
giữa của cậu Hai ướt cả...
Phủ Hơn hỏi lại: - Phần giữa là phần nào?
Năm Tròn lúng túng đưa tay chỉ vào chỗ của mình: -
Dạ, chỗ này nè...
- Bộ nó sợ quá đái trong quần hả?
Năm Tròn cãi:
- Không phải. Chú Hai bị... bị xuất... cái đó.
Ông Phủ Hơn càng ngạc nhiên hơn:
- Sao lại xuất thứ đó, nó còn độc thân mà?
Lúc này Hai Hữu mới thú nhận: - Con nhớ lại rồi,
lúc con bị té ngất đi thì trong mơ màng con thấy có hai cô gái cúi xuống chỗ
con. Con không kháng cự được, nên... Hiểu ra. Phủ Hơn than trời:
- Trời ơi, mày điên rồi Hữu ơi! Quan hệ với ma quỷ,
yêu tinh này mày biết hậu quả sẽ ra sao không?
Hai Hữu lặng thinh để thấm thía nỗi đau. Bởi sau
phút đó anh đã phải nằm bệnh viện tỉnh đến gần một tháng trời để chữa chứng mất
sinh lực do bị rút sinh khí quá nặng. Như thế thì đã quá rõ, tất cả bốn người
kể trên, từng trường hợp họ đã gặp phải chuyện lạ thường. Nghe họ kể có người
bài bác, cho đó là sự hoang đường, tưởng tượng hay mộng mị, ảo giác mà ra...
Người có niềm tin thì lại nghĩ khác. Họ quyết: -
Những chuyện như vậy vẫn xảy ra đây đó hằng ngày, có điều người ta không kể lại
hoặc không ai ghi chép mà thôi. Với ông Phủ Hơn thì sự việc nghiêm trọng hơn.
Nếu không phá vỡ sự kỳ bí này thì coi như cơ ngơi, sản nghiệp của ông sẽ tiêu
tan hết bởi hiện nay chẳng còn một gia nhân nào chịu ở lại ngôi nhà mà họ gọi
là nhà ma! Cả làng ở đó cũng đồn nhau và không một ai dám bén mảng tới gần.
Trong một thời gian dài ngôi nhà ngói bề thế đó bị bỏ hoang.
Cho đến một hôm, lúc đang ngồi xe ngựa từ nhà ở thị
xã ra chợ Huyện chợt có một cụ già râu tóc bạc phơ chặn đường Phủ Hơn và nhẹ
nhàng bảo:
- Ông đang bị ma ám phải không?
Quá đỗi ngạc nhiên trước một người lạ mà lại biết
rõ chuyện của mình. Phủ Hơn vội xuống xe rồi lễ phép thưa: - Thưa bác, quả có
chuyện ấy. Chẳng hay bác có cao kiến gì?
Cụ già cười hiền hòa: - Tôi không trị được tà ma,
cũng không tin là có ma quỷ trên đời này. Nhưng lúc nãy nhìn thấy ánh mắt lo
lắng của ông, cũng như khuôn mặt xạm đi, đoán là ông gặp nạn. Tôi là một nhà
bói toán, đồng thời là… thầy thuốc rắn.
Quả là buồn ngủ gặp chiếu manh, Phủ Hơn reo lên: -
Vinh hạnh cho tôi quá. Tôi đang ra chợ Huyện để tìm ông thầy rắn Tám Thông, may
mà gặp ông.
Cụ già gật đầu:
- Tôi là Tám Thông đây, ông khỏi phải đi tìm.
Mừng quá, Phủ Hơn ôm chầm lấy cụ:
- May cho tôi quá, vậy mời thầy về nhà, tôi trình
bày mọi chuyện để thầy giúp cho.
Nhường cho khách lên xe trước, nhưng cụ Tám Thông
lại xua tay từ chối:
- Tôi sẽ nói ngay đây, bởi tôi đã nghe và biết hết
chuyện ở ngôi nhà ma ở Cà Bây Ngộp của ông.
- Vậy cụ có cách nào?
Cụ Tám Thông nói ngay:
- Tôi sẽ giúp ông. Ngày mai tôi sẽ có mặt ở đó.
Nói xong cụ quay bước đi ngay. Phủ Hơn nói với
theo: - Để tôi đưa thầy đi. Và còn tiền công nữa…
Cụ Tám nói mà không nhìn lại: - Xưa nay tôi hành
nghề không lấy tiền công và cũng không lệ thuộc ai. Khi nào xong việc tôi sẽ
nói chuyện với ông.
Ông già đi nhanh và biến mất sau lũy tre, bí hiểm y
như lúc tới...
Việc đầu tiên của cụ Tám Thông là đi quan sát khắp
ngôi nhà, ông xem từ ngoài vườn, từ gốc chuối, bụi tre, bờ cỏ xem kỹ những dấu vết
xung quanh. Cuối cùng là bên trong ngôi nhà. Ông đưa tay gõ gõ nhiều lần xuống
nền nhà lót gạch tàu, ở một góc trong cùng, ông gỡ lên một viên gạch và thốt
lên:
- Mọi thứ là ở đây!
Cùng có mặt lúc ấy. Phủ Hơn lên tiếng:
- Nhà tôi mới xây, vậy tại sao lại có một viên gạch
tróc lên như vậy?
Thầy Tám cúi sát mặt xuống chỗ viên gạch vừa được
bóc ra, ông ngẩng lên bảo:
- Đây là miệng hang và bọn chúng ở bên dưới.
- Bọn nào?
Cụ Tám đáp không cần suy nghĩ: - Lũ rắn.
Phủ Hơn quay sang hỏi mấy người ở giữ nhà:
- Mấy đứa có phát hiện cái hang này không? Thường
thì rắn lấy hang chuột làm hang của chúng, nhưng nhà này là nhà mới, đâu có
chuột làm hang?
Anh gia nhân không trả lời được, Thầy Tám Thông
chợt bảo: - Không phải hang chuột, mà là hang do người tạo nên!
Phủ Nhơn kinh ngạc: - Ai đã đào cái hang này?
Quay sang các gia nhân:
- Có đứa nào làm chuyện này không?
Tất cả đều chối hết. Cụ Tám bảo:
- Không phải họ đâu.
Rồi ông quay sang hỏi Phủ Nhơn: - Lúc xây ngôi nhà
này ông có gây thù chuốc oán gì với đám thợ xây hoặc có ai muốn ám hại ông
không?
Ông Phủ Hơn bóp trán suy nghĩ, chợt ông kêu lên: -
Có! Có một thằng.
Rồi ông kể: - Thằng thầu xây nhà này thiếu nợ tôi
một số tiền lớn, trước khi khởi công tôi đã nói là xây xong sẽ trừ hết nợ trong
tiền công. Nó phản đối, nhưng cuối cùng nó cũng phải chấp nhận bởi số tiền nó
nợ tôi quá lớn và tôi còn dọa nếu không chịu theo điều kiện ấy thì tôi sẽ gọi
người khác đến xây. Vì vậy suốt trong thời gian xây nhà thằng đó cứ mặt lớn mặt
nhỏ với tôi...
Thầy Tám gật đầu: - Lần này ông Phủ có nghe người
ta nói chuyện các nhà thầu, thợ xây ếm chủ nhà bằng cách này hay cách khác
chưa?
- Có có nghe nhiều…
Thầy Tám bảo: - Tôi không tin lắm chuyện thư ếm.
Nhưng chắc chắn ở đây ông đã bị họ phá bằng cách đào sẵn một cái hố lớn phía
dưới nền nhà, sau đó họ tạo điều kiện cho rắn vào sinh nở và phát triển. Trước
đây cái hang này bị bịt kín khiến cho lũ rắn nhiều ngày không ra ngoài được,
chúng đói và hễ có dịp thoát ra là chúng quậy phá.
- Nhưng chuyện chúng thành tinh, thành ma?
Thầy Tám có vẻ trầm ngâm: - Tôi không tin chuyện ma
quỷ. Trong trường hợp này có thể do ảo giác, nhưng biết đâu cũng là chuyện
thật... Thôi, bây giờ tôi không nói đến chuyện đó nữa, quan trọng hơn là tìm
cách diệt lũ rắn này...
Ông Phủ Hơn mừng quá đỗi: - Ông làm ơn giúp ngay
giùm. Tôi cảm ơn lắm lắm...
Thầy Tám Thông bảo mọi người: - Xin ra ngoài hết,
chỉ một mình ông Phủ ở lại đây với tôi thôi.
Chờ khi mọi người ra ngoài hết, Thầy Tám lấy ra
bốn, năm chiếc bao tải lớn và dặn ông Phủ: - Tôi sẽ bắt rắn cho vào bao, khi
bao đầy ông cột chặt lại giùm. Phủ Hơn rùng mình: - Tôi ớn mấy con rắn lắm.
Thầy Tám trấn: - Không sao, khi tôi bắt nó ra thì nó như tê liệt thần kinh,
không thể làm hại ai cả. Hơi yên tâm, Phủ Hơn cầm bao đứng đợi. Thầy Tám nhắm mắt
lại trong giây lát, miệng đọc thầm điều gì đó sau cùng ông lấy một loại nước gì
đó màu vàng thoa đều lên hai tay.
Dùng bàn tay trái vỗ vỗ ba cái lên miệng hang, rồi
lại dùng tay phải vỗ bảy lần nữa. Bất chợt nghe từ phía dưới có tiếng chuyển
động dữ dội như một cuộc rượt đuổi, đánh với nhau. Và sau đó thì là sự im lặng
đến ngạc nhiên... Trong lúc Thầy Tám bình thản chờ đợi thì ông Phủ Hơn lại vô
cùng căng thẳng, hồi hộp...
Thế rồi, như một phép lạ, con rắn đầu tiên màu xám
như ánh bạc từ từ bò ra. Nó bò chậm như mất hết sinh khí. Và Thầy Tám chỉ việc
đưa tay tóm ngang cổ nó kéo lên cho vào bao.
Con tiếp theo màu đen tuyền, trên cổ có mấy vằn
quấn ngang. Rồi con thứ ba mình vàng có khoan đen, chúng đi thành một cặp, con
kia mình đỏ vằn đen. Tất cả chúng đều ngoan ngoãn đến lạ thường, chui vào tay
Thầy Tám và vô bao. Ông Phủ Hơn chỉ đứng vịn bao thôi mà mồ hôi đã vã ra từng
hồi. Ông nghe lạnh cả sống lưng...
Đến lượt những con rắn đủ màu sắc khác bò ra, theo
thứ tự trước sau, thứ bậc, con nhỏ trước con lớn sau. Đếm hơn hai trăm con rồi
mà Thầy Tám vẫn còn chờ. Đã có hai bao tải được cột chặt, nhưng lạ một điều là
chúng không hề ngọ nguậy, mà nằm im trong đó như đã chết.
Đến con thứ ba trăm. Thầy Tám đếm lớn lên: - Con
cuối cùng, con thứ ba trăm. Đây là lũ rắn hội đủ cả trăm loài có mặt ở xứ này!
Thầy vừa định xoa tay đứng lên, chợt há hốc mồm
kinh ngạc khi từ trong hang lại một con rắn nữa chui ra. Con này màu trắng như
tuyết, lớn nhưng gầy đến trơ xương. Thầy Tám lại đưa tay chụp ngang cổ nó, vuốt
nhẹ theo sống lưng như thường lệ để kéo nó ra.
Bỗng Thầy bật ngã ra sau, mặt tái đi, mồm há hốc
như vừa gặp điều kinh hoàng nhất! Ông Phủ Hơn nhìn rõ, con rắn màu trắng đó vẫn
nằm im, nhưng có một vật gì đó rất nhỏ bám trên lưng nó thì cử động. Nhìn kỹ
mới thấy đó là một con rắn rất nhỏ, màu trắng có điểm những chấm đỏ lạ mắt...
- Một con rắn cõng con rắn!
Ông Phủ Hơn kêu lên vừa lùi lại theo phản ứng tự
nhiên. Lúc này Thầy Tám mới ngồi dậy. Không nói không rằng ông vỗ vỗ mấy cái
cho con rắn trắng bò trở vào. Rồi liền theo đó ông đích thân mở từng bao tải,
thả hết lũ rắn trong đó lại. Lúc này lũ rắn dường như bừng tỉnh chúng bò rất
nhanh, phát ra tiếng kêu phì phì nghe đến rợn người!
Đến gần nửa giờ sau con rắn cuối cùng mới thoát
khỏi bao. Thầy Tám lấy viên gạch đặt lại chỗ cũ và thẩn thờ rời khỏi chỗ ngồi.
Ông Phủ Hơn gọi giật lại:
- Thầy Tám! Không lẽ Thầy không bắt chúng?
Tám Thông vẫn chưa hoàn hồn, giọng ông run run: -
Mạng tôi còn lớn nên mới không chết bởi con rắn chúa đeo trên lưng con bạch xà.
- Rắn chúa?
Thầy Tám nghiêm giọng: - Nó tuy nhỏ nhưng là chúa
của bầy rắn. Nó có thể thành tinh như truyền thuyết, ở đây nó đeo trên lưng con
rắn lớn trơ xương kia để rút tinh lực từ con rắn màu trắng để sống. Nó độc đến
nỗi chỉ cần một nhát cắn nhẹ có thể giết chết một con voi. Nếu mang tôi đoản
thì lúc nãy khi vuốt lưng con bạch xà, con rắn chúa đã cắn tôi. Đó là cái bẫy
mà nhiều thầy rắn đã mất mạng!
Nói xong ông quỳ xuống chấp tay lạy ba lạy về phía
hang rắn. Sau đó ông bỏ đi thẳng và mất dạng...
Ông Phủ Hơn ngơ ngác đứng nhìn... Mãi một lúc sau
ông mới chợt nhớ ra và vụt chạy ra khỏi nhà như bị ma đuổi!
Ngôi nhà từ đó bị bỏ hoang luôn.
Chuyện một đồn mười, mười đồn trăm. Đến nỗi cả
những cư dân ở các làng lân cận cũng phải dời nhà đi thật xa. Nghe nói ngôi nhà
đó vào lúc chiến tranh đã bị máy bay Pháp dội bom sập hoàn toàn...
CON MA NHÀ XÁC
(Tác giả: Người Khăn
Trắng)
Dựng xong chiếc xe đạp cà tàng của mình vào một
góc, Tư Lân lên tiếng ngay với người đồng nghiệp đang chờ để thay ca trực:
- Xin lỗi có hơi trễ, kẹt xe quá trời anh Năm!
Năm Sang, người trực ca ban ngày cười giả lả: - Đâu
có sao, bù qua sớt lại mà, sáng mai tôi lại phải nhờ trực lố khoảng nửa tiếng.
Bà xã ở nhà bị bệnh.
Ông ta đứng lên gom đồ đạc chuẩn bị về. Trước khi
đi, Năm Sang mở sổ ra và dặn:
- Hôm nay có bốn xác mới nhập. Hai nam, hai nữ. Tất
cả đều tử nạn giao thông.
Tư Lân ngán ngẫm: - Lúc này sao người ta thích chạy
ẩu quá chừng, chết hoài mà cũng chưa ngán!
Năm Sang quay lại nói:
- Ba xác thì đã có người nhà nhận, họ xin ngày mai
mang về. Chỉ còn một cô gái trẻ nhất thì chưa có ai đến làm thủ tục.
Nói vậy thôi, Năm Sang giao ca và ra về. Tư Lân
liếc nhìn vào cuốn sổ trực, nơi có ghi đầy đủ tên tuổi, giới tính người chết và
ngày giờ nhập xác. Trong số bốn cái tên thì đã có ba được đánh dấu bằng bút đỏ,
có nghĩa là đã có người đến liên hệ, còn tên thứ tư tên Nguyễn Thị Vân Tú thì
còn bỏ trống. Cô này nằm ở bàn số 13 đếm từ ngoài vào, có nghĩa là ở dãy cuối
cùng.
Sau khi sắp xếp xong bàn trực, việc đầu tiên của Tư
Lân là đi quan sát một vòng. Do là thói quen, cũng là trách nhiệm của một nhân
viên gác nhà xác lâu năm như ông. Chỉ cần nhìn qua một lượt là ông ta biết hôm
nay trong ca trực của Năm Sang, đã có đến mười xác được nhận về mai táng, cộng
thêm bốn xác mới nữa là hai mươi xác tất cả. Nhưng sao...
Tư Lân dừng lại ở bàn số 13 và rất đỗi ngạc nhiên
khi không thấy xác cô gái như ghi trong sổ? Điều này hầu như chưa hề xảy ra
trong gần mười năm làm nhiệm vụ của ông và Năm Sang. Việc sắp xếp thứ tự các tử
thi là việc làm nghiêm túc, đòi hỏi phải chính xác, để tránh nhầm lẫn, giao
nhầm xác người này cho thân nhân người kia. Mặc dù trên mỗi xác đã có ghi đầy
đủ họ tên, nhưng đã từng xảy xa việc nhầm lẫn như vậy ở vài nhà xác khác.
Đang tần ngần một lúc, Tư Lân chăm chú nhìn tên họ
trên từng cái xác và kiểm tra từng bàn một. Cuối cùng ông khựng lại ở bàn số 1,
cô gái tên Vân Tú nằm ở đây!
- Chết rồi mà vẫn chạy!
Ông tự nói đùa và lẳng lặng đẩy chiếc bàn, đổi lại
cho đúng vị trí của nó. Cẩn thận hơn, ông còn lột số 13 gắn vào bàn cô Vân Tú
này, chuyển chiếc bàn số 1 về vị trí cũ.
Tám giờ tối...
Khu nhà xác bệnh viện tuy nằm liền kề với sân rộng
của bệnh viện, nhưng luôn vắng, ngoại trừ những khi có người chết nhiều, các
khoa chuyển thi hài xuống. Đêm nay có lẽ là đêm bình yên nhất trong vài tháng
trở lại đây. Từ bắt đầu ca trực đến giờ chưa có ca nhập xác nào.
Tư Lân chép miệng:
- Cũng có lúc người ta ngại chết chứ!
Mới vừa nói xong thì đã có ngay một ca mới. Xác của
một bà cụ tuổi trên tám mươi được đưa từ khoa nội xuống. Người chuyển xác bảo:
- Bà già này chắc phải lưu lại chờ chuyển qua phòng
thí nghiệm, xác vô thừa nhận đấy.
Đã quá quen với việc này, nên thủ tục giao và nhận
xác diễn ra khá nhanh. Đến 9 giờ thì Tư Lân đã có thể kéo ghế bố ra nằm nghỉ
lưng. Công việc của ông thì bất kể giờ, đã trúng ca trực thì dù lúc nào trong
suốt đêm người ta cũng sẵn sàng dựng ông dậy. Mà giấc ngủ của những người gác
nhà xác như ông ta khác nào cùng chung nhà với những xác chết, những hồn ma!
Lúc đầu khi mới vào nghề thì ông Tư còn hơi sợ, hơi
ngại, nhưng lâu dần thì chuyện chung đụng với những cái xác người chết đã là
chuyện bình thường, như cơm bữa!
- Anh Tư ơi, có người xin nhận xác!
Tư Lân nhìn đồng hồ đeo tay rồi lầm bầm:
- Sao lại nhận xác vào giờ này không biết!
Tuy bực mình, nhưng nhiệm vụ là phải làm, Tư Lân
tiếp một lúc đến ba người. Họ trình đủ giấy tờ để nhận xác và ba chiếc xe chở
xác đã đậu sẵn ngay trước cửa. Có những người thích nhận xác thân nhân vào giờ
đêm như thế này. Họ có cái lý của họ mà Tư Lân thì phải chu toàn công việc theo
trách nhiệm.
Vừa giao xong ba cái xác thì một lần nữa Tư Lân
hoảng lên khi xác của cô Vân Tú lại không còn ở chỗ cũ! Bàn số 13 đã trống
trơn!
Tìm khắp một vòng quanh gian phòng rộng, Tư Lân
điếng hồn khi không thấy xác cô ta đâu!
- Chuyện gì đây trời?
Bao nhiêu năm trong nghề, chưa bao giờ ông ta gặp
tình huống này, nên cho dù đầy kinh nghiệm, Tư Lân cũng rối lên, nghĩ là lúc
giao xác hồi nãy, có thể đã có sự nhầm lẫn!
Phải rà lại sổ thật kỹ, ba cái xác vừa lấy ra đúng
tên, đúng tuổi, đâu có lộn cái nào. Chỉ có thiếu cái xác của Vân Tú thôi! Hay
là...
Bước vội qua dãy bàn cuối, chợt chân của Tư Lân vấp
phải một vật khá lớn dưới sàn, chới với sắp ngã. Cũng là lúc Tư Lân kêu lên: -
Đây rồi!
Xác của cô gái đang nằm dưới sàn!
- Bà ơi, sao bà gây rắc rối cho tôi vậy nè!
Vừa nói Tư Lân vừa bế xốc xác chết lên, bỗng ông ta
giật mình khi phát hiện cái xác còn dịu nhiễu, chứ không cứng đờ như hầu hết
xác chết trên vài giờ!
Bốc điện thoại nội bộ, Tư Lân gọi ngay cho phòng
trực bệnh viện, báo cho họ điều bất thường. Chỉ chưa đầy mười phút sau đã có
toán bác sĩ, y tá trực chạy xuống. Họ xác nhận tử thi chưa cứng, nhưng sau khi
khám thật kỹ, họ lắc đầu bảo:
- Chết hẳn rồi!
Khi họ ra hết rồi Tư Lân không tài nào ngủ được.
Ông kéo ghế bố chắn ngang cửa ra, lại cẩn thận kéo cửa sắt lại, rồi nằm đó, mắt
không rời khỏi dãy bàn cuối phòng.
Đêm dần khuya...
Tư Lân thức hẳn đến giờ đó, cứ mười lăm phút ông
lại đi một vòng, đặc biệt nhìn vào xác cô gái tên Vân Tú. Lúc 12 giờ thì xác
vẫn còn đó...
- Chắc hết sức để đùa rồi phải không!
Tư Lân vừa nói một mình vừa yên tâm nằm xuống...
- Chú Tư ơi, có người đến nhận xác nữa kìa!
Vừa bực vừa mệt, Tư Lân nói vọng ra:
- Qua chín giờ không cho nhận xác nữa, có thông báo
rồi, sáng mai đến nhận!
Có nhiều tiếng càu nhàu ở bên ngoài, nhưng chỉ một
lúc sau thì không khí im lặng bao trùm...
Trước khi cơn buồn ngủ kéo đến, Tư Lân cũng ráng
đứng dậy đi kiểm tra lần nữa. Xác vẫn còn đó, nhưng có điều là thay vì đầu
hướng về phía này như mọi cái xác, thì xác cô Vân Tú lại hướng về phía ngược
lại!
- Lúc nãy mình đặt đúng hướng mà!
Tuy nói vậy nhưng Tư Lân cũng chưa chắc chắn lắm,
nghĩ có thể trong lúc rối mình sơ suất. Nhân tiện ông đưa tay sờ vào cánh tay
Vân Tú, bấy giờ xác đã lạnh và cứng, chứ không như lúc nãy!
- Có thế chứ!
Yên tâm hơn, ông trở lại ghế bố. Muốn không buồn
ngủ, ông tu một ngụm cà phê đen và tự nhủ, đêm nay sẽ thức trắng thử một đêm
xem!
Và ông Tư Lân làm được. Bởi khi đồng hồ trên tường
gõ bốn tiếng thì Tư Lân vẫn còn mở mắt, ông ta thở phào:
- Lạy trời!
Bật dậy và đảo qua khắp phòng một lần. Đến bên bàn
số 13, Tư Lân hài lòng khi thấy xác cô gái vẫn nằm im.
- Cám ơn cô!
Đêm nay lần đầu tiên bệnh viện không có người nào
chết! Tư Lân lẩm bẩm:
- Tội gì không ngủ thêm vài giờ.
Ông ta nằm xuống và cố tìm giấc ngủ với tâm trạng
thoải mái...
Năm giờ.
Đồng hồ vừa gõ năm tiếng cũng là lúc Tư Lân chìm
sâu vào giấc ngủ. Và cũng là lúc ông ta cảm giác như có ai đó đè lên người
mình, suýt nghẹt thở... Tư Lân chỉ ú ớ rồi thôi...
Đúng sáu giờ sáng. Có người gọi ngoài cửa:
- Anh Tư ơi, có người tới nhận xác!
Bật dậy rất nhanh, đó là thói quen của Tư Lân, ông
ta trả lời ngay: - Chờ chút!
Trước khi mở cửa, ông không quên nhìn vào bàn số 13
và ông la thất thanh: - Đâu rồi?
Xác của cô Vân Tú đã không còn nằm ở đó nữa.
Tìm và tìm. Hầu như không một ngỏ ngách nào mà ông
Tư Lân không lục tung lên. Lần này thật sự là có chuyện!
Cửa vừa mở ra, thay vì nhận giấy lãnh xác, Tư Lân
tá hỏa nhận điện thoại gọi cấp cứu!
Lát sau người của bệnh viện xuống tấp nập, hô hào
vô cùng ngạc nhiên khi nghe báo cáo mất xác chết. Một bác sĩ hỏi:
- Đêm qua anh Tư có ra ngoài bỏ phòng không?
Tư Lân nói to: - Tôi còn ngủ hẳn bên trong nữa.
Chìa khóa cửa sắt tôi nhét ở lưng quần vẫn còn nguyên đây. Trước khi ngủ quên
hồi bốn giờ, tôi vẫn còn thấy cái xác đó nằm trên bàn số 13!
- Anh có nhìn lầm không?
- Không thể!
Người ta chỉ còn biết lập biên bản rồi buộc Tư Lân
ký tên vào. Xong xuôi bác sĩ còn nói: - Cái xác này không có người nhận. Có lẽ
sẽ đỡ rắc rối đây...
Khi đến giờ giao ca trực mà Tư Lân vẫn còn bần
thần, khó chịu. Ông không sợ trách nhiệm, mà chỉ lo là xác chết ấy đi đâu, có
phải đó là... hồn ma? Chưa từng tin dị đoan, nhưng lúc này Tư Lân cũng phải
nghĩ tới điều gì đó không bình thường...
Bảy giờ rời khỏi nhà xác, thay vì về nhà, Tư Lân
lại đạp xe một vòng. Không biết là đi đâu, nhưng ít ra lúc này ông cũng cần một
phút thư giãn... Qua khỏi một ngã tư, đến đầu một công viên, vừa cua qua góc
thì chợt nghe có người gọi mình: - Chú Tư!
Quay lại nhìn không thấy ai, Tư Lân càu nhàu:
- Có lẽ thức khuya quá lỗ tai mình lùng bùng!
Ông ấn thêm bàn đạp thì tiếng kêu lớn hơn:
- Chú Tư!
Người gọi lúc này đã đứng rất gần, nên Tư Lân không
còn phải tìm kiếm nữa. Ông vừa định lên tiếng hỏi thì chợt khựng lại, giương
mắt nhìn với sự sửng sốt!: - Cô là…
- Cháu là Vân Tú đây!
Đúng là cô gái... tử thi trong bệnh viện!
- Cô... cô...
Là người gan dạ, vậy mà lúc này Tư Lân run rẩy,
suýt té xuống xe. Cô gái thì vẫn tiếp tục nói:
- Cám ơn chú đã giữ xác cháu mấy hôm nay!
- Cô...
Lần này thì Tư Lân té xe thật. Ông mất thăng bằng
té xuống. Khi dựng được xe đạp lên thì... chẳng còn thấy Vân Tú đâu?
Tư Lân lảo đảo và lần này ông ngất xỉu tại chỗ...
Kể lại chuyện đó cho mọi người nghe, nhưng chẳng
một ai tin. Bực mình quá Tư Lân không thèm kể nữa.
Ông thầm vái:
- Nếu cô Vân Tú có linh thiêng thì xin phù hộ tôi.
Một tuần sau mọi người hay tin Tư Lân trúng số độc
đắc. Mà lại trúng cặp đặc biệt! Ai hỏi gì thêm ông cũng không nói, chỉ tự nhủ:
- Cô Vân Tú đã báo mộng cho mình trúng số đó! Cám
ơn cô...
NGƯỜI TÌNH VÀ SỢI DÂY
THÒNG LỌNG
(Tác giả: Người Khăn
Trắng)
Liễu Huệ đứng lấp ló mãi mà vẫn chưa dám gọi trong
khi lòng dạ cô nóng ran, không thể chờ được nữa. Bên trong, anh chàng Thanh An
đang say sưa giảng bài các học sinh đang chăm chú lắng nghe... Chính điều đó đã
khiến cho Huệ không dám lên tiếng.
Chợt An từ trong đưa mắt nhìn ra, Huệ cố gọi vừa đủ
nghe: - Cậu An! Cậu...
Thanh An đã nhìn thấy, anh vội chạy ra, tỏ vẻ ngạc
nhiên: - Em đi đâu giờ này mà lại ở đây?
Liễu Huệ đưa nhanh cho An cuốn sổ nhỏ:
- Có lời nhắn của cô Trúc Quỳnh trong đó. Và cậu
phải mau theo em, kẻo không kịp nữa!
Xưa nay An và Quỳnh vẫn thường liên lạc với nhau
qua quyển sổ này, và dĩ nhiên người làm cầu nối là Liễu Huệ. Thấy thái độ của
Huệ, Thanh An hiểu là có chuyện hệ trọng, anh hỏi nhanh:
- Chuyện gì vậy, Huệ?
Huệ không đáp, kéo mạnh tay anh lôi đi:
- Đi nhanh kẻo không còn kịp nữa!
An khựng lại: - Làm sao tôi đi được lúc này. Lớp
học đang còn...
- Lớp gì cũng bỏ! Nếu không, cậu hối hận không kịp
đó.
Huệ vùng bỏ chạy, còn An đang lúng túng chưa biết
phải làm sao thì may sao có một thầy giáo khác từ ngoài bước vào, An mừng rỡ:
- Anh Phùng, dạy giùm tôi tiết học sau với. Tôi có
việc nhà quá gấp!
Thầy Phùng gật đầu:
- Cũng được. Nhưng ngày mai thầy lại phải bù cho
tôi đấy nhé.
Thoát ra được, An phóng nhanh theo Liễu Huệ. Phải
hơn nửa đường anh mới bắt kịp.
- Chuyện gì, nói cho tôi nghe đi Huệ?
Huệ càng chạy nhanh hơn, vừa giục:
- Lẹ lên, cái cậu này chậm như rùa!
Thấy không khai thác được gì thêm, Thanh An cố bước
nhanh hơn. Lát sau đã tới trước ngôi nhà to nhất vùng: Nhà Đốc phủ Vệ. Từ
ngoài, An đã nghe tiếng huyên náo hơi lạ bên trong, nên có ý rụt rè, chưa dám
bước vào. Liễu Huệ lại giục:
- Nhanh lên cậu!
Bằng cửa hông, An theo Huệ vào nhà trong. Đây là
nhà mà từ gần ba năm qua An đã trọ học, nhưng bởi kiếp ăn nhờ ở đậu, nên lúc
nào vào ra anh cũng khép nép. Mặc dù có một người trong nhà này, thân thiết còn
hơn ruột thịt.
An nghe tiếng gào lên của bà Phủ:
- Cũng tại ông hết! Ép nó làm gì để bây giờ nó đóng
cửa phòng trốn biệt, không ra mà cũng chẳng màng đến ăn uống. Bộ ông muốn hại
con mình đến chết hay sao?
Không nghe tiếng ông đáp lại, An hơi yên tâm. Bởi
thật lòng mà nói, mỗi khi phải giáp mặt ông là An thấy lo lo. Nhìn thấy An về,
bà Phủ như chết đuối vớ được phao:
- Con Quỳnh trong đó. Con gọi nó giùm bác coi!
An chưa hiểu đầu đuôi chuyện ra sao, nhưng cũng gọi
to: - Quỳnh ơi! Quỳnh!
Bấy giờ mới có tiếng của ông Phủ Vệ:
- Để đó tao!
Ông ta vốn không có cảm tình với An, ai trong nhà
cũng hiểu điều đó, nên vừa nghe ông nói vậy thì cả bà Phủ và Liễu Huệ đều liếc
nhìn An, ngầm bảo An lui ra, nhưng trong lòng anh chàng đang sôi lên nỗi lo,
nên anh quên sự có mặt của khắc tinh bên cạnh, vẫn cất tiếng gọi: - Quỳnh ơi!
Vẫn không nghe tiếng đáp lại từ bên trong, nên lúc
này bà Phủ mới là người sốt vó, bà gào to:
- Tông cửa vào đi!
An chưa dám làm thì đã có tiếng ông Phủ:
- Mấy đứa kia đâu, đạp bung cửa ra!
Có lệnh của ông, hai tên lính vệ dùng hết sức đạp
bung cánh cửa gỗ kiên cố. Cửa vừa bật ra thì cùng lúc có mấy tiếng thét kinh
hoàng lên:
- Trời ơi!
Trong phòng, xác Trúc Quỳnh treo lơ lửng giữa trần
nhà. An là người nhào vô trước, anh chụp lấy chân nàng đỡ lên. Nhưng lúc ấy anh
đã cảm nhận được rằng mình tới đã quá trễ. Trúc Quỳnh đã chết!
Bà Phủ như điên loạn, ôm xác con, bà xỉa xói về
phía chồng: - Ông là người giết con! Chính ông, ông Phủ Vệ ơi, chỉ vì ông bắt
ép nó.
Có lẽ sợ vợ nói ra điều ông không muốn ai biết,
nhưng trong lúc này lòng ông cũng đang rối bời, sửng sốt, nên lời ngăn cản chỉ
mang tiếng chiếu lệ:
- Chuyện đó mà cũng nói.
Bà Phủ được nước lại càng gào to:
- Tôi nói rồi, chuyện gì cũng để từ từ tính, ông
lại quyết liệt bắt ép nó! Cũng chỉ vì bên chỗ khốn nạn đó, nó nói gì cũng nghe,
để đến nông nổi này, vừa lòng ông chưa! Ông ở lại đó mà sống, tôi chết theo con
tôi.
- Quỳnh ơi!
Thi thể Trúc Quỳnh còn chưa lạnh, chứng tỏ nàng mới
tắt thở chưa lâu, lúc này Liễu Huệ mới vừa khóc vừa nói khẽ.
- Em đã giục cậu đi mau lên mà cũng không kịp.
An giờ mới hiểu ra, Liễu Huệ tới gọi anh đi gấp là
lúc Trúc Quỳnh đã vào phòng đóng cửa để tránh mặt đám người của nhà đại phú gia
họ Đoàn, những người mà ông Phủ Vệ quyết tâm kết làm thông gia, mặc dù Quỳnh
nhiều lần cương quyết chối từ. Cách đây mấy hôm, chính Quỳnh đã báo cho An biết
tin này và nàng còn quả quyết với anh rằng nếu gia đình ép quá đáng thì nàng sẽ
bỏ nhà trốn đi chớ quyết không chấp nhận.
- Ông vừa lòng chưa? Ông đem xác con ông đi mà gả
cho họ!
Bà vừa gào vừa lao tới ông Phủ Vệ như muốn xé xác
ông ta ra. Tranh thủ lúc đó, Liễu Huệ lại nói khẽ với An:
- Cô Quỳnh còn gửi vật này cho cậu đây.
Đó là chiếc quạt giấy, vật mà trước đây An đã tặng
cho nàng. Và đây là vật mà ít khi nào Quỳnh chịu rời ra, ngoại trừ…
Liễu Huệ nói thêm:
- Cô Quỳnh dặn đưa ngay cho anh một lượt với cuốn
sổ. Nhưng vì quá vội nên lúc nãy em quên. Không biết cô có ý gì...
An nhìn thấy ở đầu cây quạt có một dòng chữ viết
tháo: ''Dù thế nào cũng ở bên em, anh nhé!''
- Quỳnh ơi!
Thì ra đó là những lời trối trăng của nàng. Có
nghĩa là Quỳnh biết trước kết cuộc này. Vậy mà An thì vẫn vô tình.
Liễu Huệ đưa sơ đồ địa điểm nhà cho An, vừa dặn: -
Chính bà chủ đã dặn em đưa cho cậu. Bà không nói điều này cho ông biết.
Trong tờ sơ đồ vẽ một ngôi nhà nằm trong một điền
trang lớn ở một vùng núi khá rộng. Huệ giải thích thêm: - Đây là điền trang
riêng của ông bà, cách nơi này khoảng ba mươi dặm. Nơi đó có sẵn một ngôi nhà
khang trang, trước đây xây dựng dành để cho gia đình nghỉ dưỡng vào mùa hè,
nhưng từ nhiều năm rồi do ông bận việc quan trường nên rất ít về đó. Nửa năm
trở lại đây thì ông lại bị đau nặng một bên chân, nên chắc chắn là sẽ không còn
cơ hội về nơi ấy. Đường đi hơi khó, nhưng là nơi có khung cảnh bình yên, thơ
mộng. Bà quyết định đưa cô Trúc Quỳnh về đó mai táng là có ý để cho cô cậu có điều
kiện gần gũi bên nhau, bởi bà biết ý cô và cậu nữa, dẫu âm dương đôi đường
nhưng chắc không muốn rời xa nhau!
An cầm tờ sơ đồ lên tay mà chua xót trong lòng. Anh
chép miệng: - Sống không cho gần nhau, thì chết rồi còn nghĩa lý gì đâu!
Liễu Huệ là người hầu của Trúc Quỳnh từ hơn chục
năm, được cô chủ thương và tin tưởng, mà cả bà Phủ cũng mến, nên cô nàng biết
khá nhiều chuyện:
- Cậu không biết chớ đã nhiều lần bà bênh vực cậu
quyết liệt, không để cho ông đuổi cậu đi. Bà thương cậu, nhưng trước uy quyền
quá lớn của ông nên đành phải bất lực.
Anh đâu còn ai để tâm sự nên phải nói với Huệ:
- Tôi biết chớ. Chỉ vì làm theo lời mẹ tôi dặn lúc
lâm chung, nên tôi mới cắn răng tới ở đây để đi học, rồi khi đi ra trường tôi
đã có ý đi tìm chỗ trọ khác, nhưng Trúc Quỳnh không cho.
Huệ thêm vào:
- Cô đời nào để cậu đi! Cô Quỳnh đã nhiều lần kể
cho em nghe chuyện gia đình cậu và ông bà Phủ hứa với nhau kết thông gia khi
cậu và cô Quỳnh lớn lên. Cho đến khi thấy cảnh nhà cậu sa sút thì ông đổi ý,
muốn hủy hôn. Chính cái ngày ông Phủ tuyên bố hủy hôn thì đã một lần cô Quỳnh
khóc hết nước mắt, đòi bỏ nhà đi, làm cho ông phải cho người canh giữ cô ấy rất
kỹ. Lần đó là lúc cậu gần thi tốt nghiệp, cậu nhớ không?
An gật đầu: - Đó là lần ông ấy đuổi tôi ra khỏi
nhà. Cũng nhờ bà Phủ ngăn lại và cũng vì lo cho Quỳnh nên tôi bấm bụng, chịu
nhục ở lại đây...
Vừa giúp An chuẩn bị hành lý, Huệ lại dặn:
- Bà dặn em đừng để cho ông biết chuyện này. Hình
như ông cũng không thích cậu dính líu bất cứ chuyện gì trong nhà này. Mà này,
cậu...
Liễu Huệ định hỏi gì đó thì vừa lúc có tiếng quát
tháo của Phủ Vệ bên ngoài, nên cô ngưng ngay, vừa đi ra vừa dặn:
- Khi nào sửa soạn xong cậu cứ đem đồ ra bờ sông,
có chiếc ghe nhỏ đợi sẵn ở đó, chừng hai mươi phút sau thì em sẽ ra tới. Em đích
thân đưa cậu đi.
An ái ngại: - Đường xa, cô đi đâu có tiện?
Huệ cười: - Đâu có sao. Em vốn là dân sông nước,
lại quen địa hình vùng này như lòng bàn tay, cậu An không phải lo.
An vừa hồi hộp, vừa mừng vui. Bởi đây là lần đầu
tiên sau hơn một tháng anh mới có dịp tới chỗ chôn cất Trúc Quỳnh. Hôm di quan
Quỳnh đi, chẳng hiểu có ý gì mà Phủ Vệ đã quyết liệt ngăn cản không cho An đi
theo. An đã tính liều mạng chống lại quyết định ấy, nhưng bà Phủ đã ngầm bảo An
cố chịu đựng, và hôm nay An mới hiểu ý của bà mẹ tốt bụng đó. Bà đã ngầm bố trí
cho An chuyển tới sống hẳn ở điền trang, và như thế là bất cứ phút giây nào anh
cũng ở bên cạnh Quỳnh mà chẳng làm phiền lòng ai. Cũng chính bà đã ngầm vận
động cho An chuyển về dạy ở ngôi trường gần điền trang, để anh không phải vất
vả đi về trường cũ quá xa xôi. Dẫu sao thì An cũng cảm ơn và được an ủi là
trong gia đình Phủ Vệ vẫn còn có những người không tệ bạc.
- Cậu An ơi!
Nghe tiếng gọi khẽ của Liễu Huệ ngoài cửa sổ, An
bước ra và hiểu là có chuyện, An hỏi nhanh:
- Có gì trục trặc chăng?
Huệ đưa một gói giấy nhỏ, bảo:
- Ai gửi cái này cho cậu mà để ở ngoài cửa phòng,
em sợ ông thấy nên cầm ra đây cho cậu, vừa tiện báo cho cậu nên đi ra ngay,
trong lúc ông đang có khách ở nhà trên.
An cầm gói giấy dán kín trên tay ngạc nhiên hỏi:
- Cái này của ai vậy?
Huệ gấp rút chạy đi trước, An đành phải xách va li
chạy theo mà vẫn còn thắc mắc về vật cầm trên tay.
Mãi đến khi ghe đã rời bến rồi, anh mới hỏi:
- Cô nói ai gửi cho tôi cái này?
- Em không biết, hỏi bà thì bà cũng không biết. Cậu
mở ra xem là cái gì?
An nhẹ tay mở ra và kinh ngạc: - Cái áo cánh lụa
màu vàng này là của... của Trúc Quỳnh.
Liễu Huệ xác nhận:
- Đúng là của cô Quỳnh! Nhưng lạ quá cậu An...
Huệ ngừng tay chèo, cầm lấy chiếc áo lụa nhìn kỹ: -
Chính tay em giúp bà mặc chiếc áo này cho cô Quỳnh hôm tẩm liệm cô ấy, mà sao
bây giờ nó lại ở đây?
An run lên vì xúc động: - Đúng là áo của Quỳnh rồi.
Nó có hơi của cô ấy đây.
Liễu Huệ đưa trả chiếc áo lụa cho An vừa lẩm bẩm: -
Không lẽ...
An hỏi lại: - Cô vừa nói gì?
- Dạ... không có gì.
Thật ra Huệ đang nghĩ đến điều mà cô cảm thấy nổi
gai ốc cả người. Vốn người rất nhạy cảm, nên Huệ có lẽ cảm nhận được điều lạ
trước hơn An. Cô lén nhìn An, đưa mắt dò xét... Thấy An ngây người ra, cô im
lặng để không phá vỡ dòng suy tư của anh. Mãi khi ghe tới ngay một khúc sông
rộng thì Huệ nhắc:
- Cậu An có nhớ lần mình đi về quê ngoại cô Quỳnh
không? Khi đi ngang qua đây, cô Quỳnh đã đố cậu cái cây gie ra sông kia là cây
gì, khi cậu trả lời đúng tên thì cô ấy giận cậu.
An cười gượng:
- Nhớ chớ. Đó là cây bần. Khi tôi nói tên cây và ví
nó như mình thì Quỳnh giận ra mặt, cấm không cho tôi nói như vậy nữa. Mà cũng
lạ, tôi nghèo, ví mình như cái cây mọc bơ vơ ven sông đó, sao Quỳnh lại cho tôi
yếm thế, mỉa mai.
Liễu Huệ vẫn còn bênh cô chủ mình:
- Lúc nào cô cũng không muốn cậu mang mặc cảm giàu
nghèo. Bởi dưới mắt cô, cậu đâu phải thầy giáo nghèo, đâu phải là người bị rẻ
rúng.
An nhẹ lắc đầu:
- Thực tế là vậy rồi, chối bỏ làm gì!
Thấy An không vui, Liễu Huệ thôi không nói chuyện
đó nữa, cô chuyển sang chuyện khác:
- Em hỏi thật liệu về sống ở điền trang này cậu
chịu được bao lâu?
- Sống mãi ở đó.
- Đấy là cậu nói đó nhé! Không ai ép...
An sa sầm ngay nét mặt:
- Từ Iâu nay cô Huệ biết tính tôi. Đâu bao giờ tôi
đùa giỡn với tình cảm dành cho Quỳnh. Xin cô tôn trọng cho.
Liễu Huệ hoảng hốt:
- Dạ không, em không có ý đó! Xin cậu...
An nghiêm giọng:
- Tôi sẽ ở với Quỳnh, kể cả khi cha mẹ cô ấy không
cho nữa thì tôi vẫn tìm cách ở lại điền trang đó. Làm người quét lá, dọn vườn
cũng được!
Huệ pha trò cho nhẹ bầu không khí:
- Em đang tính xin với ông bà về điền trang để ngày
ngày được hầu hạ cô Quỳnh như khi cô còn sống, vậy chắc là không có việc làm
rồi! Cậu An giành mất còn đâu!
An mải lý sự mà quên chiếc áo cánh còn trong tay,
khi nhớ ra, anh đột nhiên hỏi: - Huệ nhớ lại xem, có phải chiếc áo này đã cho
vào áo quan?
Huệ gật đầu quả quyết: - Chính tay em đưa cho bà và
bà bảo em đặt lên ngực của cô Quỳnh, bởi khi sống cô ấy thích chiếc áo màu vàng
này nhất, trong số bốn năm chiếc khác màu. Chẳng biết lý do gì… Em không thể
lầm!
An muốn tiết lộ chính anh là người đã mua tặng cho
Quỳnh chiếc áo này, và cũng là chiếc áo mà cô nàng luôn mặc mỗi sáng khi đứng
nép bên rào tiễn anh đi dạy học.
- Thưa cậu...
Liễu Huệ định nói gì đó, nhưng lúc ấy An đang thẫn
thờ đưa mắt nhìn ra xa, nên cô chỉ nhẹ thở dài im lặng...
Đến xế trưa hôm đó thì họ tới nơi. Khu điền trang
này An mới đến lần đầu, nên khi vừa bước lên bờ, anh đã hỏi: - Mộ của Quỳnh
chôn ở đâu?
- Ngay cạnh ngôi nhà kia. Tuy nhiên vừa đi đường xa
đến, cậu không nên ra mộ ngay. Vả lại cậu còn ở đây lâu dài mà, lo gì...
An rất nôn nóng muốn gặp lại người yêu, nên mặc cho
Huệ nói, anh hấp tấp đưa hành lý vào nhà rồi bảo Huệ:
- Cô giúp tôi thu xếp chỗ. Tôi ra ngoài một chút.
Không cần hỏi thêm, An bước đi như chạy, nhầm hướng
sau nhà. Và anh tìm được khu nghĩa trang gia đình, gồm bốn ngôi mộ nằm quây
quần nhau. Trong số đó, mộ của Trúc Quỳnh mới xây nổi bật giữa thảm cỏ xanh rì.
Hôm đi an táng Quỳnh, An bị cấm không cho theo,
nhưng sao lạ quá, trên mộ bia của nàng có đôi dòng chữ màu đỏ được viết khác
hẳn với những chữ chạm khắc thông thường. Mà những chữ này lại chính là câu thơ
của chính An tặng cho Quỳnh cách nay đã lâu! Chẳng lẽ cha mẹ Quỳnh cho viết lên
đây?
An đưa tay sờ lên hai dòng chữ thì... từng chữ một
dính theo tay anh xóa mất mấy chữ.
- Không!
An rụt tay về và cảm giác như tay mình buốt lạnh,
và màu đỏ kia chẳng khác màu máu!
- Có ai đó vừa viết những chữ này?
An chưa biết hỏi ai thì đã có giọng của Liễu Huệ:
- Đã nói rồi, cậu chưa khoẻ mà...
An quay lại hỏi ngay:
- Ai đã viết những dòng này lên bia?
Huệ ngạc nhiên: - Chữ nào?
An quay lại chỉ, dòng chữ bị ngón tay anh xóa vừa
rồi đã... hiện trở lại như trước đó, không thiếu một nét! Không tin vào mắt
mình, anh ghé sát mắt vào nhìn, vừa định gí tay vào lần nữa, nhưng lại sợ chữ
bị biến đi.
Huệ thấy lạ liền hỏi: - Chuyện gì vậy cậu An?
- Cô có biết ai viết hai dòng chữ màu đỏ này lên
bia không?
Liễu Huệ bước đến gần xem kỹ, rồi lắc đầu:
- Hôm dựng bia có mặt em, đâu có thấy những dòng
này đâu.
Cô vô tình đưa tay chạm vào và rụt ngay tay về, kêu
lên: - Lạnh quá!
Huệ có cảm giác lạnh buốt cả đầu ngón tay. Vừa lúc
An la lên: - Cô đừng chạm vào đó!
Lần này những dòng chữ cũng bị xóa đi ngay chỗ Huệ
vừa chạm vào. Tuy nhiên màu đỏ không bám theo tay của Huệ, mà chảy dài xuống
mặt đá phẳng bóng. Chẳng khác gì những giọt máu đang tuôn trào!
Trong lúc An lặng người đi thì Huệ bỗng hốt hoảng,
lùi lại:
- Cậu An!
An ra dấu cho Huệ đứng yên, còn anh thì lại đặt tay
vào đúng chỗ những chữ vừa mất. Như một điều kỳ diệu, dòng chữ lại y nguyên như
trước! An nói, như chỉ muốn mình Quỳnh nghe:
- Anh hiểu rồi, bây giờ anh đã có mặt và mãi mãi sẽ
ở bên em!
Anh quay lại bảo Huệ: - Cô có thể về được rồi đó.
Tôi sẽ ở lại đây, không cần phải làm quen chỗ đâu.
- Nhưng bà Phủ dặn em là phải chờ cho cậu sắp xếp
mọi việc xong rồi mới về, nhất là việc dẫn cậu đến trường học gần đây để cậu
nhận việc đã.
An trấn an:
- Không sao đâu. Tôi tự lo liệu được.
Liễu Huệ vẫn không chịu: - Vậy thì cậu cũng phải
vào nhà để em dặn mấy điều quan trọng này. Bà sẽ rất buồn nếu cậu không làm
theo.
Dẫu đang rất muốn một mình ở lại bên mộ, nhưng nghe
vậy, An đành miễn cưỡng đứng lên theo vào nhà. Căn phòng chính trong nhà dành
riêng cho An, cửa vẫn khóa. Huệ bảo:
- Bà dặn khi tới đây phải chính cậu với lên trên
cao lấy chìa khóa phòng. Ở trên đầu hồi, em không với tới được.
An rất khó khăn mới lấy được xâu chìa khoá bám đầy
bụi, chứng tỏ từ lúc để đến giờ chưa một lần lấy xuống. Huệ dặn: - Cậu mở cửa
phòng rồi đưa hành lý vào, để em đi làm mấy món ăn cho bữa cơm chiều giúp cậu
rồi về cũng không muộn.
An vừa đẩy cửa phòng vào đã khá ngạc nhiên thấy
trên giường ngủ chăn, nệm, gối được xếp ngay ngắn, gọn gàng và còn có mùi hương
nhẹ thoảng khắp cả phòng. Dấu hiệu căn phòng mới chớ không phải bỏ lâu ngày!
Bật diêm tìm cây đèn dầu hay nến, nhưng vừa khi ấy
tự dưng toàn gian phòng sáng trưng. Bóng đèn điện đang cháy khiến An ngỡ ngàng.
Anh không nghĩ chốn sơn trang này lại có đủ tiện nghi thế này. Nhưng ai đã bật
điện, trong khi anh chưa hề chạm vào công tắc điện?
Nhìn một lượt khắp gian phòng An càng ngạc nhiên
hơn, bởi bốn bên tường đều có treo những bức thư pháp toàn những câu thơ của An
và Quỳnh. Kể cả những đoạn hai người viết cho nhau một cách kín đáo cũng được
chép lại ở đây. Mà chữ thì rõ ràng là của chính Trúc Quỳnh!
- Sao lại thế này?
An còn đang hoang mang thì đã nghe tiếng la thất
thanh của Liễu Huệ: - Cậu An ơi, ra xem nè!
An chưa kịp bước ra thì Huệ đã đứng bên ngoài cửa phòng,
sắc mặt hớt hải:
- Ai... ai đã... dọn cơm sẵn rồi.
An bước xuống nhà bếp, anh nhìn thấy trên bàn ăn
một mâm cơm còn bốc khói, ai đó đã dọn sẵn.
- Cô làm phải không Huệ?
Liễu Huệ giọng vẫn còn run:
- Em mới xuống là đã nhìn thấy rồi.
Nhìn kỹ hơn, An nhận ra toàn những món ăn khoái
khẩu của mình. Tuy chưa một ngày chung sống với nhau, nhưng ngoài Quỳnh ra thì
chưa một ai rành sở thích của An như vậy. Bởi đã đôi lần Quỳnh hỏi An thích ăn
gì, mặn lạt ra sao. Quỳnh bảo phải biết rõ sở thích của anh, để sau này thành
vợ chồng còn biết đường mà phục vụ. Đứng im một lúc, An lẩm bẩm:
- Chính Quỳnh đã làm chuyện này.
Nghe không rõ, Liễu Huệ hỏi lại:
- Cậu An nói sao?
An nhẹ lắc đầu: - Không có gì.
Trong lòng An đang lóe lên một điều gì mà ngay lúc
đó anh cười một mình. Ngại Huệ hỏi thêm lôi thôi, An mời:
- Huệ cùng tôi ăn bữa cơm này rồi về kẻo muộn.
Chẳng biết ai nấu, nhưng chắc là ai đó có ý tốt,
nên mình cũng chẳng ngại.
Liễu Huệ tìm cách về ngay: - Thôi, để em về cho kịp
con nước xuôi dễ đi. Cậu cứ ăn đi.
Khi Huệ ra tới ngoài rồi, An chợt nhớ nên chạy theo
dặn: - Cô chớ nên kể cho ai nghe những gì thấy nãy giờ. Kể cả với bà Phủ.
- Nhưng bà có lòng với cậu mà!
An phải giải thích: - Biết là vậy. Nhưng chuyện hôm
nay còn chưa rõ ràng, nói e bà sẽ lo lắng. Để vài hôm tôi theo dõi kỹ rồi sẽ
báo sau.
Huệ vốn tính thật thà, cô hứa liền: - Cậu An không
phải lo, em lúc nào cũng kín miệng. Miễn sao cậu sống được yên ổn là tốt rồi.
Thôi, em về đây.
An ra bờ sông đứng, chờ cho Huệ đi thật xa rồi mới
quay vào nhà. Chỉ còn lại một mình, lúc này An mới ngửa mặt lên trời nói thật
to:
- Trúc Quỳnh của anh! Đừng hù doạ anh nữa!
Mặc cho An la, gào, bốn bề chung quanh anh vẫn lặng
như tờ. Trời bên ngoài bắt đầu tối...
NGÔI MỘ TÌNH
(Tác giả: Người Khăn
Trắng)
An được trường phân công dạy lớp Đệ Tam và Đệ Nhị.
Đây là lớp học mà học sinh đều ở tuổi lớn, sắp trưởng thành, nên với một thầy
giáo trẻ như An rất khó khi đứng lớp. Biết anh là giáo viên mới chuyển tới, nên
hầu hết học sinh lớp Đệ Nhị đều cứ nhìn thầy mà mỉm cười.
Đặc biệt là các nữ sinh. Suốt trong buổi dạy đầu,
An cố gắng nói cười vừa phải, nhưng cũng không quá nghiêm, bởi anh cũng muốn
lấy cảm tình với đám học sinh mới của mình. Lúc ra về, anh đi bộ ra chỗ bến xe
thổ mộ, khi vừa leo lên xe thì một chị buôn gánh bước lên sau đã nhắc An:
- Cậu có cái gì dính sau quần kìa!
An đưa tay gỡ và nhìn vào tờ giấy cỡ bàn tay có
dòng chữ viết khá nắn nót nét đẹp của con gái: “Thầy đẹp trai quá, thầy An
ơi!''
Đoán là cô nữ sinh nào đó trong lớp phá mình, An
không bực mình, chỉ nhẹ mỉm cười. Anh định vứt mảnh giấy xuống đường, nhưng
thấy mọi người trên xe đang nhìn mình, nên An vội nhét đại vào túi quần, định
về nhà sẽ vứt đi.
Từ trường về điền trang cũng khá xa, lại phải qua
đò, nên phải hơn nửa giờ sau An mới về tới nhà. Thường thì anh phải tự lo bữa
ăn, nếu hôm nào về trễ. Cái lạ là ở chỗ này: Lúc nào An dạy về đúng giờ thì có
một mâm cơm dọn sẵn. Còn về trễ thì chẳng thấy! Vài lần An thắc mắc, nhưng sau
đó thì anh hiểu: Về trễ là bị phạt!
Như hôm nay, chẳng có mâm cơm, trái lại trên bàn ăn
còn có một cái chén không và đôi đũa nằm chỏng chơ.
Như thường lệ, An nói rất khẽ: - Anh xin lỗi.
An lại đi nhóm lửa, nấu cơm và ăn qua loa. Tối đó
anh có nhiều bài phải chấm điểm, nên anh phải thức khá khuya. Và cũng như những
đêm trước, ngồi làm việc thỉnh thoảng anh lại nhìn qua cửa sổ để chờ đợi... Cái
mà anh chờ là một đóa hoa tươi, chẳng biết từ đâu mà luôn rơi đúng trước mặt An
khi anh ngồi trên bàn. Chẳng cần nghĩ ngợi xa xôi, An cứ cho tác giả của hành
động đó là... Trúc Quỳnh.
An thường hướng ra mộ mỗi khi nhận được hoa và luôn
khấn: - Em hãy yên nghỉ. Anh luôn chờ em! Những lúc như vậy, An luôn có cảm
giác như một bên má của mình được ai đó hôn phớt qua.
Tối nay, An đợi khá lâu mà chưa thấy bông hoa bay
qua cửa sổ, rơi lên trang vở. Anh thầm nghĩ chắc là nàng giận...
Và có lẽ quá mệt, nên trong lúc chấm bài An đã gục
xuống ngủ ngon lành. Đến khi choàng tỉnh, anh càu nhàu:
- Lại gục rồi..
Chợt An nhìn thấy đóa hoa tươi nằm đó. Và ngoài ra,
anh còn phát hiện trên trang vở còn có một dấu chân rất lạ. Không phải dấu chân
người, mà giống như Chân một con vật.
Điều này lần đầu An nhận ra, anh giật mình tự hỏi:
- Con vật gì lại vào đây?
Dấu chân lớn hơn chân mèo, cũng lớn hơn chân của
những con chó thông thường... Mà ở vùng này ngoài những con vật đó ra đâu còn
loài nào nữa. Chồn cáo thì chân cũng cỡ chân chó. Chỉ có cọp, beo? Nhưng từ
ngày về đây ở đến nay đã mấy tháng rồi, An có nghe ai nói chốn này có những
loài mãnh thú đó. Mà ví dụ có thì lúc anh ngủ, một khi chúng đã vào đây rồi thì
mạng sống của anh làm sao còn giữ được! Dấu chân còn khá mới, lại hơi ươn ướt,
chứng tỏ bên ngoài sương đêm đã khá nhiều...
Hơi rờn rợn người nên An xếp sách, đóng cửa sổ và
đi nghỉ. Anh cứ thắc mắc mãi chuyện lạ đó cho đến khi ngủ say trở lại.
Sáng dậy, việc đầu tiên của An là đi ngay ra mộ
người yêu làm cái việc mà gần ba tháng nay sáng nào anh cũng làm là đốt nén
nhang cắm trước đầu mộ, nhìn nhang cháy đến gần phân nửa mới vào sửa soạn đi
dạy.
Hôm nay vừa ra tới nơi, anh đã ngạc nhiên khi nhìn
thấy ngay ở đầu mộ có một mảnh giấy nhỏ, trông quen quen. Anh chụp vội đưa lên
xem thì lại càng ngạc nhiên hơn, bởi đó chính là mảnh giấy mà các nữ sinh viết
chọc phá anh!
- Mình bỏ nó trong túi mà...
Vừa lẩm bẩm, An vừa cho tay vào túi quần thì không
còn gặp. Anh lại ngẩn ngơ hồi lâu. Chẳng lẽ Trúc Quỳnh lấy đưa ra đây.
Thay vì chỉ chờ nhang cháy nửa cây là An đi dạy như
thường khi. Bữa nay anh mắc lo suy nghĩ chuyện khó hiểu kia, nên đến khi nhang
tàn anh mới chợt nhớ, hốt hoảng chạy vào sửa soạn vội rồi đi thật nhanh cho kịp
giờ.
Vào lớp trễ gần mười phút, Cũng may, An không bị
Ban giám hiệu phát hiện và đám học sinh cũng ngoan ngoãn ngồi yên trong lớp đợi
thầy.
Điều làm An ngạc nhiên hơn là thấy một nữ sinh đang
đứng cạnh bàn, trong tư thế khoanh tay. Mặt cô bé đỏ bừng, nước mắt ràn rụa.
- Ủa, em bị sao vậy?
Cô bé nói trong sợ sệt:
- Em xin lỗi thầy. Chính em…
Cô ta ngập ngừng mãi khiến An phải nhìn xuống lớp
hỏi: - Thanh Thủy có chuyện gì vậy mấy em?
Có một bạn nữ đứng lên thưa?
- Dạ thưa thầy, lúc nãy Thủy cùng đi với em tới
trường, bỗng dọc đường nó lảo đảo như bị ai đó xô.
Sau đó, nó ôm lấy mặt kêu oai oái! Em chẳng biết
chuyện gì, nhưng khi nhìn lại thì thấy hai bên má nó đã sưng vù!
- Bị ai đánh?
An hỏi và nhìn Thủy. Cô bé lắc đầu:
- Dạ, em cũng không biết.
Bạn kia nói thêm: - Lúc ấy chỉ có hai chúng em,
không có ai khác cả!
An hỏi lại: - Vậy em xin lỗi thầy mà lỗi gì?
Thủy ngập ngừng một lúc nữa rồi mới nói được: -
Dạ... hôm qua em đã… thất lễ với thầy, em viết...
- Viết mà viết cái gì?
Ở dưới lớp, nhiều học sinh la to:
- Dạ, bạn ấy viết rồi gắn phía sau túi quần của
thầy. Chợt nhớ ra mảnh giấy, An trố mắt:
- Em là tác giả?
Thanh Thủy sợ điếng hồn, bởi nghĩ thầy nổi giận:
- Dạ. Em biết lỗi. Em xin thầy tha cho.
An kịp bình tĩnh, anh nhẹ giọng bảo:
- Thôi không sao, em về chỗ ngồi đi.
Anh hướng về lớp:
- Các em im lặng và chúng ta bắt đầu tiết học. Thầy
cũng xin lỗi vì đi trễ gần mười phút.
Buổi đứng lớp hôm đó chính An cũng có cảm giác bất
an. Cũng chẳng biết là điều gì. Đứng trên bục giảng mà thỉnh thoảng anh như
nhột nhạt sau gáy. Lúc bất chợt nhìn lại thì lần nào An cũng thấy ánh mắt cô nữ
sinh Thanh Thủy nhìn mình. Cô bé vội cúi gằm mặt tránh đi.
Trong giờ ra chơi buổi học chiều, thầy giám thị tới
phòng giáo viên báo cho An biết có một học sinh bị choáng vừa được đưa đi cấp
cứu. Khi hỏi ra thì đó chính là Thanh Thủy. Hỏi các bạn thân của cô bé thì An
được họ cung cấp thêm thông tin:
- Thầy không biết chớ Thanh Thủy lớn hơn bọn em đến
hai tuổi. Bạn ấy là con nhà giàu, đáng lý ra đã nghỉ học hồi năm rồi để lấy
chồng theo ý của cha mẹ, nhưng Thủy từ chối, quyết phải học cho hết năm Tú tài
rồi mới thôi. Bạn ấy hiền và dễ thương nên trong lớp ai cũng mến. Hồi sáng khi
chuyện xảy ra chính Thủy cũng không ngờ. Giờ ra chơi sáng, Thủy mới nói riêng
với em là chẳng hiểu sao từ lúc đó trở đi, bên tai Thủy lúc nào cũng như có
tiếng nói của ai đó khiến cho Thủy bất an và sinh bệnh.
An tính hết giờ sẽ đi thăm cô học trò, nhưng khi
tan học thì bạn bè Thủy báo tin rằng cô bé đã được người nhà đón về.
An dặn các học trò:
- Sáng mai nếu Thủy vẫn chưa đi học thì em nào biết
nhà dẫn thầy đi thăm Thủy nhé.
Anh ra về với lòng nặng trĩu về cô học trò. Chuyện
Thủy bị những hiện tượng lạ khiến An ngờ ngợ điều gì đó. Mà chính xác là điều
gì thì An cũng không rõ...Vừa về đến nhà, việc đầu tiên là An đi thẳng ra mộ
của Trúc Quỳnh.
- Thanh Thủy!
An sững lại, kinh ngạc khi thấy người đang phủ phục
trước mộ là... Thanh Thủy.
Cô gái chừng như không nhìn thấy An, vẫn quỳ và
chắp tay, mắt nhắm nghiền.
An lại gọi:
- Thanh Thủy! Sao em...
Chợt một cơn gió rất mạnh thổi tung bụi mịt mù,
khiến An phải bịt mắt mũi lại. Đến khi nghe hết gió, mở mắt ra anh vô cùng ngạc
nhiên khi không còn thấy cô gái đâu nữa.
- Thanh Thủy!
An gọi to và quay bốn hướng tìm kiếm. Chẳng thấy
bóng dáng cô ta đâu. Vừa định bước đi xa hơn để tìm, thì một chân của An vướng
vào một cục đá, ngã nhoài về phía trước. Vô tình mặt An gần như chạm vào chỗ để
đồ cúng trước ngôi mộ. Và... anh lại thấy một mảnh giấy khác, nức mùi hương
quen thuộc. Hương của Trúc Quỳnh!
Cầm mảnh giấy lên, An giật mình đọc: “Có còn thương
em không? Nếu hết thì đi theo hướng Tây, ắt sẽ gặp được người con gái khác và
đó là lương duyên của anh. Còn bằng không thì trở vào nhà ngủ một giấc cho đến sáng
mai, khi thức dậy ắt sẽ biết phải làm gì.
Đừng thắc mắc uổng công. Trúc Quỳnh".
An vui quá, không kiềm chế được, anh ôm mộ bia và
kêu lên: - Quỳnh ơi!
Mảnh giấy theo gió cuốn tung lên rồi biến mất. Vẫn
muốn lưu lại đó thêm, nhưng hình như Quỳnh không muốn, nên trong phút chốc
chung quanh ngôi mộ đã đầy những cành lá, bụi bặm, không có một chỗ trống nào
để ngồi. An đành thất thểu bước về nhà.
Đêm đó, An biết chắc là mình sẽ chẳng thể nào an
giấc được. Tuy nhiên, rất lạ vì chỉ vừa nằm xuống là An đã ngủ say...
Lúc An tỉnh dậy, anh nhìn thấy ngay dòng chữ bằng
phấn viết trên tấm bảng treo ở tường: “Đến ngay làng Đông Hà, ấp Hạ, tìm nhà
ông bá hộ Sang. Đến ngay kẻo không kịp''.
Dưới dòng chữ không ký tên. Nhưng giọng văn và nét
chữ An đã biết là của Trúc Quỳnh! Đêm đó, trong phòng còn vương lại hương thơm
quen thuộc... An định không nghe theo, nhưng chẳng hiểu sao như có ai thúc
giục, khiến anh phải thay quần áo và đi ngay. Cũng may hôm ấy là ngày nghỉ cuối
tuần.
Chưa quen vùng này, nhưng An cũng không khó để tìm
ra xã Đông Hà. Đó là xã giáp ranh với nơi An đang dạy học. Khi anh hỏi thăm nhà
bá hộ Sang thì ai cũng biết. Họ chỉ ngay: - Cậu đi tới chỗ đầu cầu đúc, nhìn
thấy ngôi nhà ngói lớn nhất thì chính là nhà ông ta. Bộ cậu đi đám ma hả?
An ngạc nhiên, chùng bước:
- Nhà đó có đám ma sao? Vậy thì...
Người nọ nói thêm: - Khách đến viếng đông lắm rồi.
Cậu tới là vừa đó. Tội nghiệp con nhỏ, mới lấy chồng mà đã yểu mạng.
Nghĩ mình là người lạ, tới trong lúc nhà họ có ma
chay e không tiện, nên sau khi chào cám ơn người nọ, anh định bước tháo lui,
thì chợt có tiếng gọi:
- Thưa thầy!
An nhìn lại thì thấy ba cô cậu học trò của lớp Đệ
Nhị của mình đang đi tới, trên tay cầm vòng hoa tang.
Bọn chúng reo lên: - May quá, có thầy cùng đi thì
tụi em đỡ lúng túng. Đi nhanh lên thầy.
An lưỡng lự:
- Nhưng mà... đám tang nhà ai?
Một cô bé tên Lan nói ngay:
- Đến nơi thầy sẽ ngạc nhiên! Đi nhanh lên thầy!
Cô bé tên Sương thì nói:
- Nhà bá hộ Sang chớ nhà ai! Vả lại nhà con...
Cậu học sinh còn lại chặn lời:
- Đừng nói. Để tới nơi thầy sẽ ngạc nhiên!
Thấy mấy cô cậu học trò cứ úp mở, An định hỏi thêm
thì chúng đã kéo tay anh đi. Từ chỗ đó tới cầu đúc không xa, nên chỉ năm phút
sau là họ đã đến. Cô bé tên Lan liến thoắng:
- Có thầy tới nó mừng lắm!
- Ai mừng?
- Ủa, vậy ra trước khi tới đây thầy chưa biết đám
tang nhà ai sao?
An lắc đầu: - Không?
- Nhà của...
Cậu nam sinh lại chặn lời:
- Để chút nữa thầy sẽ biết!
Vừa khi ấy từ trong nhà có một người chạy ra, mừng:
- Thầy ơi, thầy cứu chị con!
An sững sờ khi thấy người đó là Thanh Thủy. Anh ngơ
ngác: - Em... tại sao em ở đây?
Lan nói nhanh:
- Đây là nhà của nó mà thầy! Hôm nay...
Thủy không e ngại nữa, cô chụp tay An lôi đi nhanh
vào nhà:
- Thầy vào mau đi!
Lúc thấy An bước vào thì một người phụ nữ lớn tuổi
hỏi ngay: - Ai đây con?
Thủy đáp liền:
- Thầy An đó má! Thầy giáo mà suốt đêm rồi chị Hai
con trong lúc mê sảng đã gọi tên!
Bà bá hộ Sang cũng reo lên:
- Cậu tới đây giúp con gái tôi với!
Lúc ấy, có giọng người đàn ông:
- Giúp cái gì nữa khi xác con Hai đã lạnh ngắt,
ngưng thở từ hồi khuya rồi!
Đó là ông bá hộ Sang. Mọi người vừa nhìn thấy ông
đã im thin thít, không dám khóc. Chỉ có bà là tiếp tục gào lên: - Ông để con nó
chết thảm như vậy mà đành lòng sao?
An nhìn thấy một xác người đã liệm vào quan tài mà
chưa đóng nắp. Một cô gái còn khá trẻ, trông hao hao giống với Thanh Thủy. Lúc
ấy Thủy cũng kịp lên tiếng: - Chị Hai em tên là Diệu Hoa, lớn hơn em hai tuổi.
Ngày hôm qua lúc đang tiến hành lễ cưới thì bỗng lăn đùng ra chết mà chẳng có
bệnh tật gì!
Bà bá hộ nắm tay An van lơn:
- Cứu con tôi với thầy ơi.
Thủy lại phải nói rõ hơn:
- Lúc ngã lăn ra hôn mê thì miệng chị Diệu Hoa luôn
kêu tên thầy giáo An, bảo phải đi tìm thầy tới đây cho chị ấy. Em chưa kịp đi
thì chị ấy đã tắt thở.
An ngạc nhiên: - Sao cô ấy lại biết thầy? Có khi
nào có sự nhầm lẫn?
Thủy lắc đầu: - Em nghĩ là không lầm. Bởi khi gọi
tên thầy thì chị Diệu Hoa lay tay em. Em hiểu đó chính là thầy. Mặc dù chị ấy
chưa biết thầy bao giờ.
Bà bá hộ cũng nói: - Nó còn bảo phải tìm cho được
thầy để thầy chạm vào người nó thì nó sẽ tỉnh lại. Nhưng đó là lúc nó đang hôn
mê, chớ bây giờ ngừng thở rồi thì còn hy vọng gì nữa?
Rồi bà hướng về phía những người đang đứng chung
quanh quan tài: - Cũng tại thằng chồng nó. Lúc con Diệu Hoa vừa kêu tên thầy An
thì nó nổi máu ghen hét toáng lên, hỏi An là thằng nào? Nó cho rằng An chắc là
người yêu cũ của con Hoa. Cũng tại tiếng hét quá lớn của nó nên con Hoa mới tắt
thở luôn!
Có giọng của ai đó, có lẽ là thân nhân bên nhà chú
rể: - Ai mà không ghen khi đang giữa đám cưới mà vợ mình kêu tên người đàn ông
khác!
Thủy nói khẽ với An: - Thầy đừng chấp những lời của
họ. Em xin thầy hãy đốt cho chị em nén nhang.
An làm theo lời. Anh thành tâm chấp tay khấn:
- Tôi là thầy giáo An. Nghe chuyện, tôi quá đỗi
ngạc nhiên, bởi cô chưa bao giờ biết tôi! Nếu có sự nhầm lẫn thì xin hiểu rằng,
tôi tới đây với tấm lòng thành...
Chợt An giật mình!
Lời khấn của An vừa dứt thì đôi mắt của xác chết
khẽ động đậy. Chẳng riêng An thấy, mà Thanh Thủy đứng cạnh cũng thấy, cô kêu
lên: - Chị Hoa! Chị đã...
Bằng một phản xạ tự nhiên, An chợt đưa tay chạm vào
thành quan tài. Vừa khi ấy bàn tay của xác chết chụp lấy anh và siết chặt!
An vốn đã nghe người ta kể về trường hợp hồi sinh
của xác chết, nên thay vì hoảng hốt anh lại bình tĩnh, đưa bàn tay còn lại vịn
lên bàn tay kia. Đó là tư thế vừa để gở bàn tay đang bị siết chặt, vừa có tác
dụng vận dụng sức lực tự vệ. Tuy nhiên, thật bất ngờ, cả thân thể người chết
bỗng ngồi bật dậy, đôi mắt Diệu Hoa mở to ra và kêu lên mừng rỡ.
- Anh đến với em rồi!
Lần này thì An hoảng hốt thật sự. Bản chất một nhà
giáo khiến An không thể tay trong tay với một cô gái khác không phải là người
yêu của mình. Anh định rút tay về thì cả hai tay của Diệu Hoa lại càng siết
chặt hơn.
- Cô... cô…
Bà Bá hộ thấy con mình sống lại thì mừng quá. - Hoa
ơi!
Trong khi đó thì những người khác do quá sợ hãi đã
ù té chạy. Có người còn gào lên: - Ma! Ma đội mồ!
An thì lúng túng quay sang cầu cứu với Thanh Thủy:
- Giúp thầy với!
Bỗng anh nghe giọng nói từ miệng của người sống
lại: - Đỡ em xuống!
An bỗng ngoan ngoãn làm theo. Anh đỡ Diệu Hoa ra
khỏi quan tài, dìu ra ngoài. Bà bá hộ định nhào tới ôm con thì Diệu Hoa đã
nghiêm giọng nói:
- Chỉ thầy An được chạm vào người tôi thôi. Bất cứ
ai khác chạm vào là tôi... chết trở lại liền!
Trong âm thanh của cô nàng có gì đó khiến bà bá hộ
và cả Thanh Thủy nữa nghe kỳ kỳ. Bởi nó không giống với tiếng nói quen thuộc
của Diệu Hoa bình thường! Bà quay sang Thủyỷ hỏi khẽ:
- Con Hoa bị sao vậy?
Thủy đưa mắt nhìn vào chị mình, thì bất chợt bị
Diệu Hoa chỉ thẳng tay vào mặt:
- Không được đứng gần thầy An như thế?
- Kìa, chị Diệu Hoa!
- Lui ra ngay! Nếu không thì đừng có trách!
Bỗng Thanh Thủy lui ra sau mấy bước, vừa lắp bắp
nói:
- Cô... cô ấy! Chính cô ấy đã đánh em! Cô… cô...
An còn chưa biết phải làm gì thì đã bị cô nàng nắm
tay kéo đi: - Anh vào đây giúp em cởi mấy thứ quần áo lỉnh kỉnh này ra ngay
với. Ai lại mặc hai ba lớp, nóng muốn chết!
An trì lại, ngượng đỏ mặt:
- Đâu được. Cứ để tôi...
Lúc này, nàng ta trừng mắt nhìn thẳng vào An:
- Đến lúc này mà anh chưa nhận ra em nữa sao?
Giọng nói thật là quen. An kêu lên:
- Trúc Quỳnh!
- Dữ hôn! Mới vắng có mấy ngày đã sinh tâm rồi!
An càng bối rối hơn: - Nhưng mà... tại sao...
Thấy mọi người chăm chú nhìn mình, cô nàng gắt lên:
- Bộ chưa từng thấy phụ nữ sao, nhìn gì nhìn dữ vậy? Đi hết đi!
Đến lúc này thì một số người còn nán lại vì tò mò
đã phải rút lui hết. Chỉ còn vợ chồng bá hộ Sang và con cái trong nhà. Ông bá
hộ giờ mới lên tiếng:
- Đứa nào chạy đi kêu thầy Tư Núi tới coi! Sao có
chuyện kỳ lạ thế này?
Diệu Hoa nghe nói vậy đã quay sang trừng mắt:
- Với bất cứ ai bước ra đi kêu thì phải bước qua
xác chết của tôi!
Ông bá hộ Sang xưa nay chỉ quen quát nạt và ra lệnh
cho thiên hạ, chớ ít khi phục tùng ai. Vậy mà trước cái quắc mắt đó, khiến ông
sợ thất thần, câm như hến ngay! Kể cả bà cũng vậy.
Diệu Hoa nói như ra lệnh: - Những gì liên quan tới
sính lễ của Diệu Hoa đều không còn ý nghĩa gì nữa, hãy đem trả lại hết cho nhà
trai!
Nói vừa xong thì cô ta lôi An đi vào nhà trong,
trước sự sợ hãi của An và sự kinh ngạc tột độ của gia đình bá hộ Sang. Thậm chí
mấy cô cậu học trò bạn Thanh Thủy cũng lo ngại. Họ bàn với nhau:
- Phải làm gì để cứu thầy An đi chớ, Thủy?
Thanh Thủy vẫn còn chưa hết bàng hoàng, cô lẩm bẩm
nói: - Hình như đâu phải chị Diệu Hoa?
Ở ngoài cổng rào có tiếng huyên náo. Cha mẹ chú rể
và cả chú rể Tấn Đạt cùng chạy vào một lượt. Họ được tin báo cô dâu sống lại
thì mừng rỡ chạy sang ngay. Đạt lên tiếng trước: - Đâu? Vợ con đâu?
Bà bá hộ lúng túng: - Nó… nó...
Nhà trai nhìn thấy Diệu Hoa đang nắm tay An kéo vào
phòng thì sững sờ! Bà chủ Tự vốn là người mồm miệng nhanh hơn chân tay, nên la
lớn cả xóm cùng nghe: - Mấy người gả con gái chưa đưa dâu về nhà chồng mà đã
rước trai về nhà cho nó rồi! Bớ làng xóm tới mà coi!
Trong lúc mọi người chưa kéo tới xem thì bỗng nhiên
bà ta ngã lăn ra, miệng hộc máu tươi như bị ai cắt cổ! Tấn Đạt thấy mẹ bị như
vậy thì hốt hoảng:
- Má ơi, má làm sao vậy? Má tôi...
Anh ta cũng đang sôi máu ghen, nên gào lên:
- Con dâm phụ, mày đã sinh tâm mà còn hại má tao
nữa à.
Lời anh ta vừa dứt thì cùng lúc ngã theo mẹ. Tình
trạng y như vậy. Ông chủ Tự còn đang bàng hoàng thì từ trong nhà Diệu Hoa đi
ra. Cô lột hết đồ nữ trang sính lễ trao lại: - Bác hãy cầm những thứ này về.
Còn hai người kia nếu họ đừng nói bậy nữa thì lát nữa họ sẽ khỏe lại, tự đi về
được. Không chết chóc gì đâu! Nhưng nên nhớ, Diệu Hoa mà ông bà coi là dâu đã
chết rồi!
Nói xong, cô không đợi xem phản ứng đã bước nhanh
vào nhà. Đi ngang qua chỗ Thanh Thủy đứng, cô ta nói: - Cô cho thu xếp tang lễ
lại đi. Ai có hỏi thì nói Diệu Hoa không còn là con nhà này nữa!
Và một lần nữa, cô ta nắm tay dẫn An đi thẳng vào
phòng riêng. Thanh Thủy nhìn mấy người bạn học, hội ý:
- Mấy bạn có cách nào cứu thầy An không? Tội nghiệp
thầy quá...
Lan nhanh nhảu: - Tại sao mình không gõ cửa phòng
để phá không cho chị bạn làm hại thầy An!
Họ làm ngay. Trong lúc gõ cửa, Lan đẩy hơi mạnh tay
làm cho cánh cửa bật vào trong.
- Em xin lỗl! Em chỉ muốn gặp thầy An...
Nhưng khi nhìn vào trong thì chẳng có một ai! Căn
phòng trống không. Thanh Thủy phải nói to lên:
- Chị đâu rồi Diệu Hoa?
Không có tiếng trả lời:
- Rõ ràng, họ mới vào đây mà?
Họ chạy khắp nơi tìm kiếm vẫn chẳng thấy bóng dáng
Diệu Hoa và An đâu...
Vừa xách giỏ thức ăn bước từ bến đò lên, Liễu Huệ
đã nghe ai đó gọi mình. Cô quay lại thì không thấy ai, nhưng khi bước đi thêm
mấy bước nữa thì Huệ cảm thấy chiếc giỏ như bị ai đó nắm ghì xuống. Nhìn lại
thì Huệ vô cùng ngạc nhiên khi không còn thấy món đồ ăn nào trong giỏ.
- Ủa?
Liễu Huệ không tin vào mắt mình, nên cố xốc tìm.
Vẫn là chiếc giỏ không. Những vật trong giỏ gồm quần áo sạch, thức ăn khô và
một số giấy bút... Những thứ mà chính tay bà Phủ Vệ chuẩn bị và sai Huệ mang
tới điền trang cho An. Hôm qua chính bà đã bảo rằng Trúc Quỳnh về trong giấc
mộng bảo bà mang những món cần thiết đó. Bà nói với Huệ:
- Nó dặn mày tới đó đặt giỏ đó rồi đi về ngay, đừng
la cà ở lại!
Liễu Huệ không tin điều đó, bởi lúc còn sống thì cô
Quỳnh đối với nó khác nào chị em ruột. Sao lại có chuyện cấm đoán này? Huệ định
bụng khi gặp An rồi cô sẽ tìm cách ra mộ thăm cô chủ rồi mới về... Nhưng bây
giờ mất hết đồ trong giỏ thì biết ăn nói sao với An. Huệ một lần nữa nhìn quanh
xem có ai lấy cắp đồ của mình. Tuyệt nhiên không một ai. Con đường rẽ về phía
điền trang là đường riêng, nên khách sau khi lên đến đã rẽ về hướng khác.
Mải suy nghĩ miên man mà đã tới điền trang lúc nào
Liễu Huệ không hay. Khi thấy cổng rào không chốt, Huệ bước thẳng vào mà không
lên tiếng hỏi.
- Kìa! Sao lại…
Liễu Huệ sững sờ khi thấy đang bày trên bàn là
những món đồ của mình vừa bị mất. Không thiếu một món nào...
Còn đang ngơ ngác thì chợt Huệ giật mình quay lại,
bởi có tiếng bước chân bước sau lưng mình.
- Cô là…?
Lúc ấy, Diệu Hoa đang mỉm cười nhìn thẳng vào Huệ:
- Con nhỏ thật vô tình. Mới có mấy tháng mà đã quên rồi!
Nghe giọng nói quen thuộc của Trúc Quỳnh, Liễu Huệ
đảo mắt nhìn, tìm kiếm. Nhưng rõ ràng âm thanh vừa phát ra là từ miệng của cô
gái này.
- Con quỷ thật là vô tâm. Đem đồ cho cậu chủ mà hớ
hênh như thế, nếu không có ta thì còn gì!
Bấy giờ Huệ mới kịp trấn tĩnh:
- Cô là... chính cô…
Vừa khi ấy An từ trong bước ra, anh thật tự nhiên
bước tới ôm vai Diệu Hoa.
- Sao cô cháu gặp nhau mà cứ trơ mắt nhìn như vậy?
Trúc Quỳnh, em hãy...
Huệ kêu lên: - Kìa, cậu An!
- Sao không chào ta, con quỷ!
Đúng kiểu nói đùa của Trúc Quỳnh lúc sinh thời! Huệ
không tin vào tai mình, cô hỏi lại:
- Cô vừa nói gì?
Diệu Hoa bất chợt chộp lấy cánh tay của Huệ siết
chặt. Huệ đờ người ra, miệng lắp bắp:
- Cô cô là…
- Tao là Trúc Quỳnh đây, con khỉ!
An giải thích:
- Huệ ở lại đây chơi rồi tôi và Quỳnh sẽ giải thích
thêm. Người này chính là Quỳnh đó!
Huệ cứ nghĩ nếu là Trúc Quỳnh hiện thân thì cơ thể
phải lạnh buốt như xưa nay người ta vẫn nói, đã là ma thì người phải lạnh,
không có sinh khí. Nhưng tay của Diệu Hoa thì bình thường như
mọi người khác. Biết là Huệ đang hoài nghi, Diệu Hoa kéo tay cô bé ra ngoài vừa
nói:
- Đi ra đây rồi sẽ hiểu.
Cô ta dẫn Huệ đi thẳng ra chỗ phần mộ của Trúc
Quỳnh. Huệ vô cùng kinh ngạc khi tên ghi trên bia không còn là Trúc Quỳnh như
trước, mà đã thay vào đó là: Diệu Hoa!
- Sao lại thế này?
- Đừng ngạc nhiên. Thay hồn đổi xác là chuyện đã
từng xảy ra. Cái xác trong phần mộ là của ta. Nhưng hồn là của cô Diệu Hoa, như
vậy mộ này vừa là của Trúc Quỳnh vừa của Diệu Hoa. Nhưng ta thì không muốn
chết, không muốn xa chàng, nên giờ đây vẫn là... Trúc Quỳnh!
Liễu Huệ vốn tính thật thà, cô đâu dễ chấp nhận:
- Làm sao như vậy được? Cô Quỳnh chết rồi! Cô
Quỳnh nằm trong mộ này, không thể nào... An kịp bước ra, giải thích: - Ban đầu tôi
cũng không tin, nhưng khi đi dự đám tang cô chị của một học trò, tôi đã chứng
kiến tận mắt việc này, nên không thể phủ nhận được. Đây chính là hồn của Trúc
Quỳnh. Cô ấy thác oan nên hồn phách không siêu thoát được, may gặp người con
gái có cùng hoàn cảnh bị ép duyên tự tử, nên hồn của Quỳnh đã kịp thời mượn xác
của người ấy mà sống lại! Anh thuật lại chi tiết hơn chuyện đã xảy ra cho Huệ.
- Cô về thuật lại cho bà Phủ nghe, nhưng nhớ là
không được đồn ra ngoài. Bởi chúng tôi chỉ muốn được yên ổn sống ở đây.
Dẫu không tin, nhưng trước lời xác nhận của An,
Liễu Huệ đành im lặng đứng hết nhìn ngôi mộ rồi lại nhìn Diệu Hoa. Chốc chốc,
Diệu Hoa lại nắm tay Huệ, giống như cử chỉ ngày xưa. Giọng trìu mến:
- Huệ hãy tin cô. Xưa nay cô không bao giờ nói dối
Huệ.
Qua giọng nói, Huệ xác nhận chắc chắn là Quỳnh. Tuy
nhiên cô làm sao quen được chuyện cô chủ mình. Trúc Quỳnh củng cố thêm niềm tin
cho Huệ: - Em ở lại đi, trưa nay cô sẽ nấu món canh rau tôm thịt mà thường khi
cô vẫn nấu cho cả nhà ăn!
Đúng đó là món canh độc nhất vô nhị, bởi chỉ có
Trúc Quỳnh mới nêm nếm đạt độ thơm, ngọt mà không một ai khác nấu được.
Do vậy, trưa hôm đó Liễu Huệ ở lại để dùng bữa
trưa. Ngoài món canh ngon tuyệt, còn có những món khác mà đã hơn chục năm ở
chung trong nhà, Huệ đã được Trúc Quỳnh cho ăn. Hương vị không thể lẫn lộn với
ai được. Thậm chí lúc ăn, tuy là trong lốt Diệu Hoa, nhưng từ cách ăn, cách
cười nói đều giống y như Trúc Quỳnh!
Thấy Huệ cứ nhìn mình mãi, Diệu Hoa phải nhắc: - Em
phải ăn cho nhanh và no rồi còn về cho bà hay mọi việc chớ. Nhớ là chỉ mình mẹ
ta biết thôi. Còn cha ta thì ta đã có cách cho ông hay sau.
Khỏi nói thì cũng biết sự kinh ngạc của bà Phủ Vệ
lên tới mức nào! Khi nghe Liễu Huệ thuật chuyện, lúc đó dù… trời đã tối, nhưng
bà cũng đòi phải đi tới điền trang ngay!
Huệ phải khuyên bà: - Tối quá đã hết đò. Mà tự chèo
thuyền thì đang là mùa nước lũ, một mình con không thể nào chèo được.
Tuy biết là lời khuyên đúng, nhưng bà Phủ vẫn đứng
ngồi không yên. Đêm đó bà gần như thức trắng đêm, khiến cho ông Phủ phải gạn
hỏi:
- Có chuyện gì làm bà như vậy? Hay là nhớ con Trúc
Quỳnh…
Ông hỏi mà không đợi vợ trả lời, liền đó ông lại
tiếp: - Chẳng hiểu sao hai đêm rồi tôi đều nằm mơ thấy một đứa con gái lạ đứng
ngay đầu giường cất tiếng gọi. Vừa gọi nó vừa khóc!
Bà bị kích động ngay bởi tiết lộ đó: - Nó nói gì?
- Nó bảo là nếu tôi đừng khắt khe thì một ngày nào
đó nó sẽ là… con gái của nhà mình!
Mọi chuyện hầu như trùng hợp với những gì Liễu Huệ
kể cho nên bà Phú không thể giấu được, phải kể cho ông nghe. Bà hỏi:
- Ông có tin chuyện này không?
Ông Phủ sau vài giây suy nghĩ đã nhẹ gật đầu.
Thế là ngay sáng sớm hôm sau, vợ chồng Phủ Vệ cùng
với Liễu Huệ đi chuyến đò đầu tiên lên khu điền trang. Họ cũng giống như Liễu
Huệ lúc đầu nhìn thấy Diệu Hoa.
Tuy nhiên, khi nghe cô lên tiếng thì họ ngơ ngác: -
Con đây mà, ba má không nhận ra hình hài con, nhưng giọng nói cũng không biết
nữa sao con là Trúc Quỳnh đây! Để ba má tin, con sẽ nói ra các thói quen của
ba, của má, và những vết thẹo, nốt ruồi riêng trong người mà người ngoài không
thể nào biết rõ được!
Cô kể vanh vách mọi chi tiết, đến đỗi ông Phủ Vệ
phải lên tiếng.
- Quá đúng rồi!
An quỳ trước mặt họ, lễ phép nói: - Thưa hai bác,
nếu được phép thì từ lúc này con xin gọi là ba má.
Bà Phủ vốn dễ tính và thương An nên gật đầu ngay.
Riêng ông Phủ thì chỉ im lặng. Ông cứ dán mắt nhìn. Liễu Huệ giục:
- Mình ra ngoài mộ đi ông bà!
Họ cùng kéo ra phần mộ. Khi thấy tên trên bia đổi
khác thì bà Phủ không hài lòng.
- Sao lại tên là Diệu Hoa?
Bấy giờ chính Diệu Hoa giải thích:
- Hồn con bây giờ đã trở lại dương thế rồi, thì sao
lại có mộ bia mang tên mình được? Bộ ba má muốn con gái mình chết trở lại hay
sao?
Hai ông bà hốt hoảng:
- Không! Không...
Bà nói: - Thôi, xác của ai cũng được miễn là con
trở về nhà với ba má là được rồi ba má sẽ giải thích sau với mọi người.
An muốn nói nhưng Diệu Hoa đã chặn lời:
- Tuy con đã mượn xác sống lại, nhưng đời con đã
trót gắn liền với người con gái tên Diệu Hoa, cho nên mãi mãi con và An phải ở
lại đây.
Ông Phủ ngạc nhiên, gặng hỏi:
- Sao lại ở chốn này? Con nên nhớ là ba má chỉ có
mình con...
Diệu Hoa vội đáp:
- Nằm dưới mộ là thân xác của con. Hồn nhập vào
Diệu Hoa có điều kiện: Con không thể sống xa phần mộ lâu quá một tuần. Do vậy,
con và An sẽ sống ở đây, thỉnh thoảng tụi con về thăm ba má một lần. Cho đến
khi nào con sinh con...
An nói rõ hơn: - Theo điềm báo trước mà lúc nhập
hồn vào Diệu Hoa, Quỳnh đã được biết: cô ấy sẽ sinh đôi ở lần sinh đầu tiên. Sẽ
là hai đứa con gái. Và đến lúc đó thì một đứa sẽ ở bên nhà Diệu Hoa, còn đứa
kia thì về sống ở nhà với ba má.
Bà Phủ la lớn: - Sao có chuyện đó được? Nó sẽ là
con cháu tôi mà!
Diệu Hoa nghiêm giọng: - Cái gì cũng có cái giá của
nó. Con hồi dương được là qua xác người khác, vậy nên cũng phải trả nghĩa cho
người ta một giọt máu chớ! Như vậy vong hồn Diệu Hoa nằm trong xác con dưới mồ
mới yên ổn, tiêu diêu được. Vả lại, tụi con đã thề nguyền với nhau trước ngôi
mả này rằng: từ nay về sau xem đây là ngôi mộ chung. Ngôi mộ tình. Ngày sau khi
tụi con chết thì cũng xin ba má cho mai táng chung ngôi mộ này.
Không thật sự hài lòng, nhưng ông bà Phủ cũng phải
chấp nhận. Riêng Liễu Huệ thì tình nguyện:
- Ông bà cho phép con từ hôm nay được ở lại chốn
này. Con sẽ sống với cô Trúc Quỳnh như xưa.
HỒN SÓI
(Tác giả: Người Khăn
Trắng)
Lăn lộn nhiều lần mà vẫn không làm sao ngủ được,
Ngọc Trâm lại ngồi dậy, bật đèn sáng. Hai giờ sáng. Cô lẩm bẩm.
- Kỳ lạ...
Rồi cô tắt đèn và cố nhắm mắt, gạt ra ngoài đầu óc
hết mọi suy nghĩ, để cố tìm giấc ngủ của đêm đầu tiên đến ngôi nhà lạ này. Và
bất chợt Trâm nhận ra nguyên nhân nãy giờ khiến cô không tài nào ngủ được chính
là hơi thở kỳ lạ vọng vào từ bên ngoài cửa sổ.
úc đầu Trâm ngỡ đó là tiếng gió, nhưng lần này do
đổi đầu nằm, áp tai gần cửa sổ, nên cô nhận ra đấy không phải là tiếng gió
thổi. Nó phát ra lúc dồn dập lúc rên rỉ, y như ai đó đang áp sát mặt vào cửa
sổ. Ai nhìn lén vào phòng chăng. Nhớ trước lúc đi ngủ, ông Sâm, chú cô còn dặn
nếu nóng nực thì cứ mở cửa sổ ra, không phải lo sợ gì. Như vậy dù là ngôi nhà
lớn, chung quanh là khoảng vườn rộng, nhưng chắc là chẳng có ai rình rập...
Giả vờ như đang đi vào giấc ngủ, rồi bất thần Trâm
ngồi bật dậy khi phát hiện hơi thở rõ ràng hơn. Cô nhìn ra cửa sổ và thấy một
bóng người vừa thoát chạy biến vào màn đêm!
Con tim vốn không lấy gì làm khỏe lắm của Trâm đập
nhanh, khiến cô phải đưa tay ôm ngực, sợ thất thần? Giờ này cả nhà đang say ngủ
và có lẽ ông chú của cô cũng đang say giấc. Muốn báo động với mọi người, nhưng
ngại phá giấc ngủ chú Sâm, nên Trâm đành mang nỗi sợ một mình. Đóng ngay cửa
sổ, gài chốt thật chặt bên trong. Cô nhủ thầm:
- Cũng may cửa có song sắt.
Đóng cửa xong Trâm trở lại giường, vừa nằm xuống cô
đã chạm ngay một vật mà lúc nãy không hề có. Một lọn tóc dài của phụ nữ!
Đèn bật sáng trở lại, và Trâm lạnh cả người khi
thấy đúng là lọn tóc nặng cả ký lô, dài trên năm tấc, mà ai đó đã đặt ngay cạnh
gối nằm của cô. Lọn tóc được cột túm lại khá gọn và được chải suôn sẻ, như do
một phụ nữ mới vừa thực hiện.
Căn phòng này Trâm tiếp nhận, lúc chiều chính tay
cô đã dọn dẹp, thay tấm trải giường mới và lúc đi ngủ đã cẩn thận xem lại lần
cuối, sợ sâu bọ lên giường, khi không thấy gì khác lạ mới đi ngủ. Như vậy lọn
tóc này do ai đó mới đem vào. Mà ai mới được, khi cửa phòng khoá kín?
Do con người bí mật vừa nhìn lén qua cửa sổ kia?
Nhưng giường cô mắc mùng, đứng từ ngoài cửa sổ thì không làm sao ném cả lọn tóc
to nằm gọn lên giữa giường được.
- Có gì vậy Trâm?
Tiếng của chú Sâm bên ngoài. Ngọc Trâm mở ngay cửa
ra. Nhìn nét mặt đầy âu lo của cô, ông càng ngạc nhiên hơn.
- Chú nghe tiếng động không bình thường ở phòng
con. Có chuyện gì phải không?
Biết không thể giấu, Trâm cầm lọn tóc đưa cho chú:
- Chẳng hiểu ai đã để vật này trong phòng cháu!
Vừa nhìn thấy, ông Sâm đã kêu lên:
- Đưa chú xem!
Ông đón lấy và không ngại đưa lên mũi ngửi rồi
thảng thốt.
- Đúng rồi!
Ngọc Trâm ngạc nhiên: - Chú biết nó là của ai?
Ông Sâm mất bình tĩnh thấy rõ:
- Cháu có thấy ai... ai đã vào đây?
Trâm thành thật: - Có một bóng người đứng bên ngoài
cửa sổ trong lúc cháu dỗ giấc ngủ. Khi cháu phát hiện thì người ấy chạy biến
trong vườn.
- Người đó ra sao?
- Dạ cháu thì thấy bóng chớ không rõ lắm. Có điều
khi đứng ở đây người ấy đã thở gấp và thở dữ lắm!
- Ngọc Lan!
- Chú nói ai?
Biết mình lỡ lời, ông Sâm không đáp, quay đi chỗ
khác. Trâm nghe rõ tiếng thở dài của ông...
Rồi như cố giữ kín trong lòng chuyện gì đó, ông Sâm
ôm lọn tóc và bước như người mất hồn về phòng mình...
Ngọc Trâm cảm thấy sợ, muốn nhờ giúp đỡ, nhưng nhìn
hình ảnh ông chú như thế, cô đành quay vào phòng đóng cửa lại. Lúc ấy, do không
để ý nên Trâm không hay cái bóng trắng bỏ chạy lúc nãy đã quay trở lại và đang
đứng ngoài cửa sổ nhìn vào…
Đúng ra Trâm đã bỏ về ngay thành phố sau những bất
trắc vừa xảy ra. Tuy nhiên do chú Sâm ngã bệnh đột ngột nên cô phải lưu lại và
nhờ vậy cô mới có dịp đi dạo quanh khu vườn ngôi nhà rộng lớn của chú mình.
Nếu ban đêm quanh nhà đầy vẻ âm u, hoang vắng thì
ban ngày trái lại. Lúc đầu Trâm chỉ định đi quanh quẩn gần nhà để đầu óc bớt
căng thẳng sau một đêm mất ngủ, tuy nhiên đi được vài chục bước thì những luống
hoa hai bên đường nhỏ đã thu hút cô đến không cưỡng được, nên cứ tiếp bước.
Theo lời chú Sâm, thì ngôi nhà to lớn này chỉ là nơi để thỉnh thoảng chú về
nghỉ dưỡng, ít có dịp chăm sóc... Nhưng cứ nhìn những luống hoa đủ màu sắc,
được cắt tỉa chăm chút khá cẩn thận và đẹp mắt này, thì ai dám nói đây là khu
vườn hoang?
Con đường nhỏ chung quanh trồng đầy hoa dẫn sâu vào
khu vườn rộng trên hai mẫu này, nếu chỉ một người như chú Sâm thì chắc chắn
không thể tạo ra được. Nhưng còn có ai nữa, khi từ lúc về đây tới nay đã hai
ngày, Trâm đâu có nghe chú nhắc tới người nào khác?
Có một chú mèo vàng bụ bẫm, dễ thương, chẳng biết
từ đâu chạy tới cạ vào chân Trâm như muốn làm quen. Nó lại đưa mắt nhìn cô gái
lạ bằng đôi mắt thiện cảm. Trâm vốn yêu loài vật, nên cô cúi xuống định đưa tay
xoa đầu thì bất chợt con vật phóng chạy về phía trước. Vừa chạy nó vừa nhìn lại
Trâm như mời gọi. Không tiện đuổi theo, nhưng Trâm cũng đi về hướng đó.
Qua khỏi một gốc cây to, chợt Trâm reo lên:
- Ồ, đẹp!
Trước mắt Trâm là một khoảng đất rộng đến vài trăm
mét vuông, trồng toàn hoa layơn nhiều màu sắc. Dưới ánh nắng ban mai, màu sắc
rực rỡ của hoa khiến cho khu vườn rộng trở nên sinh động, ấm áp lạ thường!
Chợt con mèo lúc nãy chạy ra từ các luống hoa, nó
rẽ về phía tay phải như hướng dẫn khách đi về hướng đó. Trâm mỉm cười, nói
thầm: ừ, thì đi... Đi được hơn năm mươi mét thì Trâm phải khựng lại, bởi trước
mắt hiện ra một căn nhà gỗ nằm lẩn trong cái tàn cây rậm rạp.
Nghĩ là mình đã đi vào xóm nhà bên ngoài, nhưng khi
nhìn lại Trâm thấy tường rào ngăn cách ngôi biệt thự vẫn còn ở phía trước. Có
nghĩa đây là một nhà phụ, có thể là của người làm vườn. Vừa định quay lại thì
chợt có tiếng kêu to của con mèo. Có thể nó bị cái gì đó?
Vốn yêu chó mèo, lại thấy con mèo vàng dễ thương
lúc nãy, nên Trâm quên sự dè dặt vốn có, đi nhanh về phía ngôi nhà. Cô hy vọng
gặp ai đó trong nhà để yêu cầu họ giúp con vật đang càng lúc càng kêu thống
thiết hơn. Tuy nhiên, khi đã tiến sát vào cửa rồi mà Trâm vẫn chưa thấy một ai
trong nhà.
- Có ai...
Cô phải ngừng câu hỏi, bởi vừa lúc đó có một tiếng
động mạnh, cùng lúc bóng con mèo vàng lao vút ra. Nhìn kỹ lại thì thấy con mèo
đang nằm quằn quại dưới đất. Hình như nó mới bị ai đó ném từ trong nhà ra! Con
vật hầu như chỉ còn cử động yếu ớt, chớ không thể nào gượng dậy được. Trâm quá
xúc động, cô cúi xuống xoa lưng nó, chép miệng:
- Tội nghiệp quá!
Cô ngước nhìn vào nhà, định sẽ lên tiếng phản đối ngay
với bất cứ ai mình gặp. Nhưng phòng khách ngôi nhà chẳng có một ai, ngoài bộ
ghế gỗ vô hồn.
- Ai đó, sao lại đối xử với con vật nhỏ bé này như
thế? Cô lên tiếng để chờ ai đó trả lời. Nhưng tuyệt nhiên không một tiếng động
nào khác. Không có ai trong nhà. Vậy tại sao…
Ngọc Trâm còn đang thắc mắc thì chợt nhìn thấy có
một vật gì đó rơi nằm vắt ngang trên mặt bàn của bộ sa lông gỗ.
- Thì ra...
Trâm hiểu rất nhanh. Vừa rồi có lẽ con mèo đã leo
lên cao, làm rơi vật kia xuống và nó bị hất tung lên quá mạnh. Tuy đã hiểu
nguyên nhân, nhưng do không thấy chủ nhà, nên Trâm không tiện bước vào để xem
vật bị rơi kia là vật gì, có cần sự giúp đỡ không... Nhận thấy con mèo bị
thương khá nặng, nên Trâm ôm nó lên. Vừa khi ấy cô nghe có tiếng người phía sau
lưng: - Cô bị con quỷ đó đánh lừa rồi, nó làm đổ vỡ đồ đạc, nên giả vờ nằm im
như chết đó, chớ thương tích gì đâu!
Trâm giật mình quay lại, thấy một người đàn ông
đứng tuổi ăn mặc giản dị, đang từ ngoài vườn bước vào. Cô lúng túng…
- Cháu... cháu đi dạo, vô tình tới đây...
Người đàn ông cười đôn hậu: - Cô là cháu ông chủ
phải không? Cô là… cô Trâm?
Hơi giật mình khi ông ta biết tên mình, Trâm cố
bình tĩnh đáp lại.
- Dạ!
- Tôi là Đạm, ông chủ thường gọi là Tư Đạm, quản
gia kiêm làm vườn ngôi biệt thự này.
- À, thì ra...
Trâm đánh bạo chỉ tay vào trong, bảo:
- Có vật gì đó rơi. Có lẽ do chú mèo này gây ra.
Vừa khi ấy bất chợt con mèo vùng dậy và chạy biến
đi rất nhanh. Tư Đạm nói: - Đó, cô thấy chưa! Tôi gọi nó là con mèo mánh mà!
Trâm nhìn theo, lắc đầu. Tuy thấy nó mánh như vậy,
nhưng tự dưng cô cảm thấy mến nó!
Tư Đạm bước vào nhà, mời: - Mời cô vào nhà chơi.
Tôi ở một mình nên thiếu mọi tiện nghi. Mời cô.
Trâm tò mò, nên không đợi mời thêm đã bước vào. Lúc
này Tư Đạm đỡ vật ngã lên, vừa lúc Trâm hốt hoảng.
- Con... con… chó sói!
Đúng, trên tay Tư Đạm là một con chó sói trắng rất
lớn. Tuy nhiên nó chỉ là cái xác phơi khô còn nguyên hình hài!
Ông Đạm trấn an: - Nó chỉ là cái xác ướp thôi, cô
đừng sợ. Mà chẳng hiểu sao con mèo mánh lúc nãy cứ vờn theo con sói này hoài.
Đây là lần thứ một chục nó nhảy lên và làm rơi xác con sói xuống rồi đó!
Nhìn cách con sói nhe nanh, tự dưng Trâm rùng mình.
Chưa từng gặp sói thật ngoài đời, chỉ được xem qua phim ảnh, nhưng chẳng hiểu
sao chỉ mới nhìn xác con sói này Trâm lại cảm thấy có điều gì đó sợ đến khó
hiểu!
Thấy Trâm mất bình tĩnh, Tư Đạm phải lên tiếng:
- Xác con sói này chết đã lâu. Nó lại ở tận vùng
băng giá Bắc Mỹ, chứ ở xứ ta làm gì có sói. Cô không phải sợ.
Trâm cố gượng cười cho đến khi Tư Đạm treo nó lên
chỗ cũ trên tường. Cô luôn nhìn đi chỗ khác suốt trong hơn mười lăm phút lưu
lại trong nhà. Đôi mắt con sói như còn cái thần hồn trong đó!
- Dạ, xin phép chú.
Thấy Trâm về đột ngột, Tư Đạm cố giữ lại:
- Tôi định hái tặng cô bó hoa layơn, để cô chưng trong
phòng.
Trâm bước nhanh ra cửa.
- Dạ, cháu không được khỏe.
Cô bước đi rất nhanh. Và lạ lùng hơn, khi ra tới
con đường mòn thì Trâm lại gặp con mèo đang đứng chờ ở đó. Nó vẫy vẫy đuôi như
chào mừng Trâm!
- Mày gớm lắm nhé!
Chừng như con mèo hiểu được lời nói của Trâm, nó
cúi mặt chạy biến đi ở phía trước.
Trâm định đi về phòng riêng, tuy nhiên khi đi ngang
qua phòng của chú Sâm, cô nghe ông gọi:
- Chú tìm cháu nãy giờ!
Trâm phải ghé lại và lo lắng hỏi:
- Chú có thấy đỡ hơn không? Hay là cháu lái xe đưa
chú về Sài Gòn để bác sĩ khám.
Ông Sâm lắc đầu:
- Không cần đâu. Chú chỉ bị mệt bởi mất ngủ.
Nhưng vừa dứt câu nói thì ông ho một hơi dài. Hơi
thở gấp và mệt nhọc. Trâm hốt hoảng:
- Chú!
Phải một hồi lâu ông mới lấy lại cân bằng sau khi
uống hai viên thuốc trợ tim. Nhìn thấy lọn tóc vẫn còn đặt bên gối nằm của ông,
Trâm không khỏi thắc mắc:
- Lọn tóc này... sao chú vẫn để đây?
Ông Sâm chỉ nhẹ thở dài rồi quay đi chỗ khác, không
trả lời. Trâm nhìn ông rồi ngước nhìn lên tường, nơi có treo tấm ảnh lớn. Bỗng
cô khựng lại khi thấy có một bức ảnh lớn chụp hình một con sói trắng đang nhe
nanh!
- Chú. Ảnh này...
Cô kêu hơi lớn tiếng nên chú Sâm phải quay lại.
Trâm chỉ bức ảnh: - Con sói này… có phải là cái xác ở nhà chú Tư Đạm?
Đang nằm, chợt ông Sâm ngồi bật dậy, vẻ thất thần:
- Cháu nói... xác ai?
- Dạ, xác... xác con sói trắng, giống như trong bức
ảnh này!
- Con... sói... trắng...
Lần này thì ông Sâm như chiếc bóng xì hơi, ông chỉ
kịp chụp tay lên ngực rồi ngất đi.
- Chú Sâm.
Một mình Trâm ngồi trong phòng của chú Sâm. Ông già
đã qua cơn nguy kịch, nhưng vẫn nằm thiêm thiếp. Suốt hơn nửa đêm ông hầu như
không mở mắt ra, không nói tiếng nào. Chỉ thỉnh thoảng buông tiếng thở dài.
Đến gần hai giờ sáng, do quá mệt nên Trâm đành phải
quay về phòng. Hôm nay có người tài xế riêng của chú vừa từ Sài Gòn lên, anh ta
ngủ ở phòng gần đó và Trâm đã có dặn, nếu nghe gì bất thường ở phòng ông chủ
thì phải chạy sang và báo cho Trâm biết ngay.
Lúc sang phòng chú Sâm, Trâm đã khóa cửa phòng mình
cẩn thận vậy mà lúc trở về, khi vừa bật đèn Trâm suýt kêu thét lên. Nằm gọn
trên giường cô là... xác con chó sói mà cô đã thấy tại nhà Tư Đạm!
Nghĩ là ông già làm vườn đang có mặt, Trâm hỏi lớn:
- Phải chú không, chú Tư?
Không có ai đáp. Trâm vừa bước lùi ra cửa phòng,
vừa hỏi lần nữa? - Chú Tư ở đâu vậy?
Câu hỏi chỉ là một cách để tự trấn an, bởi sau khi
lùi được mấy bước thì Trâm đã thấy vụt ngay một người cắm đầu chạy một mạch.
Anh tài xế Tám Ân ngủ gần đó giật mình chạy ra hỏi:
- Có chuyện gì xảy ra với ông chủ?
Trâm chỉ tay về phía phòng mình:
- Có. Có... con... con...
Cô không thể nói hết câu, bởi nỗi sợ bị dồn nén lúc
nãy, bây giờ đã lên đến cao độ, khiến Trâm thốt không thành lời. Tám Ân tức tốc
chạy về phía tay chỉ của Trâm. Anh ta nhìn vào phòng không thấy gì lạ, nên từ
đó nói vọng lại: - Phòng cô đâu có gì, cô chủ?
Trâm đã hoàn toàn kiệt lực, nhưng vẫn cố nói:
- Có con... chó... chó sói!
Câu nói của Trâm vô tình khiến cho ông Sâm nghe
được, và như có một động lực phi thường đẩy ông ra khỏi giường chạy ra ngoài,
vừa lúc chạm phải cô cháu gái vừa ngã gục.
- Gì vậy? Con nói là…
Trâm không còn đủ sức trả lời ông, nhưng đôi mắt lờ
đờ của cô như muốn nói gì đó. Ông Sâm bước liêu xiêu về phía tài xế Ân đang
đứng, cất giọng run run: - Chuyện gì trong đó?
Tám Ân đáp: - Dạ, cô Trâm nói có con chó sói trong
phòng, nhưng con có thấy gì đâu?
Anh ta nói không thấy, nhưng ông Sâm khi bước vào
phòng thì lại thảng thốt kêu lên: - Đúng là đây rồi.
Ông quỵ ngay bên mép giường, đưa tay sờ lên chỗ cái
xác phơi khô của con sói trắng mà Trâm nhìn thấy lúc nãy. Bàn tay sờ như cảm
nhận được của ông, khiến càng lúc người ông càng run lên, xúc động dữ dội. Và
trong lúc không kiềm chế được, ông Sâm đã thốt lên.
- Ngọc Lan!
Tài xế Ân lái xe cho chủ đã khá lâu mà chưa từng
nghe ông nhắc tới tên ấy. Thậm chí cả Ngọc Trâm lúc ấy đã tỉnh lại, và đang
đứng ngoài phòng nhìn vào cũng ngơ ngác hỏi:
- Kìa chú, Ngọc Lan là ai?
Ông nhìn lên và đưa tay chỉ ra ngoài:
- Con đi gọi Tư Đạm...
Ông chỉ nói được bấy nhiêu rồi sau đó lặng người
đi, trông chẳng khác cái xác không hồn...
Tư Đạm vừa thấy Trâm đã lên tiếng:
- Tôi biết thế nào cô cũng trở lại. Theo lệnh ông
chủ phải không?
Trâm ngạc nhiên: - Chú biết?
Không vội vã, Tư Đạm rót ly nước lọc mời Trâm: - Cô
cứ ngồi uống nước đi, tôi sẽ kể cô nghe...
Trâm sốt ruột: - Chú tôi đang bị mệt. Chú ấy muốn
gọi chú tới ngay.
- Tôi có tới nhanh hay chậm thì cuối cùng ông ấy
cũng phải tới đây mà thôi. Cô yên tâm, tôi rõ sức khỏe ông chủ hơn cô nhiều.
Ngay những ngày còn ở
Trâm càng ngạc nhiên:
- Chú từng sống với chú Sâm bên nước ngoài?
Giọng Tư Đạm trở nên hơi lạ: - Chẳng những cùng
sống nhiều năm, mà còn nhiều việc hơn thế...
- Chẳng hay...
Tư Đạm đưa tay ngăn lại: - Cô uống nước đi. Những
việc khác thì sớm muộn gì cô cũng biết thôi.
Chợt nhìn lên vách, Trâm ngạc nhiên:
- Con... con chó sói đâu rồi?
Giọng Tư Đạm trở nên lạnh lùng:
- Nó vốn không ở chốn này, nên việc nó có mặt hay
không cô đừng quan tâm.
- Nhưng... vừa rồi nó tới phòng của cháu.
Đến phiên Tư Đạm ngạc nhiên: - Sao là phòng cô?
Phải là phòng… ông chủ chớ!
- Thế ra chú biết chuyện ấy?
Tư Đạm đứng lên ra dấu cho Trâm theo mình. Ông ta
đưa Trâm ra một khoảng sân rộng sau nhà, nơi đó có một ngôi nhà mồ nằm khuất
sau những luống hoa, mà người lạ chắc chắn là khó nhìn thấy. Ông bảo:
- Cô có sợ nhà mồ không?
Thấy Trâm hơi lưỡng lự, ông động viên:
- Đi theo tôi thì không sao.
Ông đi trước, bước vào nhà mồ không khoá cửa. Bên
trong chỉ có duy nhất một ngôi mộ đá nằm giữa nền đá đen khá rộng. Trâm còn
chưa dám bước lại gần thì Tư Đạm giục. - Tới đây đi, cô sẽ rõ.
Lúc Trâm nhìn vào bia mộ, cô giật mình khi đọc dòng
chữ: ''Ngọc Lan chi mộ''.
- Ngọc Lan! Phải chăng...
Tư Đạm cúi xuống ngôi mộ, ông cởi chiếc áo đang
mặc, một cách nhẹ nhàng, ông lau từ trên xuống dưới, từ trước ra sau. Hành động
ấy khiến Trâm ngạc nhiên: - Đây là…
Ông đáp mà không ngẩng lên: - Con gái của tôi!
- Con gái của chú? Cô ấy có liên quan gì tới Ngọc
Lan mà chú Sâm cháu nhắc tới?
- Ông ta nhắc tới vật này thì đúng hơn!
Ông chỉ tay lên tường phía sau phần mộ.
- Cái này… Con sói!
Thì ra xác con sói phơi khô từng treo ở phòng khách
nhà chú Đạm và Trâm thấy trong phòng mình bây giờ đang ở đây! Đúng là nó, không
thể sai được.
- Hồi nãy cô hỏi tôi con sói đâu, thì nó ở đây. Nó
thuộc về nơi mà nó gắn bó.
- Gắn bó với ai trong nhà mồ này?
- Cô xem, nơi đây còn ai ngoài…
- Chẳng lẽ... cô Ngọc Lan trong mộ này?
Tư Đạm chỉ thở dài, không đáp. Sau đó ông đột ngột
rời nhà mồ. Trâm khựng lại một lúc, rồi mới quay ra. Phía sau cô đang xảy ra
một chuyện mà Trâm không bao giờ nghĩ đến: Cái xác con sói bỗng từ trên tường
rơi xuống mộ và... biến mất.
Ông Sâm thức giấc lúc nửa khuya.
Hôm nay ông cảm thấy trong người khỏe hơn, nên ngồi
dậy thu xếp mấy thứ lặt vặt trong phòng, tính sáng sớm sẽ trở về Sài Gòn. Ông
đã dặn tài xế Tám Ân, đúng năm giờ thì gọi. Bây giờ mới ba giờ mười phút, còn
khá lâu nữa, nhưng ông biết cố nằm lại thì cũng không ngủ được.
Do bị tim mạch nên lâu nay ông kiêng cữ cả trà và
cà phê, vậy mà giờ này ông lại thèm được ngồi nhấm nháp một cốc chất đắng ấy.
Như cách đây vài năm, lúc còn ở bên kia trời Tây.
Lúc ấy ông hay uống cà phê không đường và rượu
mạnh, bởi cái lạnh cắt da của vùng biên thùy
Nhớ tới
Đã hơn chục lần, ông Sâm đốt nén nhang này đến nén
nhang khác rồi khấn, nhưng lần nào thì nhang cũng đều tắt ngang. Mà mỗi lần như
vậy là khiến cho con tim của ông đau nhói lên. Lời khấn của ông đã bị từ chối!
Mãi đến hồi chín giờ tối vừa rồi, lần đầu tiên cây nhang cháy đến hết. Đầu óc
ông Sâm cũng tươi tỉnh từ đấy... Và ông đã ngủ được một giấc.
Lúc này ngồi chờ sáng, ông Sâm mới hiểu ra, lời
khấn của ông được chấp nhận là bởi ông đã hứa sẽ rời khỏi đây và không bao giờ
trở lại nữa! ''Người ta'' đã thật sự xua đuổi ông rồi.
- Mà cũng phải thôi... Ông Sâm tự dưng thèm được
nói chuyện với bất cứ ai, chừng như những chất chứa trong lòng ông đang có nhu
cầu tuôn ra. Gọi tài xế Ân thật ông không muốn, bởi cần phải để anh ta nghỉ
ngơi, mai còn lái xe. Giờ chỉ còn Ngọc Trâm. Cô cháu gái mà ông nuôi từ nhỏ sau
khi người anh trai và chị dâu qua đời trong một tai nạn giao thông. Ông thương
Trâm như con, nên lần này ông đích thân dẫn Trâm lên đây, định giao đứt cho cô
ngôi nhà này khi nào Trâm lấy chồng và tạo lập sự nghiệp.
Lúc chiều ông đã đồng ý cho Trâm ở lại đây sau khi
ông ra về. Rồi ít hôm Trâm sẽ về sau, ý của Trâm là muốn có thời gian làm quen
với ngôi nhà hơn... Có lẽ ông muốn dặn dò thêm cô cháu gái đôi điều...
Ông Sâm nhẹ bước qua phòng Trâm. Ông đưa tay gõ nhẹ
vào cửa, bởi biết thường khi Trâm rất nhạy thức. Tuy nhiên, gõ đến ba lần mà
vẫn chẳng nghe Trâm lên tiếng, ông Sâm hơi lo, hay là có chuyện gì với cô cháu
gái của mình?
Linh tính báo cho ông chuyện chẳng lành. Ông Sâm
cầm nắm cửa xoay mạnh và... thật bất ngờ, cửa phòng không khóa nên bật vào
trong. Phòng còn sáng đèn, nhưng không có người!
- Trâm ơi.
Ông Sâm cất tiếng gọi, vừa lúc nhìn qua cửa sổ ông
thấy bóng một phụ nữ đi sâu vào vườn phía sau.
- Trâm.
Không kịp suy nghĩ, ông Sâm tức tốc chạy theo. Từ
dãy phòng có một hành lang nối với vườn sau bằng một cửa hậu, nên chỉ mấy chục
giây sau ông đã ra tới con đường nhỏ. Trước mặt ông là bóng tối dày đặc, tuy
nhiên là chủ nhà nên ông không khó để đi nhanh theo cái bóng vừa khuất.
Tự dưng ông Sâm lo sợ cho cô cháu gái vô cùng.
Những gì ở phía đó từ lâu rồi ông không còn dám nghĩ tới chớ đừng nói là bước
vào. Vậy mà bây giờ, với sự an nguy của người thân duy nhất còn lại trong đời
mình, ông Sâm gần như quên hết, chỉ biết cố đi nhanh. Khoảng năm phút sau thì
vườn hoa layơn đã ở trước mặt. Lâu lắm chưa ra đây, nhưng ông biết có người
chăm sóc nó, nên tuy vội ông vẫn chép miệng:
-
Mười phút sau, ông đã tới trước ngôi nhà của Tư
Đạm. Cửa đóng kín, đèn tắt. Chứng tỏ chủ nhân đã ngủ say. Không chút chần chừ,
ông Sâm vòng ra sau, hướng về phía nhà mồ. Nơi này, kể từ khi về nước hai năm
trước, ông chỉ nghe một tin nhắn qua điện thoại của Tư Đạm: ''Mồ mả đã xong,
khi nào tới thì nên đi một mình.''
Nhưng chưa bao giờ ông Sâm tới...
Vừa bước vào nhà mồ, ông Sâm đã khựng lại, tim ông
đập nhanh? Trước mặt ông là một cô gái đang ngồi gục đầu trước ngôi mộ.
Trong cảnh tranh tối tranh sáng, ông Sâm thảng thốt
kêu lên: - Ngọc Lan!
Rồi như một quán tính, ông sà xuống ôm chầm lấy cô
gái, miệng rít lên như một người trong cơn hấp hối: - Anh xin lỗi em! Vừa lúc
đó, ông Sâm nghe một giọng nói thật quen: - Con đây mà chú Sâm!
Người con gái đó chính là Ngọc Trâm!
Cái chết của chú Sâm khiến cho Ngọc Trâm bàng
hoàng! Đêm hôm đó sau khi biết mình ôm nhầm đứa cháu gái, tự dưng ông ngã lăn
ra, rồi không bao giờ dậy nữa!
Trâm tuy phản ứng đúng, khi lên tiếng nói rõ mình
không phải là Ngọc Lan, khiến ông hốt hoảng, thất vọng rồi đứng tim. Tuy nhiên,
dẫu sao thì Trâm cũng gián tiếp gây ra cái chết của chú mình, nên cô khóc và
đập đầu mấy lần.
Đến lúc ấy Tư Đạm mới xuất hiện. Ông lạnh lùng bảo
Trâm.
- Tôi tiếp cô đưa ông chủ ra ngoài. Rồi có lẽ cô
cho xe chở ông về Sài Gòn ngay sáng nay đi.
Trâm chủ ý đưa chú mình ra nhà ngoài lo thủ tục mai
táng, nhưng cô lại có ý khác: - Cháu sẽ mai táng chú Sâm tại đây. Có thể là
trong nhà mồ này.
Tư Đạm la to lên: - Không được!
Trâm cau mày: - Sao không được? Đây là nhà của chú
Sâm, chú ấy có quyền nằm trên cơ ngơi của mình! Nếu cần thì cháu sẽ xây một nhà
mồ khác.
Tư Đạm xem ra bị kích động dữ dội. Ông ta cố nén
lắm mới quay ra, không nói thêm gì. Bỏ mặc Trâm lại đó với xác của chú mình.
Đến chiều hôm đó, trong lúc nhiều bạn bè thân nhân
gần xa của chú Sâm từ Sài Gòn lên khá đầy đủ thì bỗng người ta hay tin có đám
cháy lớn sau vườn. Khi Trâm ra tới nơi thì thấy ngôi nhà gỗ của Tư Đạm còn lại
đống tro tàn.
Không ai biết nguyên nhân vụ cháy. Cho đến khi bước
sang ngôi nhà mồ còn nguyên vẹn, thì Trâm hiểu. Tư Đạm đang ngồi im lặng trước
ngôi mộ của Ngọc Lan. Trâm đứng nhìn ông rất lâu, cô đợi cho đến khi ông cử
động. Và cuối cùng, Trâm đã nghe ông ta lên tiếng.
Không biết là nói một mình hay cho Trâm nghe:
- Lão ta đã phải trả giá cho tội lỗi của mình.
Nhưng như thế vẫn chưa đủ. Bởi những gì con gái tôi phải gánh, đã quá nặng nề,
thảm khốc! Cái chết của lão ta chỉ mới là một phần...
Rồi sau đó, ông ta cúi xuống nói vào ngôi mộ: -
Ngọc Lan! Ba đã bắt nó phải tới đây để đền tội, vậy sao con vẫn chưa vừa lòng?
Sao con không cho ba đốt luôn ngôi nhà của nó! Nghe tới đây thì Trâm giật nẩy
mình. Cô nhìn trở lại phía ngôi nhà lớn. Nó vẫn chìm trong bóng đêm.
- Tiếng ai khóc? Trâm tự hỏi và nhìn quanh. Vừa lúc
đó có tiếng nức nở. Nó vọng ra từ phía ngôi mộ!
- Ngọc Lan! Ba đã chờ con về nói với ba một câu
thôi cũng được. Hay là khóc một tiếng... vậy mà đã hai năm nay rồi con chưa hề.
Nay con khóc, phải chăng đã mãn nguyện, bởi cuối cùng thì đứa hại đời con cũng
phải đền tội. Vậy ba vui lắm rồi, ba có thể đi theo con được rồi! Ngọc Lan ơi,
chờ ba!
Tư Đạm vừa dứt lời thì bất thần phóng người lên
cao, rồi lao đầu thẳng xuống mặt trên ngôi mộ. Hành động của ông quá nhanh, quá
bất ngờ, nên dẫu Trâm đã kêu thét lên ngay, nhưng đã không còn kịp nữa. Một âm
thanh khô khốc vang lên. Có lẽ đó là sự va chạm mạnh của phần đầu ông ta vào
đá!
- Kìa, chú Tư!
Trâm lao tới. Vừa kịp lúc cô sững sờ, khựng lại.
Bởi lúc ấy bỗng có một vật khá lớn, hứng trọn thân thể Tư Đạm và nhảy sang một
bên. Gọn gàng, nhẹ nhàng.
- Con sói!
Không thể tin được. Trước mắt Trâm là một con sói
trắng to gần bằng một con người, đang ôm gọn Tư Đạm vào lòng. Nó không nhe
nanh, mà lại lè lưỡi liếm lên má và mặt của Tư Đạm. Vốn đã một lần thất thần vì
con vật này, nên lần này Trâm cũng không tránh khỏi thót tim. Cô chỉ kịp kêu
lên một tiếng: - Cứu!
Rồi ngất đi. Lúc tỉnh lại, Trâm vô cùng ngạc nhiên
khi thấy ngồi trước mặt mình là Tư Đạm và... một cô gái. Vẫn ở trong nhà mồ.
Tư Đạm lên tiếng, giọng dễ nghe hơn:
- Vừa rồi xác con sói đã cứu tôi, nhưng người thật
sự duy trì sự sống cho tôi chính là cô. Nếu không có tiếng thét của cô thì con
gái tôi nó chưa kịp hồn, để đỡ lấy thân thể tôi. Cám ơn cô Trâm...
Trâm bật dậy, đưa mắt nhìn sang cô gái như ngầm
hỏi. Hiểu ý, Tư Đạm nói:
- Nó là Ngọc Lan, con gái tôi.
- Cô ấy. Cô ấy.
Trâm suýt kêu lên lần nữa, kịp lúc Tư Đạm nói tiếp:
- Cô đã biết rồi nên tôi không giấu. Ngọc Lan không còn là người. Oan hồn nó...
Trâm run rẩy: - Tôi có còn... còn sống không?
Tư Đạm phải bật cười: - Nếu cô chết thì con gái tôi
đâu phải ngồi đợi hơn nửa giờ rồi để nói một câu thôi, trước khi nó trở về với
thế giới riêng của mình...
Lúc này bất chợt cô gái tên Ngọc Lan quay mặt ra.
Trâm thất thần khi nhìn vào khuôn mặt thật đẹp, nhưng trắng bệch, hầu như chẳng
có chút sinh khí nào.
Cái nhìn lạ lùng của cô ta khiến cho Trâm sợ hãi,
bối rối, chỉ muốn nhanh chóng nhìn đi chỗ khác để tránh! Tuy nhiên, hình như đã
bị thôi miên nên Trâm vẫn phải nhìn vào cô ta.
- Tôi hiểu lầm. Suýt nữa...
Vừa dứt lời, tức thì toàn thân cô ta chuyển động
và... nhanh như ánh chớp, chỉ còn thấy một vệt trắng mờ mờ... Rồi sau vài giây,
trước mắt Trâm chỉ còn lại... cái xác khô của con chó sói!
- Kìa, chú Tư!
Trâm phải ôm lấy ngực để trấn tĩnh. Trong lúc Tư
Đạm nhẹ giọng:
- Bây giờ tôi mới nói thật. Cô suýt chết, bởi con
gái tôi nghĩ lầm cô là... người tình của ông chủ Sâm!
- Ủa, kỳ vậy! Cháu là cháu ruột mà...
- Khi biết ra thì Ngọc Lan mới không còn quấy phá
cô nữa. Chớ ngay đêm đầu cô tới đây, nó cứ nghĩ cô được lão Sâm đưa tới để thay
nó quản lý ngôi nhà này, nó quyết phá và thậm chí sẽ hại cô nữa. Cô nhớ lọn tóc
và xác con sói không? Đêm đó đúng ra cô đã chết do lọn tóc quấn ngay cổ cô,
siết cho đến khi nào cô không còn thở nữa. Và con sói nằm trên giường cô đêm ấy,
nếu tôi chậm tay một chút thôi thì Ngọc Lan đã bắt hồn cô đi rồi!
- Trời ơi!
Thấy Trâm quá sợ hãi, Tư Đạm nói ngay:
- Khi lão Sâm tới chết bên mộ nó thì Ngọc Lan đã rõ
mọi việc rồi, nó tính là sẽ gặp cô nói cho cô rõ. Nó còn muốn trả lại cho cô cơ
ngơi này...
Trâm xua tay lia lịa: - Cháu không có ý định lấy
ngôi nhà này đâu. Sau khi chôn cất chú Sâm xong thì cháu sẽ về ngay Sài Gòn.
Tư Đạm nhẹ lắc đầu:
- Cô không cần phải như vậy. Cô có thể an táng ông
Sâm ở tại đây. Chính tôi và Ngọc Lan sẽ đi.
Ông đứng lên nhặt xác con sói định bước ra, chợt
dừng lại và hơi ngập ngừng:
- Tôi không muốn khơi lại chuyện cũ. Nhưng suy cho
cùng, có những điều cô cần biết thì tốt hơn... Vậy cô theo tôi ra ngoài này, đỡ
ngột ngạt hơn.
Trâm theo ông ta ra cuối khu vườn. Ông đặt xác khô
con sói xuống thảm cỏ, rồi thở dài:
- Đời người cuối cùng thì cũng về với cỏ cây, cát
bụi. Trước đây một ngày, tôi cùng với con gái mình vẫn còn sôi sục sự hận thù.
Nhưng kể từ khi lão Sâm chết đi, tự dưng tôi thấy trả thù cũng có ích gì đâu!
Người này chết, rồi người kia nằm xuống, đâu còn gì ngoài nắm xương tàn. Còn
thua con sói này, ít ra nó còn để lại bộ da cho người ta hoảng sợ! Có lẽ từ nay
tôi sẽ chôn bộ da sói này xuống lòng đất, để hồn con Ngọc Lan không còn vương
vấn...
- Nhưng... có liên hệ gì giữa cô Ngọc Lan và bộ da
sói?
Tư Đạm lại thở dài: - Đó là một bi kịch!
Ông lặng đi đến gần một phút rồi mới tiếp: - Lão
Sâm đã chết rồi, nên tôi cũng không còn muốn giữ câu chuyện này nữa. Ba năm
trước, tôi và Sâm là bạn thân, ông du học và ở lại
Ông ngẩng lên, nhìn về phía chân trời xa như hồi
tưởng lại: - Không vốn liếng, nên chúng tôi chọn vùng biên giới xa của xứ sở
lạnh giá quanh năm để định cư. Sâm tốt nghiệp ngành lâm nghiệp nên rất giỏi về
rừng, còn tôi thì thuộc lĩnh vực kinh tế, nhưng cũng đồng tình với Sâm để chọn
mua một nông trại nhỏ ở vùng rừng núi. Tôi ly dị vợ và dẫn đứa con gái mười sáu
tuổi đi theo. Hằng ngày, trong lúc Sâm lái xe đi ra thị trấn cách đó bốn mươi
cây số để giao dịch bán lâm sản thì nhân tiện chở Ngọc Lan cùng đi đến trường.
Ngọc Lan rất mến bác Sâm, bởi sự hiền lành, giàu nghị lực của anh ta. Mà tôi
thì cũng thầm nể phục bạn bởi sức chịu đựng giỏi, sự thích nghi cuộc sống nhanh
nhạy, nên nghĩ con bé được gần gũi với một ông bác như vậy nó sẽ có cơ hội học
hỏi được nhiều. Còn tôi, sở dĩ ít đi đâu ngoài thời gian quanh quẩn ở nông trại
nhỏ, bởi tôi có bệnh, sợ lái xe đường hiểm trở. Cuộc sống an bình của chúng tôi
kéo dài được gần một năm thì biến cố xảy ra! Ác nghiệt thay, biến cố đó lại rơi
đúng vào đứa con gái bé bỏng của tôi!
Tư Dạm chừng như đã quá sức chịu đựng, nên kể tới
đó thì ông phải dừng lại. Bởi nước mắt đã tràn ngập cả hai khóe mắt chảy vào
trong, khiến cổ họng ông không còn phát ra âm thanh được nữa! Phải mất một lúc
lâu sau, ông mới tiếp tục: - Vào một buổi chiều cuối tuần, hôm ấy cả Sâm và
Ngọc Lan đều ở nhà. Tôi đề nghị làm một buổi tiệc nhỏ để mừng con bé tròn mười
bảy tuổi, đồng thời đó cũng là kỷ niệm ngày bỏ đi của mẹ nó. Ngọc Lan tỏ ý
không vui.
- Hay là ba cho con bỏ qua bữa tiệc này. Có gì vui
đâu mà làm...
Tôi nhìn nét hơi lạ của con gái, thắc mắc hỏi:
- Con sao vậy?
Nó quay đi tránh ánh mắt nhìn của tôi, trả lời qua
loa: - Con mệt...
Nghĩ đó là triệu chứng thông thường của con gái
tuổi mới lớn, nên tôi nói: - Được rồi, nếu mệt thì con đi nghỉ. Để ba làm bếp,
khi nào xong ba gọi.
Tôi đã chuẩn bị sẵn mấy món nướng nên vào bếp lo
bữa tiệc. Tôi nhìn không thấy Sâm thì nghĩ có lẽ cậu ta nằm trong phòng riêng
hay đi quanh quẩn đâu đó. Đến khi làm xong thức ăn, tôi gõ cửa phòng gọi.
- Xong rồi, con mời bác Sâm ra ăn!
Gọi đến lần thứ ba vẫn không nghe con gái lên
tiếng, lại thấy cửa phòng hé mở, nên tôi đẩy nhẹ vào. Không có Ngọc Lan trong
đó.
Tôi quay sang phòng của Sâm gọi:
- Sâm ơi, cậu có thấy con Lan đi đâu không?
Cũng không có tiếng trả lời. Phòng Sâm cũng trống
trơn, lúc ấy trời đã bắt đầu tối, nên tôi hơi lo chạy ra sau nhà, cất tiếng
gọi: - Lan ơi! Sâm ơi!
Kêu đến rát cả cổ mà chẳng thấy tăm hơi hai người
đâu, sự lo lắng biến thành sợ hãi! Nhất là lúc ấy tôi nhìn thấy chiếc áo khoác
của Ngọc Lan rơi trên lối mòn từ nhà ra suối phía sau nhà.
- Ngọc Lan!
Linh tính báo điều chẳng lành, tôi vùng chạy theo
lối đó ra suối. Đến khi tới bên bờ suối thì tôi khựng lại, bởi vừa nhìn thấy có
hai bóng người ngồi sóng đôi trên một gộp đá. Một trong hai người là Ngọc Lan,
với mái tóc dài quá lửng mà chỉ cần nhìn từ phía sau là có thể nhận ra ngay con
bé. Còn người kia...
Tôi không tin vào mắt mình. Bởi không ai khác hơn
là… Sâm? Lúc ấy Ngọc Lan đang ngả đầu lên vai Sâm khóc rưng rức. Đứng chỉ cách
chưa đầy ba mét, nên tôi nghe rõ tiếng khóc của con gái mình. Rồi sau đó là
giọng nghẹn ngào của nó: - Sao anh không trả lời em? Có gì khó đâu, anh chỉ thú
thật với ba mọi chuyện. Ba có thể nổi giận, nhưng dẫu sao anh và ba cũng là chỗ
bạn bè, chẳng lẽ ổng giận chúng ta sao? Vả lại... Ngọc Lan ngừng lại vài giây
rồi nó tiếp liền:
- Vả lại cái thai trong bụng em đã hơn năm tháng
rồi, làm sao giấu mãi được! Tôi nghe giọng hốt hoảng của Sâm: - Không được. Anh
đã nói rồi, sao em chưa chịu phá. Tôi lại nghe một tiếng thét cực lớn: - Khốn
nạn. Anh tạo ra rồi bây giờ xúi tôi giết con phải không? Sau tiếng thét đó, tôi
thấy người của Ngọc Lan vọt lên trong cơn kích động dữ dội! - Đừng! Khoan đã...
Tiếng kêu đó là của Sâm. Nhưng đã quá trễ rồi. Khi ấy toàn thân Ngọc Lan đã lao
thẳng xuống vực sâu, mà bên dưới là dòng suối đang chảy xiết.
Ngay lúc ấy, tôi nghe một tiếng gầm rú khác từ dưới
vực vọng lên. Tiếng rú khác thường đó là của bầy chó sói thường ra kiếm mồi ở
ven suối mỗi đêm. Tôi vừa kịp hoàn hồn, lao tới chụp lấy Sâm:
- Mày làm gì hả Sâm? Mày... mày...
Qua ánh sáng lờ mờ, tôi nhìn xuống vực và thấy rõ
ràng thân thể con gái mình nằm vắt ngang trên một gộp đá bên cạnh đó là một con
sói trắng đang nhe nanh! Tôi không kịp suy nghĩ gì thêm, đẩy Sâm sang một bên
và lao ngay tới chỗ con tôi đang gặp nguy. Rồi, tôi không còn biết gì nữa…
Khi tôi tỉnh lại và biết mình còn sống thì bên cạnh
tôi là xác đứa con gái yêu dấu của mình và... con chó sói! Chẳng hiểu tại sao
lại như vậy? Có thể lúc rơi xuống, tôi đã vô tình đè lên và làm chết con vật
hung dữ đang xé xác Ngọc Lan. Tôi không cần biết gì khác, cố gượng đau, ôm lấy
xác con mà gào lên kêu cứu! Nhưng vô vọng, bởi ngoài Sâm ở trên kia thì khu
nông trang của chúng tôi đâu có ai khác.
Tư Đạm ngừng kể, lặng im, như để nuốt nỗi đau vào
lòng mình. Trâm ngập ngừng một lúc rồi mới dám hỏi: - Vậy lúc ấy chú Sâm đâu,
sao không cứu?
- Có lẽ quá sợ trách nhiệm nên anh ta bỏ chạy mất!
Trâm nhẹ thở dài...
Đáng lẽ cô không nên hỏi tiếp, bởi mỗi câu hỏi
trong lúc này hết sức nhạy cảm, đều có khả năng khơi gợi nỗi đau và sự hận thù
trong lòng người đàn ông nhiều đau khổ này... Tuy nhiên, chẳng hiểu sao cô lại
buột miệng: - Rồi làm sao chú mang được xác cô Ngọc Lan lên?
Giọng Tư Đạm trở nên vô cùng thống thiết:
- Xác con tôi vĩnh viễn nằm lại ở đó! Bởi sau đó
tôi kẹt lại ở vực sâu ấy đến ba ngày. Lúc tỉnh lúc mê, đến khi cuối cùng tôi
tỉnh lại thì nhìn bên cạnh chẳng còn thấy xác con tôi đâu, chỉ còn lại nguyên
lọn tóc dài của nó đang quấn lấy thân mình con sói bị chết! Có thể lúc tôi hôn
mê, thì lũ sói khác đã tới và ăn thân thể Ngọc Lan, chẳng hiểu sao chúng lại
không ăn thịt tôi! Đêm hôm đó, trong lúc tôi hầu như chỉ chờ chết, bởi kiệt lực
vì đói và thương tích đầy người thì chẳng biết ai đó đã thòng dây xuống kéo tôi
lên... Tôi chỉ biết bấy nhiêu thôi tôi hầu như hôn mê sâu, cho đến lúc tôi tỉnh
lại. Có lẽ phải ba bốn tháng sau.
Ông ngừng kể. Vừa vuốt bộ lông mượt của con sói vừa
nói sang chuyện khác:
- Từ nay Ngọc Lan sẽ ở đây.
Ngọc Trâm vẫn muốn hỏi thêm:
- Vậy còn ngôi mộ trong nhà mồ kia?
Tư Đạm bất thần nắm lấy tay Trâm: - Dẫu sao ta cũng
cám ơn chú Sâm con! Khi ta tỉnh lại sau ba tháng hôn mê như vừa kể thì thấy
mình đã ở trang trại này rồi! Lúc ấy ta mới hiểu, thì ra người kéo ta lên khỏi
vực chính là chú Sâm của cô. Rồi anh ta lo chuyện đưa ta hồi hương, bố trí cho
ta lên ở tòa nhà này. Mặc dù từ sau đó anh ta không bao giờ xuất hiện nữa...
Ông lại phải ngừng kể, thở dài như nén xúc động: -
Thật ra khi về đây thì chỉ có mỗi mình ta. Còn ngôi nhà mồ và ngôi mộ kia là do
ta quá thương con nên tự tay dựng lên, chớ trong mộ nào có xác của Ngọc Lan..
- Thế còn xác con sói này?
Tư Đạm nở nụ cười héo hắt: - Ta cũng không rõ. Vào
một đêm, sau khi ta vừa xây xong ngôi mộ trong nhà mồ, do quá mệt mỏi nên nằm
ngủ thiếp đi ngay trên đầu mộ. Lúc tỉnh lại, ta đã thấy xác con sói bên cạnh.
Ta chợt hiểu, đó là vong linh con Ngọc Lan hiện về. Nó đã bị một con sói tinh
ăn thịt và đã theo hồn sói về đây. Nhưng rất lạ là nó và con sói này không hề
hung dữ. Mà phải nói là rất hiền lành...
Trâm đã khóc từ lúc nào rồi mà không hay. Đợi cho
Tư Đạm ngừng kể, cô mới tự tay nâng xác con sói lên mà không hề sợ hãi:
- Theo con nghĩ thì chỗ an nghỉ xứng đáng cho xác
con sói này chính là trong nhà mồ kia, chớ không phải ngoài này. Chú hãy nghe
con, đưa xác nó vào.
Cô tiếp cùng Tư Đạm một tay, đưa xác khô con sói
trở vào nhà mồ. Đẩy nắp mộ đá ra, họ đặt con sói lên chiếc gối mà trước đó Tư
Đạm đã đặt sẵn cho con gái mình. - Y như một cuộc mai táng thật sự!
Trâm thành khẩn chấp tay khấn rất lâu. Đứng ngay
bên cạnh, nhưng Tư Đạm cũng không rõ Trâm khấn những gì... Phần ông, ông nói
thành lời:
- Con hãy yên nghỉ nơi này và hãy để cho ông nằm
bên cạnh. Hãy quên hết chuyện cũ đi...
Họ ở trong nhà mồ rất lâu…
Đó là lần cuối cùng Ngọc Trâm lưu lại trang trại.
Nhiều năm sau, cô nghe tin cái điền trang đó càng ngày càng có nhiều hoa hơn.
Ông Tư Đạm thì tuổi đã già, sức yếu, đâu còn chăm sóc vườn tược chu đáo nữa,
vậy mà các luống hoa vẫn tươi, vườn layơn vẫn rộ nở buổi ban mai...
CHUYỆN TÌNH NGƯỜI VÀ
CÁ
(Tác giả: Bồ Tùng Linh)
Ở vùng Trực Lệ có chàng trai tên là Mộ Sinh. Anh là
con của một nhà buôn Mộ Tiểu Hoàn. Mộ Sinh vốn thông minh, học giỏi nhưng người
cha cho rằng văn chương là cái nghề viễn vông không thực tế, năm mười sáu tuổi
Sinh bị cha buộc thôi học chữ để bước vào tập việc trong nghề buôn bán. Người
cha dẫn Sinh sang đất Sở tìm kiếm thị trường. Họ đi bằng thuyền đến đất Sở.
Trên sông nước mông mênh hiu quạnh nên những lúc rảnh rỗi Mộ Sinh lại ngâm nga
thơ phú, đôi lúc cao hứng anh ngâm lớn làm vang động cả khúc sông. Thỉnh
thoảng, anh thấy sau song thuyền một bóng người đang nấp nghe trộm nhưng vẫn
không để ý lắm. Đêm nọ, Mộ ông lên bờ đi ăn cơm khách đến khuya vẫn chưa về,
Sinh cảm thấy vui thích vì vắng cha nên đem thơ phú ra đọc tụng. Lúc ấy ánh
trăng sáng vằng vặc ngoài sông nên cảnh vật hiện lên rõ ràng. Một bóng người
lại thấp thoáng. Sinh lấy làm lạ, vội chạy ra xem là ai. Anh gặp một thiếu nữ
rất đẹp chừng mười lăm mười sáu tuổi. Vừa chợt thấy Sinh, thiếu nữ trốn mất.
Hai hôm sau thuyền đậu bên một bờ hồ, người cha cũng đã lên bờ đi chơi. Đang
thơ thẩn trong khoang thuyền bỗng Sinh thấy một bà cụ xin xuống thuyền và nói
rằng:
- Anh hại chết con gái tôi rồi!
Sinh kinh ngạc hỏi đầu đuôi, bà kể: - Con gái tôi
là Bạch Thu Luyện vốn yêu văn chương chữ nghĩa. Nó bảo khi còn ở quận thành có
dịp nghe anh ngâm thơ nên đem lòng tưởng nhớ, và sinh ra tương tư đến nỗi lâm
bệnh, bỏ cả ăn cả ngủ. Nó nói rằng chỉ muốn sống cùng anh, tôi can thế nào nó
vẫn không chịu.
Sinh nghe nói thế bụng lấy làm thoả mãn và thích
chí, anh thưa với bà cụ là anh ưng ý lắm nhưng chỉ sợ cha phản đối. Bà lão cũng
dễ tính, bảo anh chỉ cần ước hẹn một lời, nhưng Sinh từ chối vì còn phải hỏi ý
cha. Bà lão giận mắng:
Lương duyên chỉ gặp một lần, có khối kẻ cầu cạnh mà
tôi chưa chịu, nay thân già phải khúm núm tự đi làm mối con mà anh chối thì
nhục lắm. Anh đã không thấu nhân tình như thế thì đừng hòng đi được tới miền
Bắc.
Nói rồi bà lên cầu đi thẳng. Khi cha về, Mộ Sinh
khéo chọn lời ngỏ ý cùng ông, mong ông thuận cho chàng lấy vợ nhưng người cha
vô tâm, cứ ngỡ con mình vì đường xa hiu quạnh nên nhớ con gái mà nói năng hão
huyền. Ông không thèm bận tâm nữa.
Đêm ấy, chỗ đang cắm thuyền bỗng nhiên đất nổi lên
làm thuyền mắc cạn, không sao nhúc nhích được. Trong hồ đều có những thuyền gặp
nạn như thế nên hàng hoá nhiều khi hàng tháng trời không vận chuyển được đến
nơi khác, vì thế mà giá hàng lên vùn vụt hơn giá ngày thường, do đó Mộ ông cứ
nhởn nhơ, dặn con ở lại trông hàng, ông trở về Nam cất thêm hàng ra nữa để sang
năm con nước lên, thuyền sẽ thẳng đến mạn Bắc bán hàng, kiếm món lời to.
Thấy cha đã trở về bỏ một mình lại, Sinh càng mừng
trong bụng, chỉ tiếc rằng chẳng biết bà lão ấy cư ngụ nơi đâu để đi tìm. Một
buổi trời đã sụp tối, bà lão lại đến, lần này có thêm mấy người hầu khiêng theo
thiếu nữ. Bà lão nhăn nhó với Sinh: - Con tôi ốm gần chết thế này mà anh cũng
nhởn nhơ thế ư?
Nói rồi bà cùng bọn người hầu bỏ thiếu nữ lại, lên
bờ đi thẳng. Sinh hoang mang không biết làm sao, nên cầm đèn xem sức khoẻ cô
gái thì thấy nàng tuy đang đau yếu, nhưng vẫn còn nét đẹp diễm lệ não nùng, ánh
mắt thu ba vẫn liếc đưa tình tứ.
Sinh tìm chuyện hỏi han an ủi nàng. Nghe hỏi mãi
nguyên do sinh bệnh, nàng ấp úng:
- Khi xưa em nghe chàng ngâm bài gì trong truyện
"Mái Tây" nên đâm ra mê đắm rồi sinh bệnh chàng hãy ngâm lại cho em
nghe: "Vì ai yếu ớt, thẹn vì ai" (một câu trong bài Tây Sương ký).
Sinh sướng quá muốn ôm lấy nàng nhưng thấy nàng còn
yếu nên chưa dám. Cô gái gần Sinh như uống được thần dược, dần dần tươi tỉnh: -
Chàng hãy vì em mà ngâm tiếp bài "La y điệp điệp" của Vương Kiếm,
ngâm ba lần là em khoẻ ngay.
Sinh hứng chí ngâm liền. Mới ngâm đến hai lần nàng
đã đứng dậy được, vui vẻ: - Thiếp cảm thấy khoẻ rồi. Sinh vẫn ngâm tiếp lần thứ
ba, nàng cất giọng oanh vàng khẽ run run ngâm hoạ theo. Cả hai tâm hồn như cùng
quyện vào nhau và họ vui vầy suốt đêm.
Sáng hôm sau trời chưa ló ánh bình minh, nàng đã
trở dậy:
- Mẹ em sắp tới rồi đấy!
Quả nhiên, một lát bà lão đến. Nhìn thấy con gái
mặt mày tươi tỉnh khoẻ mạnh, bà lão giục con mau về. Nàng không đáp, tỏ ý bất
bình, bà lão cũng không ép, chỉ giận dỗi bỏ đi: - Mày cứ vui duyên mới, ta về
đây.
Sinh gặng hỏi nơi cư ngụ của nàng, cô gái thở dài:
- Em với chàng duyên như bèo nước gặp nhau, đã chắc chi mà nói chuyện dài lâu,
hỏi nơi ở của em làm gì? Tuy nói buồn vậy nhưng giữa hai người vẫn đượm tình
quyến luyến, lại cùng thề non hẹn biển. Vài hôm sau, bỗng một đêm nọ nàng giở
một quyển sách ra xem rồi nức nở khóc. Sinh vội hỏi nguyên do, nàng đáp: Cha
anh sắp trở lại, chuyện của đôi ta, em vừa bói được một quẻ không hay trong
sách này.
Sinh an ủi: - Chuyện bói toán mơ hồ, việc chi mà
phải buồn vì nó? Nàng hơi bớt buồn nhưng vẫn bảo:
- Sợ cha anh về, đem theo nhiều người làm rồi sinh
ra lắm lời dèm pha. Xin tạm biệt hôm nay, đợi dịp khác vậy.
Sinh buồn rầu, ân cần nắm tay nàng: - Nếu như ý cha
thuận việc hôn ước, anh biết tìm em ở đâu?
Nàng thản nhiên đáp: - Em vẫn theo dõi việc nhà
chàng, nếu cha đồng ý tất em sẽ biết.
Sinh đòi lên bờ đưa tiễn, nhưng cô gái khăng khăng
từ chối, chỉ muốn đi một mình.
Vài ngày sau cha Sinh đã về tới. Mộ Sinh lựa dịp
thuận tiện ngỏ ý với cha về việc hôn nhân. Người cha lại càng sinh nghi, ngờ
khi vắng mặt ông, anh đã giở trò trăng gió với ai đó nên ông mắng nhiếc rồi rà
soát lại hàng hoá trên thuyền, thấy mọi vật y nguyên nên ông mới bớt giận.
Sinh không biết tính sao nhưng bụng vô cùng giận
cha. Đêm nọ khi Mộ ông lên bờ thì đột nhiên cô gái đến. Hai người bồi hồi xúc
động và cảm thấy buồn vì không biết phải tính kế ra sao. Nàng than:
Nghĩ cho cùng, ai cũng có số mệnh. Đường dài thật
chẳng biết ra sao nhưng trước mắt, em xin ở lại với chàng ít lâu rồi sẽ liệu
sau.
Khi chia tay nhau, nàng hẹn với Mộ Sinh mỗi lần
muốn gặp nàng thì anh cứ ngâm thơ lên, nàng sẽ đến. Từ đó Sinh chỉ đợi dịp vắng
mặt cha là ngâm thơ, quả lần nào nàng cũng y hẹn.
Tiết đã gần qua tháng tư, đột nhiên giá hàng xuống
vùn vụt khiến các nhà buôn đều hoảng hốt. Họ bèn lấy tiền mua lễ vật cúng bái
thuỷ thần cầu con nước sớm lên để vận chuyển hàng hoá đi bán nhanh chóng. Sau
tiết Đoan Dương, trời bỗng nổi mưa như trút, nước hồ dâng cao nên thuyền bè đã
đi lại được. Nhà họ Mộ cũng nhổ neo về quê.
Đến nhà, Mộ Sinh lại ngã bệnh vì tương tư. Cha lo
lắng lắm, chạy chữa hết thuốc thang và đến khắp đền chùa cầu cúng mà xem ra vô
hiệu. Mộ Sinh chỉ nói riêng với mẹ: - Bệnh con không cần thuốc, chỉ cần nhìn
thấy mặt Bạch Thu Luyện là khoẻ ngay.
Nghe lọt câu ấy Mộ ông càng giận dữ, mắng chàng như
tát nước, nhưng càng ngày thấy bệnh chàng càng nặng đến độ trơ ra như bộ xương
khô nên ông cảm thấy sợ hãi. Theo ý Sinh ông thuê xe đưa con trở lại đất Sở,
tìm đến bờ hồ nơi họ đã cắm thuyền lúc trước. Mộ ông hỏi thăm khắp nơi mà vẫn
không ai biết nhà họ Bạch ở đâu.
Mộ ông gần tuyệt vọng, hôm nọ đi dạo trên bờ hồ
bỗng ông gặp một bà lão chèo thuyền quanh hồ. Ông hỏi thăm, không ngờ bà lão
xưng là họ Bạch. Mộ ông xin lên thuyền rồi nhìn thấy một thiếu nữ xinh đẹp, hỏi
tên đúng là Thu Luyện. Mộ ông khấp khởi mừng thầm, nhưng khi hỏi về gia thế thì
ông biết họ là dân thuyền chài, suốt đời lênh đênh sông nước. Mộ ông kể chuyện
con trai mình sắp chết, mời Thu Luyện về nhà mình nhưng bà lão từ chối, nói
rằng con gái mình không hẹn ước cùng ai nên không thuận. Nhưng cô gái nghe
chuyện thì nước mắt tuôn trào, nàng nằng nặc đòi đi. Bà lão đành chiều ý con.
Đêm ấy, quả nhiên nàng tới một mình, đến bên giường Mộ Sinh mà khóc: - Không
ngờ bệnh em lại lây sang chàng, nhưng có vậy chàng mới biết vị sầu thảm tương
tư. Nhưng chàng yếu quá rồi, có lẽ nghe em ngâm thơ may ra chàng mới thuyên
giảm. Sinh vui mừng, đòi đem những bài thơ cũ đã từng ngâm cùng nhau ra ngâm
lại. Ngâm đến câu "hương sen nồng đượm vẫn thơm xa" thì Sinh đã khoẻ
hẳn đứng dậy được, chàng ôm lấy nàng đùa cợt: - Ta có bệnh bao giờ đâu? Hai
người đều vui, Sinh chợt hỏi: - Cha anh đã gặp mẹ em rồi, việc của ta liệu
thành được không?
Nàng đáp: - Em đã gặp cha, chắc không xong rồi!
Nói xong nàng từ biệt ra về. Mộ ông quay trở lại
thấy chàng đã khoẻ nên mừng lắm, ông bèn tỏ lời khuyên: - Cô ấy trông cũng đẹp,
nhưng sống lênh đênh sông nước như vậy, liệu còn giữ được sự trong trắng không?
Sinh bất bình nhưng không nói. Đợi cha đi khỏi
chàng lại ngâm thơ gọi nàng. Lần này nàng nói: - Em tính rồi, cầu cạnh mãi cũng
vô ích thôi. Chi bằng cứ phó mặc cho Trời định liệu. Sinh hỏi có kế gì hay,
nàng đáp: - Phàm dân buôn thì chỉ tính đến lợi. Em có thuật riêng biết trước
giá hàng, em thấy trong chuyến này cha chàng mang toàn những loại kém giá trị,
giờ đây em sẽ mách cho chàng những loại hàng sắp lên giá gấp nhiều lần. Nếu
thấy linh nghiệm chắc cha sẽ mừng mà thuận cho em lấy chàng ngay. Một vài năm
nữa ta cũng vừa tuổi, vội vàng làm chi?
Mộ Sinh đem hết lời nàng dặn về các loại hàng kể
cho cha nghe. Cha Sinh còn bán tín bán nghi nên chỉ nghe dè dặt, do đó chuyến
hàng vẫn có lãi đôi chút chứ không lỗ. Khâm phục tài tiên tri của Thu Luyện, Mộ
Sinh lại bịa thêm chuyện Thu Luyện có thể làm cho cả nhà giàu lớn. Lần sau Mộ
ông hoàn toàn nghe lời nàng thì trúng to.
Mộ Sinh được cha cho phép mua sính lễ. Anh tìm mãi
mới gặp chiếc thuyền nhỏ của lão bà họ Bạch. Anh xin cưới con gái bà rồi thuê
một chiếc thuyền lớn làm lễ hợp cẩn. Cưới hỏi xong nàng hối chồng về
Một ngày nọ nàng xin phép được về nước Sở thăm mẹ,
Mộ ông cho hai vợ chồng ra đi.
Đến bên bờ hồ tìm mãi vẫn không thấy thuyền mẹ đâu,
Thu Luyện gõ vào mạn thuyền ít cái rồi biến sắc mặt sai chồng đi lùng khắp hồ.
Mộ Sinh đi tìm, trong lúc ấy anh tình cờ đến nhà một thuyền chài vừa bắt được
con cá chép trắng, nhìn xem thì anh thấy con cá to lớn, hình dáng giống hệt như
người và có đầy đủ bộ phận của con người. Sinh lấy làm lạ, tối về kể với vợ.
Nàng có vẻ thất sắc, hốt hoảng nhờ chồng cố mua
được con cá ấy để phóng sinh. Anh quay lại nhà chài xin mua nhưng nhà chài đòi
giá cao quá chàng không mua nên trở về và kể với vợ, nàng giận dỗi:
Em về nhà chàng bấy lâu và đã vì nhà chàng mà sinh
lợi rất nhiều, nay chàng tiếc tiền chăng? Nếu không được con cá ấy, em sẽ đâm
đầu xuống hồ mà chết cho xong.
Sinh hoảng sợ vội vã mang thêm tiền chạy đi mua.
Khi trở về Sinh không thấy mặt vợ. Một lúc sau nàng mới về nói: - Em vừa đi
thăm mẹ.
Sinh hỏi mẹ ở đâu, nàng ngập ngừng:
Đúng ra, chưa nên nói. Nhưng không sao, bây giờ em
nói thật với chàng, con cá mà chàng mua về là mẹ em đó. Vì có chút lỗi với Long
Vương, nên mẹ em bị trừng phạt đến chết, còn em thì bị tuyển vào cung Long
Vương nhưng vì yêu thương chàng mà em cưỡng lại. Nếu bây giờ, chàng biết phận
em mà không ưng vì khác loài thì em xin đi, trả con lại cho chàng. Còn muốn tai
qua nạn khỏi hãy cố thành tâm mà cầu với Chân Quân.
Mộ Sinh sợ hãi hỏi Chân Quân ở đâu, nàng đáp:
Giờ mùi ngày mai, ngài sẽ tới, chàng cứ thấy vị đạo
sĩ nào khập khiễng thì cứ quỳ lạy. Đạo sĩ có xuống nước thì cũng cố xuống theo.
Thành tâm thì may ra ông ấy chứng cho.
Nàng đưa cho Mộ Sinh một vuông vải trông giống như
cái vảy cá rồi bảo: - Nếu đạo sĩ hỏi muốn gì chàng hãy đưa vuông vải này và xin
ông viết cho một chữ "miễn" là được.
Sinh nghe lời hôm sau ra bờ hồ đứng đợi, Quả có một
đạo sĩ khập khiễng đi tới, đạo sĩ có vẻ vội vã nên đi thẳng không nhìn ai. Sinh
lẳng lặng theo sau. Đến bờ hồ đạo sĩ ném một chiếc gậy xuống mặt nước rồi leo
lên. Mộ Sinh vội vã leo theo. Gậy đột nhiên biến thành một chiếc thuyền.
Sinh sụp xuống lạy. Đạo sĩ hỏi: - Ngươi muốn gì mà
lẽo đẽo theo ta? Chàng đưa vuông vải xin viết một chữ, đạo sĩ kinh ngạc: - Cái
vây con cá chép đây mà, sao ngươi có? Mộ Sinh cứ đầu đuôi kể thật. Đạo sĩ cười
ha hả: - Lão Long Vương này đúng là lắm vợ, ta e hoang dâm như vậy là không
nên. Nói xong ông viết tháu chữ "miễn" như vẽ bùa rồi bảo Sinh lên
bờ.
Ngoảnh lại thì Sinh thấy thuyền vùn vụt ra xa rồi
biến mất. Sinh về đến thuyền mình, Bạch Thu Luyện mừng lắm nhưng cấm chồng
không được kể ra tông tích nàng. Rồi nàng theo chồng trở về và vẫn mang theo
mấy vò nước hồ.
Sau vài năm, nhân một chuyến Mộ ông chở hàng đến
Sở, nàng yêu cầu ông mang về cho nàng vài vò nước hồ, nhưng không hiểu vì trắc
trở buôn bán ra sao mà qua mấy tháng Mộ ông vẫn chưa về. Đợi đến khi nước hồ đã
cạn, nàng bỗng nhiên ngã bệnh. Bệnh càng ngày càng nặng và nàng thoi thóp thở,
căn dặn chồng:
Khi em chết chàng đừng vội chôn. Cứ đến các giờ
Mão, Ngọ, Dậu, chàng ngâm bài thơ "Mộng thấy Lý Bạch" của Đỗ Phủ thì
dù chết, xác em vẫn còn tươi. Đợi khi cha về mang theo nước hồ về, chàng đổ
nước vào bồn, ngâm em vào đó, em sẽ sống lại.
Thoi thóp được mấy ngày nữa rồi nàng mới chết thật,
Mộ Sinh y lời ngong ngóng đợi cha. Đến gần hết tháng. Mộ ông mới trở về, Sinh
làm theo lời nàng dặn.
Ngâm nước được nửa ngày thì quả nhiên nàng dần dần
tỉnh lại và sống hẳn như người thường. Biết tính vợ không thể không có nước hồ
đất Sở, Mộ Sinh muốn dọn nhà luôn đến tận cạnh hồ cho tiện.
Đợi vài năm Mộ ông qua đời, Mộ Sinh đưa vợ con đến
đất Sở, làm nhà bên cạnh hồ và gia đình sống hoà thuận đến hết đời.
HỒN HOA
(Tác giả: Người Khăn
Trắng)
Đi suốt hơn hai ngày, cuối cùng Hoàng Duy mới tạm
ưng ý một nơi mà anh định chọn để vẽ trong thời gian lưu lại thành phố Đà Lạt.
Đúng là khó chọn chỗ trong một nơi có quá nhiều phong cảnh đẹp như thế này. Tuy
nhiên, với một họa sĩ thì không hẳn nhà sang trọng, cảnh trí hào nhoáng là có
thể vẽ...
Với Duy, anh chỉ mong tìm một khung cảnh hoang sơ,
thâm u càng tốt. Và nơi này, một biệt thự bỏ hoang hay ít ra là cũng rất cũ,
sân cỏ mọc đầy chừng như rất ít người lui tới.
Tìm mãi mới gặp một cụ già đang cuốc đất cách ngôi
nhà gần trăm mét, Hoàng Duy dò hỏi:
- Thưa ông, cháu muốn hỏi thăm chủ của ngôi nhà
kia?
Ông lão ngẩng lên nhìn Duy rồi nhìn theo hướng chỉ
của anh. Khi nhận ra ngôi nhà, ông lắc đầu bảo: - Làm gì có chủ mà hỏi. Nhưng
cậu tìm để làm gì?
Duy thú thật:
- Thưa bác, cháu cần tìm nơi trú ngụ ít lâu để vẽ
tranh. Cháu thấy nơi đây thích hợp nên định...
Dừng cuốc, đưa tay lau mồ hôi trán, ông cụ bảo:
- Nếu muốn vẽ tranh thì cậu tha hồ muốn vẽ gì cũng
được ở đó. Nhưng nếu để ở thì... e khó.
- Bởi vậy cháu mới định gặp chủ nhà để hỏi thuê,
hoặc…
Ông lão ngừng hẳn tay làm, ông chỉ một tảng đá gần
đó rồi cùng Duy ngồi xuống. Giọng ông chân tình: - Chắc cậu là người ở xa đến
nên không biết gì về ngôi nhà này. Đây là một biệt thự đã xây trên nửa thế kỷ
rồi, đầu tiên là của một người Pháp, sau đó đổi chủ là một viên chức cao cấp của
thời Bảo Đại, rồi kế đến là một trọc phú ở Sài Gòn lên mua để nghỉ ngơi cuối
tuần. Nhưng chuyện đó đã cách nay gần 30 năm rồi. Từ ấy ngôi nhà hầu như bỏ
hoang...
Hoàng Duy chép miệng: - Uổng quá! Sao người ta có
thể uổng phí với một ngôi biệt thự bề thế này hả bác? Lý do sao vậy bác?
Ông lão lại nhìn Duy lần nữa, định trả lời, nhưng
nghĩ sao, ông lại thôi, chỉ nhẹ lắc đầu rồi nói lảng sang chuyện khác: - Trong
lúc nhiều người không có nhà ở, nơi này lại bỏ không…
Ông đứng lên, nói với lại: - Nhà không ai ở, cậu
muốn vẽ gì thì cứ vô mà vẽ, nhưng không nên ở lại.
Ông lại trở về với công việc của mình, như muốn
tránh những câu hỏi tiếp theo của vị khách trẻ.
Hoàng Duy tự hiểu, anh nghĩ chắc là cũng chẳng khai
thác thêm được gì. Vả lại, biết đâu lại là một dịp may, bởi Duy vốn không muốn
phiền lụy ai...
Nghĩ thế nên Duy một mình bước thẳng vào sân ngôi
biệt thự to đùng. Anh chưa vô nhà, mà đánh một vòng khắp sân trước, sân sau để
quan sát.
Đúng là ngôi nhà hoang, khắp nơi cỏ mọc đầy gần
ngang ngực.
Nhìn những gốc đào, những cây ăn trái quá lâu ngày
không được chăm sóc, tưới tiêu đã khô trơ lá, Duy đâm tiếc nên đứng săm soi khá
lâu. Bước thêm một đoạn nữa, Duy thích thú khi phát hiện một hòn giả sơn, tuy
không còn nước và hoang phế theo thời gian, nhưng dáng vẻ, cách tạo hình chứng
tỏ chủ nhân trước đây khá sành nghệ thuật chơi non bộ.
Cách không xa, có một cái hồ bán nguyệt, tuy chung
quanh cỏ che phủ hết, nhưng dưới hồ lại còn có nước và lạ thay, có một đóa hoa
sen hồng đang nở rất đẹp.
Hình ảnh khác thường như hớp hồn chàng họa sĩ lãng
mạn, nên anh quên cả gai góc, vội vẹt cỏ bước đến bờ hồ để nhìn cho rõ hơn đóa
hoa. Chưa bao giờ Duy thấy đóa hoa sen nào có màu sắc tươi thắm và đẹp đến như
thế này. Đẹp đến mê hồn.
Hương thơm từ nhụy hoa theo gió thoảng phả vào mũi
làm cho Duy chợt rùng mình. Anh buột miệng: - Lạ thường.
Rồi như mê đắm, cao hứng tột cùng, Duy lấy khung
vải, cọ, màu rồi vẽ như ngây như dại. Chỉ trong vòng nửa tiếng, trên nền vải đã
hiện ra hình dáng đóa sen hồng đẹp như đóa hoa trước mặt. Khi ngừng cọ, Duy mới
chợt nhận ra là bụng đói cồn cào, miệng khát nước đến gần khô cháy cổ họng. Mặt
trời đã hơi ngả khỏi đỉnh đầu, với cái nắng càng gay gắt hơn...
Hơi thấm mệt, Duy quay bước vào thềm ngôi nhà
hoang, nhưng mắt thì vẫn liếc nhìn như không nỡ rời đóa sen hương sắc kỳ lạ
kia. Khi đã ngồi phệt xuống thềm nhà, Duy mới chợt có ý nghĩ hay là tranh thủ
thiếp đi một lát...
Có lẽ đến hơn một giờ sau..
Lúc Duy choàng dậy, anh tìm trước tiên là bức tranh
vừa vẽ. Nó vẫn nằm trên túi vải, nhưng như bị điện giật, Duy chụp lấy bức tranh
và nhìn trân trối. Lúc nãy Duy vẽ đúng đóa sen, chưa kịp tỉa tót, nhưng giờ đây
sao lại có một con bướm đang đậu trên đài hoa? Không tin vào mắt mình. Duy đưa
tay xua nhè nhẹ, nghĩ rằng đó là con bướm thật đã vô tình đậu vào...
Nhưng khi chạm vào nó, ngón tay của Duy đã bị dính
màu còn ướt. Con bướm do ai đó mới vẽ lên.
- Ai vậy?
Nghĩ là có người nào đó nhân lúc mình ngủ quên, đã
nghịch phá. Nhưng nhìn quanh một lượt Duy chẳng thấy ai. Anh lại lên tiếng hỏi:
- Ai vừa ở đây?
Hỏi mãi mà chẳng có ai đáp, Duy bắt đầu bực, anh
lấy cọ và màu định xóa con bướm đi. Nhưng mỗi lần cọ sắp chạm vào thì cánh bướm
như chập chờn! Duy lại ngừng và định thần giây lát rồi sờ lần nữa. Không thể
sai được, con bướm như đang đùa cợt anh. Duy đặt tấm tranh xuống và bước nhanh
về phía hồ sen. Và một lần nữa mắt anh như hoa lên: Có một con bướm đang đậu
trên đóa hoa sen giữa hồ!
Nếu là người khác thì chắc đã rút khỏi ngôi biệt
thự hoang phế ngay lúc xảy ra chuyện lạ trên bức tranh hoa sen. Nhưng với Duy,
hình như có sự thôi thúc nào đó, khiến anh có quyết tâm cháy bỏng là phải ở lại
nơi đó.
Lưu lại, trước tiên là để được ngắm tiếp bông hoa
kỳ lạ kia, thứ hai là chờ đợi một điều gì đó mà chính Duy cũng không biết là
gì... Anh mở cửa một căn phòng phía sau ngôi nhà, nơi có cửa sổ trông ra hồ bán
nguyệt và hòn giả sơn.
Căn phòng vẫn còn lại chiếc giường lò xo đã cũ,
nhưng vẫn còn sử dụng được, chỉ có điều là quá nhiều bụi. Hơn 30 năm nay không
có người ở rồi còn gì. Nhưng không sao, Duy ra sức dọn dẹp hơn một giờ sau là
đã tươm tất sạch sẽ, anh nghĩ thầm, có phần diễu cợt: Đêm nằm ngủ mà có nàng
nào vào ngủ cùng thì thú vị biết mấy.
Mua sẵn 10 cây nến, Duy dự tính, mỗi đêm anh sẽ đốt
một cây, khi nào nến cháy hết là ngủ, không đốt thêm.
Như vậy anh sẽ có đủ ánh sáng trong suốt 10 đêm,
một thời gian đủ dài để anh thực hiện việc sáng tác như ý.
Việc đầu tiên của đêm đầu. Duy lấy bức họa hoa sen
ra xem lại. Và một lần nữa như có ai đùa cợt với anh: Con bướm trên bông hoa đã
biến mất!
Đáng lý phải sợ hãi trước hiện tượng kỳ bí này,
nhưng trái lại, tự dưng Duy đâm ra lì lợm, anh bỗng nảy ra một ý nghĩ táo tợn:
- Lấy khung vải khác ra và vẽ theo trí nhớ đóa hoa sen và khéo tưởng tượng ra
một cô gái nhô lên từ dưới nước, nàng đang nâng niu đóa hoa. Cô gái thật đẹp
với mái tóc dài, da trắng, môi son...
Trí tưởng tượng của một họa sĩ đôi khi vượt quá
hiện thực mà vẫn như chưa vừa ý, nên Duy cứ tô vẽ thêm, để gương mặt mỹ nhân
càng lúc càng sắc sảo hơn, quyến rũ hơn...
Bên ngoài cửa sổ trăng bắt đầu lên. Đêm thanh vắng,
với ánh trăng bàng bạc càng làm cho khung cảnh thêm trữ tình và huyền bí. Tự
dưng Duy nổi hứng, anh đặt bức tranh xuống rồi nhẹ bước ra khỏi phòng, đi về
phía hồ sen. Dưới ánh trăng, đóa sen hồng như khoe sắc trọn vẹn hơn, lung linh,
sống động hơn. Hoàng
Duy phải buột miệng lần nữa:
- Tuyệt đẹp!
Anh mê mẩn tâm thần, hồn như bị cuốn hút vào hương
sắc bông hoa. Quên thời khắc, quên cơn gió thổi càng lúc càng mạnh và trời tối
sầm lại. Có một cơn mưa kéo đến. Bị mất hứng đột ngột, Duy bịn rịn hồi lâu rồi
đành lòng quay vào. Anh thầm nghĩ: Tội nghiệp, không khéo trời mưa giông làm
cánh hoa tan tác mất!
Duy chợt muốn quay lại để hái ngay đóa sen vào,
nhưng lại bỏ ngay ý đó, bởi xưa nay Duy chán ghét làm lìa cành bất cứ bông hoa
nào. Với Duy, hoa chỉ đẹp khi nó ở trên cành nguyên vẹn.
Mãi nghĩ ngợi miên man, Duy đã bước vào phòng mà
không hay. Ngọn nến bị gió thổi chao đảo, suýt tắt rồi lại sáng tỏ lại. Vừa lúc
mắt Duy sững sờ dừng lại trước tấm lưng thon, mái tóc dài phủ tận thắt lưng của
cô gái nào đó đang đứng giữa phòng, mặt quay vào tường.
- Ai vậy?
Giọng của Duy hơi run. Chợt nàng quay lại và rõ
ràng hồn phách của anh chàng liều mạng cũng phải choáng váng: Một cô gái đẹp lạ
thường, đẹp như trong tranh... à, mà đúng rồi, nàng ta đúng là hiện thân của
mẫu người trong tranh mà Duy vừa vẽ!
Trong lúc Duy chưa kịp hoàn hồn thì nàng ta đã lên
tiếng:
- Đã dám vẽ trộm người ta mà còn sợ nỗi gì nữa?
Duy lắp bắp:
- Cô... Cô là…
Nàng cầm bức tranh lên và cười:
- Cũng may là anh vẽ không dở nên tôi tha cho tội
lạm dụng.
Bấy giờ nàng mới nhìn thẳng vào mắt Duy, giọng nói
hơi nghiêm:
- Tôi thích kiểu người gan dạ như anh. Đã biết đây
là nhà ma mà vẫn chui vào ở và còn dám đùa cợt với ma nữa.
Bằng phản xạ tự nhiên. Duy đảo mắt nhìn xuống chân
cô nàng. Người ta thường cho rằng hễ là ma thì đứng không chạm đất, đằng này...
Chừng như hiểu ý Duy, nàng cười phá lên:
- Có những loại ma đi đứng giống như người thường,
anh không ngạc nhiên sao?
Duy không còn tự chủ nữa, anh phải vịn thành giường
mới đứng vững, và cho đến lúc này anh vẫn không tài nào nói câu gì cho rõ
nghĩa. Trong lúc nàng vẫn huyên thuyên:
- Đúng căn phòng này trước đây tôi đã ngủ. Anh
không nghe người ta nói nằm ngủ trên giường người con gái đã chết thì... Coi
chừng bị nàng ta bắt hồn đó!
- Thế… cô...
Thế là đến lúc ấy Duy mới thốt lên được, nhưng cũng
dừng ngang, bởi nàng như hiểu ý, đã chặn lời:
- Anh muốn hỏi liệu tôi có bắt hồn anh đi không chứ
gì? Theo anh, anh có muốn cùng đi với tôi không?
Nói đến đó nàng từ từ bước tới, đến rất gần bên
Duy, rất gần.
Người Duy như cứng đờ ra, anh nửa muốn vùng chạy,
nửa lại muốn đứng yên xem nàng làm gì. Mà cũng phải thôi, trước một mỹ nhân
nhan sắc quyến rũ nhường ấy, thì dù nàng có là yêu ma, liệu đã mấy ai đủ sức bỏ
chạy?
Hơi thở của nàng bắt đầu phả vào mũi Duy, anh ngửi
được mùi thơm chết người, lại sắp chạm được vào thịt da trắng nõn nà kia...
- Nằm xuống đây, còn đợi gì nữa!
Duy hoàn toàn mất khả năng tự vệ...
- Này, cậu gì ơi! Dậy đi, gần giữa trưa rồi!
Ông lão gọi đến lần thứ tư thì mới thấy Duy động
đậy. Anh chỉ mở mắt nhìn chớ chưa ngồi dậy được. Toàn thân anh tê nhừ, rã rời
như qua một cơn bạo bệnh. Đến khi định thần nhìn kỹ lại, Duy mới thu hết sức
tàn, ngồi dậy, vừa ngơ ngác hỏi:
- Cháu đang ở đâu vậy bác?
Ông cụ cuốc đất đang đứng trước mặt Duy, ông lắc
đầu bảo:
- Sáng nay tôi ra cuốc đất và chợt nhớ đến cậu, tôi
chờ mãi mà chẳng thấy cậu đến vẽ tranh nên tôi nghi và tôi đi vào đây quả
nhiên...
Ông nhìn quanh căn phòng bằng cặp mắt e dè và chờ
câu trả lời của Duy. Anh chàng như người tỉnh lại từ giấc mơ, run giọng hỏi:
- Bác có thấy...?
- Cậu nói thấy cái gì? Hay là cậu...
Ông lão nhìn Duy dò xét. Nhận ra nét mệt mỏi và ngơ
ngác của anh, ông lo lắng hỏi:
- Có phải cậu gặp yêu ma gì, phải không?
Có một nỗi sợ hãi hiện ra, làm cho Duy rụt rè:
- Dạ không...
Dò hỏi thêm một lúc nữa, vẫn không khai thác được
gì ở Duy, ông cụ quay ra, nhưng nói với lại:
- Cậu gan góc đầy mình nên mới dám ở lại nơi này.
Theo tôi thì cậu nên đi chỗ khác, ở đây...
Ông không nói hết câu đã bỏ đi. Duy gượng đứng dậy
nhưng lại khụy xuống đến vài lần.
Sau cùng,
anh phải lần thành giường mới bước được ra ngoài. Trong lòng Duy muốn rời ngay,
bởi anh vừa nhớ lại mọi việc đã qua, mà đầu óc anh còn hoang mang không biết đó
là mơ hay thực? Nhưng cơ thể thì không theo ý của anh... Duy cứ đi quanh quẩn
trước sân khá lâu.
Việc Duy vào khám phá ngôi biệt thự hoang phế chỉ
mỗi ông lão cuốc đất biết. Ông ta cứ nghĩ là sau lời khuyên của mình Duy sẽ rời
xa đó lập tức. Nào ngờ những ngày sau đó ông ta vẫn còn thấy chàng trai vào ra
nơi đó. Điều gì đang xảy ra thì chỉ có Duy biết. Nhưng anh chàng càng lúc như
càng muốn lánh xa ông lão...
Nếu ai để ý sẽ thấy sắc diện của Duy ngày càng xanh
xao, như người cõi âm...
Ông cụ cuốc đất có ý chờ gặp Duy để nói cho anh
nghe một chuyện vô cùng quan trọng về ngôi biệt thự đó... Nhưng chờ suốt mấy
ngày vẫn không gặp. Rồi ông lại phát bệnh khá nặng nên nằm liệt giường. Câu
chuyện ông định kể liên quan đến cái hồ bán nguyệt, rằng ngày trước một cô gái
của chủ ngôi nhà đã thất tình và đang đêm lén ra trầm mình dưới đó, chết đi để
lại bao nỗi tiếc thương, uất hận của cả nhà, chẳng hiểu cô chết oan hay sao đó,
mà đêm nào cũng hiện hồn về kêu gào thảm thiết, khiến cha mẹ cô phải quyết định
chuyển nhà về Sài Gòn, rồi từ đó biệt tăm luôn...
Tuần sau thì ông cụ chết vì trọng bệnh.
Thế là câu chuyện bí ẩn của ngôi nhà cũng theo ông
đi luôn...
CHÀNG THƯ SINH HỌ
DIỆP
(Tác giả: Bồ Tùng Linh)
Miền Hoài Hương có chàng thư sinh họ Diệp, không rõ
cả tên và tự. Văn chương từ phú trội nhất đương thời, nhưng đến đâu cũng lận
đận, long đong khốn khổ mãi trong trường công danh.
Gặp lúc ông Ðinh Thừa Hạc, người Ðông Quan, đến làm
quan ở ấp ấy, xem văn chương của chàng, cho là kỳ tài, bèn mời đến đàm đạo.
Ông rất bằng lòng, cho chàng đến ở trong dinh thự,
cơm nước đèn sách, cấp cho đầy đủ, thỉnh thoảng lại gửi tiền thóc về giúp đỡ
gia quyến nữa.
Ðến kỳ sơ thí, ông hết sức tán dương văn tài của
chàng trước mặt quan học sử, rồi đó chàng đỗ đầu hàng xứ. Ông trông mong vào
chàng rất tha thiết; sau khi vào trường thi Hương, cho lấy văn của chàng để xem
và đọc vừa gõ bàn đánh nhịp, ngợi khen không ngớt. Ngờ đâu thời vận neo người,
văn chương ghen mệnh, bảng đã treo, lại hỏng tuột.
Chàng trở về, choáng váng tê mê, trong lòng lại
thẹn là mình đã phụ người tri kỷ, thân hình gầy ruộc như bộ xương còn đứng,
người ngây ra như khúc gỗ.
Ông nghe tin, cho mời đến an ủi.
Chàng rơi lụy dầm dề.
Ông rất thương tình, hẹn đến khi mãn kỳ khảo tích
về kinh thì đem chàng cùng đi. Chàng rất cảm kích cáo từ ra về, từ đấy đóng cửa
không đi đâu nữa.
Chẳng bao lâu chàng lâm bệnh, ông luôn luôn hỏi
thăm và đưa quà, nhưng thuốc uống đã trăm thang mà vẫn không công hiệu. Vừa lúc
ấy ông lại có điều xúc phạm đến quan trên, bị cất chức, sắp về nhà, viết thư
cho chàng, đại lược nói rằng: "Tôi nay mai về Ðông, mà sở dĩ còn chần chừ
chưa đi ngay, là chỉ vì muốn chờ túc hạ đi đó thôi. Túc hạ đến buổi sáng, thì
buổi chiều là tôi khởi hành..."
Thư đưa đến bên giường nằm, chàng cầm xem khóc sụt
sùi, rồi nhắn sứ giả về nói là đang bị bệnh nặng, khó bình phục ngay được, xin
cứ đi trước.
Sứ giả về bẩm, ông không nỡ đi, ráng ở lại chờ.
Qua mấy hôm, người canh cổng báo có chàng họ Diệp
đến, ông mừng quá, ra đón mà hỏi han.
Chàng nói: - Vì cái bệnh của thân hèn để đại nhân phải
chờ đợi lâu, lòng này thật áy náy không yên. Nay, may đã có thể ráng theo kịp
dấu giày chân ngựa. Ông bèn gói buộc hành trang lại, để dậy sớm ra đi. Chẳng
mấy ngày đã về đến làng, ông cho con thụ giáo với chàng, đêm ngày ở liền bên
cạnh.
Cậu con tên là Tái Xương bấy giờ mới mười sáu tuổi,
chưa biết làm văn chương nhưng thông minh lắm, phàm văn bài cử nghiệp, xem qua
hai ba lần thì không quên nữa. Ở được một năm, cậu đã hạ bút thành văn, nhờ có
thêm thế lực của ông, nên được nhận vào nhà học của huyện. Chàng bèn chép lại
những bài văn cử nghiệp đã làm lúc bình thời đem hết cho công tử học.
Vào trường thi, bảy đầu đề không sai đề nào, công
tử liền đậu á khôi.
Một hôm ông bảo chàng rằng: - Túc hạ chỉ vứt ra một
mối tơ thừa mà cũng đủ làm cho thằng trẻ nên danh, nhưng còn quả chuông vàng
kia cứ bị bỏ rơi mãi thì làm thế nào? Chàng nói: - Ðiều đó e rằng có mệnh. Tôi
mượn cái phúc trạch của đại nhân để hà hơi cho văn chương, khiến người thiên hạ
biết nửa đời luân lạc không phải vì kém tài đánh trận, thế là thỏa nguyện rồi.
Vả chăng kẻ sĩ mà được một người biết, đã đủ không ân hận nữa, cần gì phải đỗ
đạt mới đắc chí?
Ông thấy chàng xa nhà đã lâu, sợ nhỡ mất kỳ sát
hạch năm, khuyên chàng nên về thăm nhà. Chàng rầu rĩ không vui. Ông cũng không
nỡ ép, bèn dặn công tử khi đến kinh đô thì nạp thóc hộ chàng, công tử lại giật
giải Nam Cung được bổ chức Chủ sự trong bộ, đem chàng vào Giám sớm tối gần
nhau.
Qua một năm, chàng vào trường thi Hương ở kinh, đỗ
Cử nhân. Vừa lúc ông được bổ đi coi thi ở Hà
Chàng cũng mừng. Rồi chọn ngày tốt lên đường. Ðến
địa giới Hoài Dương, công tử cho người và ngựa đưa chàng về. Ðến nhà thấy cổng
ngõ tiêu điều, chàng chạnh lòng buồn bã lững thững đi vào sân. Người vợ cầm
nong nia đi ra, thấy chàng thì vứt xuống sợ hãi bỏ chạy. Chàng rẫu rĩ mà nói: -
Ta bây giờ đã nên danh phận rồi. Mới ba bốn năm không thấy mặt, sao bông như
không quen biết nhau vậy?
Người vợ đứng xa mà bảo rằng: - Chàng chết đã lâu,
còn nói nên danh nên phận gì nữa?
Sở dĩ còn để mãi linh cữu trong nhà, là vì nhà
nghèo con bé đó mà thôi! Nay thằng cả đã khôn lớn, cũng đang tìm một ngôi đất
để đưa chàng ra. Chớ nên hiện về làm gở để quấy người sống.
Chàng nghe nói thì bùi ngùi rũ rượi, bàn lững thững
đi vào trong nhà, thấy linh cữu rành rành, liền ngã ra giữa đất mà biến mất.
Người vợ kinh hãi nhìn xuống thấy áo mũ giày tất bỏ
đấy, như cái xác lột. Nàng mũi lòng quá, ôm xống áo khóc lóc. Người con đi học
về, thấy một cỗ xe ngựa buộc ở trước thì dò hỏi xem ở đâu đến, rồi kinh hãi
chạy về báo với mẹ.
Mẹ gạt nước mắt kể lại chuyện vừa xảy ra. Lại hỏi
kỹ những người theo hầu mới biết rõ đầu đuôi.
Người theo hầu trở về, công tử nghe tin nước mắt
rơi ướt cả ngực, lập tức lên xe, đến tận nhà mà khóc, rồi bỏ tiền lo liệu việc
tang, chôn cất theo lệ hiếu liêm.
Lại chu cấp rất hậu cho đứa con, mời thầy về dạy và
gửi gắm cho quan học sứ, hơn một năm sau được vào nhà học phán.
CHÀNG
THƯ SINH HỌ DIỆP
Chịu trách nhiệm xuất bản:
BÙI
CAO TIÊU
Biên tập:
NGUYỄN CẨM HƯƠNG
Sửa bản in: GIANG MINH TRƯỞNG
Trình bày bìa: SONG THÀNH
In 1.200 cuốn khổ 13x19cm, tại Xưởng in NXBGTVT
Số trích ngang xuất bản: 375-2009/CXB/27-53/ThaH,
In xong và nộp lưu chiểu Quý II năm 2010
.............................................................................................................
- Cập
nhật theo bản lưu trữ tại tại Công ty TNHH Văn Hóa Bảo Thắng.
- Vui
lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét