BỒ
TÁT QUÁN THẾ ÂM
LÀ
NAM HAY NỮ
*
(Tác giả Nguyễn Toàn Thắng) |
Nhiều bạn đọc gửi thư thắc mắc Đức Bồ tát Quán Thế Âm
theo giáo lý nhà Phật thì là nam hay nữ? Nếu là nam sao lại có tượng Phật Bà
Quan Thế Âm? Xin giới thiệu lời bài viết của tác giả Thích Chúc Xuân để bạn đọc
cùng hiểu.
Trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa, phẩm thứ 25 với tên Phổ
Môn, đã nêu rõ các công hạnh của Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát. Kinh sách chỉ rõ,
Ngài có thần lực chỉ đứng sau đức Phật Thích Ca, có tấm lòng đại từ đại bi, cứu
độ chúng sinh, là vị Bồ Tát tiêu biểu cho tinh thần của Phật giáo Đại thừa.
Danh xưng Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát xuất phát từ một truyền
thuyết của Phật giáo, tin rằng những người tu hành đạt tới chính quả, thì ngũ
giác của họ có thể biến ảo, đa năng. Nghĩa là có thể dùng tai để “nghe”
thấy hình ảnh, dùng mắt để “thấy” nghe âm thanh, lưỡi có thể nếm ngửi được
mùi,… Theo lòng tin này, thì danh xưng Quán Thế Âm Bồ Tát có nghĩa là: Vị Bồ
Tát luôn “nhìn thấy” nghe tiếng ai oán, đau khổ trong bến mê của chúng sinh và
sẵn sàng cứu giúp hay nói pháp khi cần. Vì vậy chúng ta có thể nói rằng Phật
giáo Đại thừa đã nâng Ngài lên tầm quan trọng, càng làm tăng lòng sùng kính của
người theo đạo Phật đối với Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát.
I. Ý nghĩa danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát
Quan hay Quán Thế Âm tiếng Phạn là “Avalokitesvara” dịch
sang tiếng Hán là Quan Thế Âm hay Quán Tự Tại… Quán Thế Âm Bồ Tát nghĩa là ngài
Bồ Tát có thể lắng nghe được tất cả nỗi đau khổ kêu than của thế nhân, quan sát
tiếng kêu than của chúng sinh trong thế gian để độ cho họ thoát khổ. Điều này
chỉ có được ở những vị Bồ Tát phát nguyện thậm thâm.
Thực ra, “Avalokiteśvara” không phải là nữ thần, mà là
một vị Bồ Tát. Tên phiên âm của Ngài sang tiếng Hán (đọc theo âm Hán Việt) là
“A bà lô kiết đê xá bà la”. Còn mỹ danh đầy đủ của ngài bằng tiếng Hán là “Đại
từ, đại bi cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát” (vị Bồ Tát đại từ, đại bi cứu
khổ cứu nạn nghe thấu tiếng kêu khổ não của chúng sinh). Mỹ danh này thường
được gọi tắt là Quán Thế Âm; đến đời Đường vì kiêng húy của Đường Thái Tông là
(Lý) Thế Dân nên bỏ chữ “thế” mà gọi thành Quán Âm, thường đọc trại thành Quan
Âm. (Vì vậy trong bài này lúc dùng chữ Quan hay chữ Quán cũng không sai) Y cứ
vào trong “Phật học từ điển” của Đoàn Trung Còn cho biết như sau: “Quán Âm là một vị đại Bồ Tát trong Phật giáo
Đại thừa (q.II, tr.679). Hễ ai thờ
ngài, ắt được các sự phúc đức; ai cầu nguyện và niệm tưởng ngài thì được sức
lành của ngài chở che và cứu trợ trong các nạn nguy (…). Vì lòng từ bi cứu khổ,
cứu nạn cho các chúng sinh và vì sự tuyên truyền Phật pháp, ngài tùy tiện mà
hiện thân, khi làm Phật, khi làm Bồ Tát, khi làm Duyên giác, khi làm Thanh văn,
khi làm tiên, khi làm quỷ, thần, khi làm quốc vương hoặc đại thần, trưởng giả,
tỳ kheo, tỳ kheo ni, cư sĩ thiện nam tín nữ. Và ngài cũng mang thân phụ nữ
(chúng tôi nhấn mạnh) mà độ chúng sinh nữa” (q.II, tr.685-686).
Bồ Tát Quán Thế Âm là hiện thân của Từ Bi, Ngài phát đại
nguyện thực hiện từ bi cùng tận trong đời vị lai, nếu chúng sinh còn đau khổ.
Vì chỉ có từ bi mới giải trừ đau khổ, cũng như chỉ có trí tuệ mới diệt được ngu
si. Do đó, Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát thiết lập tâm đại từ, đại bi để thực hiện
đại thệ nguyện độ sinh của Ngài.
Ngoài ra, Kinh Quán Âm Tam Muội nói: Xưa kia Ngài Quán
Thế Âm đã thành Phật hiệu là “Chính Pháp Minh Như Lai”. Tiền thân đức Thích Ca
hồi ấy đã từng ở dưới pháp tòa, sung vào trong số đệ tử khổ hạnh để gần gũi.
Ngày nay, đức Thích Ca thành Phật, thì Ngài trở lại làm đệ tử để gần gũi lại: “Một đức Phật ra đời thì hàng ngàn đức Phật
phù trì”.
Trong Kinh Đại Bi Tâm Đà Na Ni thì chép lời Ngài bạch
Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! con nhớ vô lượng ức kiếp trước có đức Phật ra đời
hiệu là Thiên Quan Vương tĩnh trụ Như Lai” Đức Phật ấy vì thương đến con và tất
cả chúng sinh nên nói ra môn Đại Bi Tâm Đà La Ni. Ngài lại dùng cánh tay sắc
vàng xoa đầu con mà bảo: “Thiện
Nam Tử! Ông nên trụ trì tâm chú này và vì khắp tất cả chúng sinh trong cõi
trược ở đời vị lai mà làm cho họ được sự lợi ích yên vui lớn.” Lúc đó con
mới ở ngôi Sơ Địa, vừa nghe xong thần chú này liền vượt lên chứng đại Bát
Địa”1.
Còn trong Mật tông thì theo Kinh Đại Bản Như Ý nói có 8 vị
đại Quán Âm là:
1) Viên Mãn Ý, Nguyệt Minh Vương Bồ Tát.
2) Bạch Y Tự Tại.
3) Cát La Sát Nữ.
4) Tứ Diện Quán Âm.
5) Mã Đầu La Sát.
6) Tỳ Cầu Chi.
7) Đại Thế Chí.
8) Đà La Quán Âm (Quán Âm Chuẩn Đề).
Ngoài danh hiệu Quán Thế Âm ra, Bồ Tát còn có danh hiệu
khác là Quán Tự Tại, danh hiệu Quán Thế Âm nói nhiều về công hạnh, đức từ bi
của Bồ Tát. Nói
đến Quán Thế Âm là đề cập đến vị Bồ Tát thường quan sát, lắng nghe tiếng gọi của chúng sinh, lắng nghe âm thanh của cõi thế gian để ban vui cứu khổ.
đến Quán Thế Âm là đề cập đến vị Bồ Tát thường quan sát, lắng nghe tiếng gọi của chúng sinh, lắng nghe âm thanh của cõi thế gian để ban vui cứu khổ.
Còn danh hiệu Quán Tự Tại nói nhiều về năng lực, trí tuệ
giải thoát, tâm vô quải ngại của Bồ Tát. Khi nói đến Bồ Tát Quán Tự Tại là nói
đến vị Bồ Tát có trí huệ thâm sâu, tự tại giải thoát, không còn bị bất cứ điều
gì ràng buộc, chi phối, không còn chìm đắm trong biển sinh tử, không còn phiền
não khổ đau; là vị Bồ Tát có khả năng làm chủ các pháp, đến đi vô ngại
trong cõi Ta bà để làm lợi ích cho chúng sinh.
II. Bồ Tát Quán Thế Âm là nam hay nữ?
Khi chúng ta thờ một đức Phật, một vị Bồ Tát cần phải
thâm hiểu ý nghĩa Pháp tướng, hình tượng, hình tướng của tôn tượng.
Phật tử khắp nơi đã quá quen với hình ảnh Quán Thế Âm Bồ
Tát là người phụ nữ đoan trang, xinh đẹp. Có nơi còn gọi Ngài Quán Thế Âm Bồ
Tát là Phật Bà
Quán Âm. Thế nhưng, lại có ý kiến cho rằng Quán Thế Âm Bồ Tát là nam chứ không phải nữ.
Quán Âm. Thế nhưng, lại có ý kiến cho rằng Quán Thế Âm Bồ Tát là nam chứ không phải nữ.
Vậy thực hư chuyện giới tính của Quán Thế Âm Bồ Tát là
thế nào và vì sao lại có những tranh luận dị thường như vậy?
Dựa vào lịch sử tôn giáo, và dân gian dật sử2, hoặc Linh
ứng truyện ký và lịch sử của Trung Quốc từ sau nhà Châu vua Chiêu Vương tới cận
đại và tới Việt Nam từ đầu Thế kỷ thứ III tới nay, thì đức Quán Thế Âm Bồ Tát
đã từng hiện hóa vào những thế gia và cả bần gia để ứng cơ hóa độ chúng sinh.
Nhờ sự tướng của thế đạo để chỉ hướng dân gian quay về chính đạo và loại bỏ cái
xấu ra khỏi cơ thể. Giống Quán Âm Diệu Thiện về đời vua Vương Trang. Quán Âm
cầm giỏ cá thời vua Tôn Huyền nhà Đường, Quán Âm Thị kính thời nhà Minh, Quán
Âm linh thiêng thời nhà Nguyễn,… Như vậy, không nhất thiết Ngài chỉ thị hiện nữ
thân mà là vô số thân. Nhưng do niềm tịnh tín của các dân tộc vùng Đông Nam Á
nói chung và Việt Nam nói riêng thì hình ảnh người Mẹ hiền, thương chúng sinh
như con đỏ, thường che chở, gia hộ và tưới mát những tâm hồn khổ đau của Ngài,
rất được quần chúng nhân dân ngưỡng mộ và tôn thờ. Vì vậy, tượng Ngài được thờ
phụng khắp nơi đa phần là thân nữ. Tuy nhiên, một vài ngôi chùa ở miền Bắc Việt
Nam và Trung Quốc, tôn tượng của Ngài được thờ phụng là thân nam.
Vì vậy, Phật giáo quan niệm mười phương chư Phật thì
không hề có nữ nhân. Đức Quán Thế Âm là nam hay nữ? Chư vị Bồ Tát không phải là
những nhân vật lịch sử bằng xương bằng thịt có sinh có tử, mà các ngài thị hiện
ở đời dưới nhiều hình tướng: nam, nữ, già, trẻ, người, thú vật, núi sông… tùy
tâm niệm của chúng sinh chiêu cảm mà ứng thân thị hiện.
Tại Trung Quốc, đến Thế kỷ thứ X, Quán Âm còn được giữ
dưới dạng nam giới, thậm chí trong hang động ở Đôn Hoàng, người ta thấy tượng
Quán Âm để râu. Đến khoảng cuối thế kỷ thứ mười thì Quan Âm được vẽ mặc áo
trắng, có dạng nữ nhân. Có lẽ điều này xuất phát từ sự trộn lẫn giữa Phật giáo
và Lão giáo trong thời này. Một cách giải thích khác là ảnh hưởng của Mật Tông
trong thời kỳ này: đó là hai yếu tố Từ bi và Trí tuệ được thể hiện thành hai
dạng nam nữ, mỗi vị Phật hay Bồ Tát trong Mật tông đều có một “quyến thuộc” nữ
nhân. Vị quyến thuộc của Quán Thế Âm được xem là vị nữ thần áo trắng Đa La và
Bạch Y Quán Âm là tên dịch nghĩa của danh từ đó. Kể từ đó, phật tử Trung Quốc
khoác cho Quán Âm áo trắng và xem như là vị Bồ Tát giúp phụ nữ hiếm muộn. Đức
Quán Thế Âm xuất hiện dưới hình dạng phụ nữ chỉ mới được thịnh hành từ đời
Đường bên Trung Hoa. Còn người Tây Tạng lại hay tạc tượng đức Quán Thế Âm theo
hình người nam, tượng trưng cho sức mạnh kiên cố, oai dũng để trấn áp tà ma,
quỷ dữ. Người Tây Tạng tu theo Mật tông, miệng đọc thần chú, tay bắt ấn quyết để nhiếp
phục thân tâm đến chỗ đắc định, phát huy trí huệ. Đến nay, hầu như ở khắp các
cơ sở thờ tự Á Đông đều quen thuộc với hình ảnh Bồ Tát dưới hình dạng là phụ
nữ. Cho nên người đời xem lòng từ bi của Bồ Tát Quán Thế Âm như tình mẹ thương
con vô bờ bến, cho nên kính ngưỡng Ngài thông qua một ứng hóa thân là hình
tượng một người phụ nữ và thường gọi là “Mẹ Quán Âm”, đồng thời cũng xem Ngài
là một vị Phật với tên gọi “Phật Bà Quán Âm”. Tôn xưng Bồ Tát Quán Thế Âm như
một vị Phật, điều đó cũng đúng với những gì kinh điển cho biết về Bồ Tát Quán
Thế Âm. Bởi theo kinh Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm Đà la ni, trong
đời quá khứ vô lượng kiếp về trước, Ngài đã thành Phật hiệu là Chính Pháp Minh
Như Lai, nhưng vì bi nguyện độ sinh mà Ngài hiện thân làm Bồ Tát.
Thế sự xuất hiện người nữ với mục đích chuyển đổi tâm tà
ác và hạn chế các xa hoa trụy lạc, đó là mục đích tùy duyên hóa độ của Quán Thế
Âm Bồ Tát, và cũng từ đó mà tượng, ảnh của Người trở thành diện mạo nữ trong
một vài nước châu Á. Tuy nhiên, điều căn bản là con người cần hiểu rằng, đó là
hình ảnh thị hiện, không nên chấp là Phật Thân của Người. Vì thế, Ngài Quán Thế
Âm Bồ Tát được xem là người mẹ của thiên hạ, luôn bao che và giúp đỡ các con
nhân gian của mình vượt qua những trở ngại trong cuộc sống để thành người tốt
và có ích.
III. Tôn thờ và trì niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát
đúng pháp
Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát có đức uy thần công đức và lòng
từ bi rất lớn. Ngài vốn không phải là nữ tướng, nhưng vì ngài thường cứu khổ
cứu nạn cho chúng sinh (mà phụ nữ thường nhiều khổ nạn hơn so với nam giới) cho
nên giới nữ đặc biệt tín ngưỡng về Ngài. Nên chúng sinh mới tưởng tượng ra Ngài
là nữ tướng để tiện hóa độ cho giới nữ. Cho nên, Bồ Tát Quan Thế Âm hiện thân
của đức Từ Bi, muốn nói lên tình Mẹ thương con, Mẹ đối với con là tình thương
chân thành, tha thiết nhất không có tình thương nào sánh bằng. Cho nên, đức
Quan Thế Âm hiện thân là một người mẹ hiền của nhân loại, hay của tất cả chúng
sinh.
Chúng ta biết niệm đức Quán Thế Âm tức là nhớ nghĩ đến sự
giác ngộ, giải thoát, từ bi hỷ xả, tình thương rộng lớn, biết rằng thân xác là
bất tịnh, thế giới là vô thường, ngũ uẩn giai không, thì còn gì mà lo sợ nữa?
Chẳng có gì được (vô sở đắc) thì còn gì để giữ, còn gì để mất, còn gì để lo sợ?
Do đó, chúng ta được an nhiên tự tại trước mọi hoàn cảnh đổi thay dù thuận, dù
nghịch, ví như đã được đức Quán Thế Âm ban cho lòng không sợ sệt (thí vô úy).
Vì vậy, khi niệm đức Quán Thế Âm, chúng ta thường đọc: Nam mô đại từ đại bi cứu
khổ cứu nạn linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát. Ngoài việc niệm danh hiệu đức Quán Thế
Âm Bồ Tát để cầu an thoát khổ nạn, chúng ta còn niệm danh hiệu ngài để cầu siêu
nữa. Kinh Vô Lượng Thọ nói rõ là ở Tây Phương Cực Lạc có đức A Di Đà và hai vị
Bồ Tát: đức Quán Thế Âm đứng bên tả, đức Đại Thế Chí đứng bên hữu, cả ba vị lúc
nào cũng sẵn sàng phóng quang đến tiếp dẫn tất cả những chúng sinh nào
muốn về cõi Cực Lạc và đã niệm Phật đến chỗ nhất tâm bất loạn, tín, hạnh,
nguyện đầy đủ.
Người tu pháp môn Tịnh độ khi niệm danh hiệu đức Phật A
Di Đà bao giờ cũng niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm và Đại Thế Chí tiếp theo. Như
vậy đức Quán Thế Âm không những tầm thanh cứu khổ ban vui cho người sống, mà
lại còn phóng quang tiếp dẫn các hương linh về cõi Tây Phương Cực Lạc, thật
trọn vẹn đôi đường, ngài được các phật tử xưng danh tán thán, cung kính phụng
thờ, thành tâm lễ bái, tụng niệm đêm ngày, thật là xứng đáng. Cho nên, phật tử chúng ta dù tu theo pháp môn nào:
Mật tông, Tịnh độ hay Thiền tông cũng phải thường xuyên niệm hồng danh của
Ngài. Ngài gia hộ, độ trì cho mới thoát khỏi tai nạn, khổ ách mỗi khi đến với
mọi người chúng ta đều phải niệm “Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quan Thế
Âm Bồ Tát” thì được giải thoát, tai qua nạn khỏi và sự nghiệp tu hành mới mau
chóng thành tựu theo sở cầu như nguyện.
Phật tử Việt Nam chú trọng trí tuệ và từ bi nên chùa nào
cũng có tượng Bồ Tát Quán Thế Âm. Vì thế chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa hình
tượng tôn thờ ấy, để ứng dụng Phật pháp đúng vào đời sống của bản thân, đem lại
lợi ích cho mình và mọi người, mang một niềm tin chân chính.
*.
NGUYỄN TOÀN THẮNG giới thiệu
Địa chỉ: thôn Tống Vũ, xã Vũ Chính,
thành phố Thái Bình
Email: nguyentoanthang77@gmail.com
.
..............................................................................................................
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 28.06.2020.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân
Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
0 comments:
Đăng nhận xét