PHÚ QUÝ TẠI TRỜI
*
Bài từ của Mông Chính viết:
(Tác giả Lưu Xuân Thanh) |
Văn chương cái thế như Khổng Tử mà
còn khốn ách ở nước Sái, nước Trần, vũ lực siêu quần như Lã Vọng đành ngồi câu
cá nơi sông Vị. Thầy Nhan Hồi chết yểu đâu phải vì thầy là con người hung bạo.
Bọn đầu trộm đuôi cướp lại sống lâu, chúng nào có lương thiện gì. Vua Nghiêu,
vua Thuấn là những đấng minh quân sinh ra lũ con vô lại. Ông Cổ Tẩu tâm tính
ngang ngược thì con cái toàn người hiếu thuận. Cam La 12 tuổi làm thừa tướng.
Mãi Thần năm mươi được công khanh. Án Anh thấp bé vua Tề phong cho chức tể
tướng. Hàn Tín trói gà không chặt lên ngôi vị thống súy Hán Triều. Lúc chưa gặp
thời, cơm không đủ ngày 2 bữa, khi vận hanh thông đoạt tam ấn Tề Vương. Triệu
Xong nắm giữ hùng binh nhiều nước, một sớm một chiều hết thời chết trong bụi
rậm. Lý Quảng tay không đánh chết hổ suốt đời vô tước lộc. Phùng Đường tài an
bang tế thế đến già vẫn chưa có chỗ dung thân.
Thượng cổ thánh hiền, chẳng ai trốn
thoát vòng số mệnh âm dương.
Con người lúc sinh ra hấp thụ khí âm
khí dương, chịu ảnh hưởng vận chuyển sinh khắc chế hoá mà thành số mệnh tướng
cách khác nhau.
Số mệnh tướng cách khác nhau sinh ra
chết sống, giàu nghèo sang hèn, bĩ thái cùng thông, thọ yểu thông qua thiên
bẩm, cơ hội kết cục càng thêm muôn hình muôn vẻ.
Cổ nhân sau ngàn, vạn năm kinh
nghiệm đã hạ bút đặt định nghĩa dứt khoát cho vấn đề bằng câu: "Tử sinh
hữu mệnh, phú quý tại thiên".
Những giọt lệ anh hùng xưa nay phần
lớn liên hệ đến tướng mệnh. Sinh thời Khổng Minh thường hoài bão cái chí:
"Ở đời khác thường, làm sự nghiệp phi thường, cùng thì tự tốt lấy ta, đạt
thì đem hạnh phúc cho thiên hạ".
Rút cuộc, sự nghiệp phi thường nửa
đường đứt gánh, độc thiện kỳ thân chẳng xong, kiêm thiên hạ cũng hão huyền. Mặc
dầu ông đã cố gắng hết mình cúc cung tận tụy đến chết mới thôi, cộng với cái
tài lược hơn người, thế mà tâm trạng Gia Cát Khổng Minh lúc chết thật bi ai.
Gượng bệnh sai tả hữu vực lên chiếc xe nhỏ ra trại đi xem các chỗ đóng quân.
Gió thu thổi mạnh lạnh buốt tới xương, mới thở dài than rằng:
"Từ đây ta không còn được ra
trận đánh giặc nữa
Trời xanh thăm thẳm, giận này biết
bao giờ nguôi
Muôn việc chẳng qua do số vận
Người sao cưỡng được lòng
trời".
Cái lý do gây ra Cổ kim đa thiểu anh
hùng lệ là tại anh hùng nan dữ mệnh tranh hoành (Anh hùng cũng khó chống lại số
mệnh).
Việc đời thiên hình vạn trạng, sớm
thay chiều đổi không đi ra ngoài vòng thiên số.
Bởi thế, cụ Trạng Trình mới dạy
người sau:
"Khôn cũng chết, dại cũng chết.
Biết thì sống".
Biết ở đây có nghĩa là Tri mệnh.
NHỮNG CÂU CHUYỆN ĐỂ CHỨNG MINH HAI
CHỮ TRI MỆNH
Chu Á Phu đương thời trọng nhậm chức
Thái thú tỉnh Hồ Nam, đến nhờ Hứa Phụ xem tướng cho mình. Hứa Phụ nói:
Ba năm nữa ông được phong hầu.
Tám năm nữa ông là tể tướng.
Mười năm nữa thì ông chết đói.
Chu Á Phu cười mà rằng:
- Đã phú quý tột đỉnh như thế sao
còn chết đói, xin tiên sinh chỉ dạy cho tôi biết tại sao?
Hứa Phụ nói:
- Pháp lệnh (hai vết từ mũi xuống
cằm) chạy vào miệng, theo tướng pháp gọi là rắn lao vào trong miệng là tướng
chết đói. Ông có tướng đó.
Quả nhiên chính trị biến động. Chu Á
Phu bị giam cầm, năm ngày không ăn thổ huyết mà chết.
Hứa Phụ xem tướng cho Đặng Thông bảo
pháp lệnh nhập khẩu thế nào cũng chết đói.
Vua Hán Văn Đế không chịu, phán
rằng:
- Đặng Thông là triều thần của trẫm,
phú quý của Đặng Thông do trẫm định đoạt, trẫm có thể cho Đặng Thông cả núi
đồng để đúc tiền.
Về sau, Đặng Thông chết đói trong
nhà một nông dân đúng như Hứa Phụ tiên đoán.
Vua Hán Văn Đế gọi Hứa Phụ vào
thưởng cho châu báu rất nhiều.
Hứa Phụ coi tướng Ban Siêu nói:
- Hàm én, đầu hổ bay mà ăn thịt thực
là tướng vạn lý phong hầu.
Ít lâu sau, Ban Siêu bỏ văn theo võ,
lập đại công uy chấn miền Tây Vực được phong làm Định Viễn Hầu.
An Lộc Sơn lúc nhỏ nghèo hèn, đi ở
hầu cho Trương Thủ Khuê. Lúc rửa chân cho Khuê bỗng ngừng tay chăm chú nhìn.
Khuê hỏi:
- Mày nhìn gì thế?
Lộc Sơn thưa:
- Tại tôi thấy bàn chân trái ngài có
nốt ruồi lớn.
Khuê bảo:
- Đấy là cái tướng phất cờ khởi loạn
của tao.
An Lộc Sơn vái chủ rồi nói:
- Thưa ngài cả hai bàn chân tôi đều
như vậy.
Khuê hết sức ngạc nhiên.
Về sau An Lộc Sơn làm loạn đốt cháy
kinh đô nhà Đường, khiến Đường Minh Hoàng phải bỏ chạy.
Thần Phóng ẩn cư nơi thôn dã đến
thăm nhà tướng học uyên thâm Trần Hy Di.
Phóng cải dạng làm tiều phu. Trần Hy
Di trông thấy cười mà rằng:
- Tiên sinh tiều phu, 20 năm nữa
tiên sinh là bậc nhị phẩm nhân thần, thiên hạ ai cũng biết tiếng.
Đúng 20 năm sau, Thần Phóng làm giám
nghị đại phu rồi thăng chức Công bộ thượng thư.
Đời Hậu Hán, Vương Mãng có tướng lạ,
trán cao dô, mắt đỏ con ngươi vàng, tiếng nói oang oang, quyền cao, mũi lớn,
miệng rộng.
Công Tôn Đề bảo Vương Mãng:
- Đầu hổ, miệng hổ, tiếng như beo
nếu không ăn nổi người tất bị người ăn.
Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán không
được bao lâu thì bị giết.
Ông Thánh Thán, nhà phê bình văn học
danh tiếng đời Thanh.
Giao du rộng, bạn bè nhiều, có những
tay tướng mệnh học tài giỏi thường ăn ngủ trong nhà Thánh Thán. Coi tướng cho
Thánh Thán, người nào cũng tỏ ra thương tiếc, mười người xem thì cả mười người
đều phê tướng cách Thánh Thán là sẽ bất đắc kỳ tử, lúc chết thây không toàn
vẹn.
Kết cuộc, Thánh Thán bị kết tội chém
ngang lưng.
Tào Tháo sai thích khách đi ám sát
Lưu Bị. Thích khách vào yết kiến Bị để bày kế diệt Tào. Bị rất hợp ý, nói
chuyện thật tương đắc. Chợt Khổng Minh vào. Thích khách mặt biến sắc. Khổng
Minh nhìn người khách lạ rồi ngồi yên lặng. Thích khách đi tiểu tiện. Lưu Bị
bảo Khổng Minh:
- Đó là một kỳ sĩ, có thể giúp cho
ông.
Khổng Minh thở dài bảo Lưu Bị:
- Người ấy sắc động thần huy, gian
hình ngoại lậu tà tâm nội tàng. Tôi chắc hắn là thích khách của Tào Tháo sai
phái tới đây.
Lưu Bị cho người đuổi theo bắt thì
thích khách đã chạy trốn rồi.
Dương Quý Phi lúc nhỏ chạy chơi
ngoài đồng ruộng. Có thầy tướng họ Trương trông thấy nói:
- Người đại phú quý sao lại ở đây?
Bạn hữu họ Trương hỏi:
- Con bé quý đến bậc tam phẩm không?
Trương đáp:
- Hơn thế nữa.
- Nhất phẩm?
- Hơn nữa.
- Thế chắc phải là Hoàng hậu?
- Cũng chưa đúng hẳn.
Dương Quý Phi là một trong bốn người
đẹp nhất của Trung Quốc, từng làm rung chuyển cơ nghiệp nhà Đường.
THUỞ TRỜI ĐẤT NỔI CƠN GIÓ BỤI
Trời đất nổi cơn gió bụi là động cơ
chính để xoay chuyển vận mệnh con người.
Một nhà trí thức rời Hoa Lục qua
Hương Cảng sau khi Đảng cộng sản Trung Quốc nắm chính quyền có làm bài thơ ngũ
ngôn sau đây:
"Danh sĩ kim trùy thạch
Tướng quân học tú hoa
Phu nhân cánh hạ hải
Tiểu thư diệc đảo sa
Bộ trưởng cam ti siển
Tài thần nhẫn xuất gia
Chỉ nhân đào họa loạn
Luân lạc đáo thiên nha".
Nghĩa là:
"Danh sĩ đi xay gạo giã thịt
Ông tướng cầm kim chỉ thêu gối thêu
khăn lấy tiền
Các bà mệnh phụ xuống biển chở đò
Tiểu thư khuê các gánh nước, giặt
thuê
Bộ trưởng làm anh bán vé xe điện
Phú ông lang thang đầu đường xó chợ
Tất cả chỉ vì chạy loạn
Nên mới lênh đênh góc biển chân
trời".
Thế sự là như vậy. Tất cả là biến
dịch. Đời sống con người đưa đẩy trong cái dịch đó. Động biến, cùng, thông,
sinh, tự hoá, đúng thời, đắc vị là căn bản cho xã hội nhân sinh.
Lý lẽ của tướng mệnh ở đấy mà ra.
Những hoàn cảnh: Bèo dạt hoa trôi,
cúc tàn gặp mưa, cá ao thoát lưới, hổ về rừng, yến tiệc hoa đăng v. v..., nhất
nhất cũng từ đấy mà thành.
Cơn gió bụi, tri loạn là gốc nguồn
của khí số vận mệnh tạo nên vinh hoa, toả chiết, thất bại, hung tai, hỉ sự cho
kiếp người.
QUAN HỆ TƯỚNG SỐ GIỮA TẬP THỂ VÀ CÁ
NHÂN
Nói đến tướng lý và số lý, người ta
thường gặp câu hỏi móc họng:
- Ối dào, tướng với số chỉ lắm
chuyện. Thế cả cái tàu chìm ở ngoài khơi thì tất cả người trên tàu cùng một số
một tướng chắc. Quả bom nguyên tử thả ở Hiroshima chết trong mười phút cả mấy
trăm ngàn thì tướng với số ở đâu?
Móc họng như vậy thật cũng khó trả
lời. Nhưng nếu cũng đem một câu hỏi móc họng khác ném ngược trở lại rằng:
- Vậy ở Hiroshima chết cả trăm ngàn
nhưng có một số người cùng chung hoàn cảnh hệt như nhau mà thoát chết thì khoa
học giải nghĩa ra sao?
Câu trên cũng chẳng dễ gì trả lời
được. Nếu câu hỏi trước lôi người ta ra khỏi màng lưới của số mệnh tướng cách
thì câu hỏi sau lại du người ta vào. Và cuộc cãi vã cứ giằng co mãi không
phương cách gì chấm dứt.
Nhưng giữa khi đó thì bản thân số
học và tướng pháp nảy sinh ra vấn đề: "Tướng tập thể". Về "tướng
số đông" này có một lối giải nghĩa khác nữa là "vận nước".
Trong thời kỳ Trung Hoa kháng chiến
chống Nhật bản, có 2 vị là Lâm Canh Bạch nhà đoán số nổi danh và Đào Bán Mai
nhà xem tướng kỳ tài vốn bạn chơi rất thân với nhau, cho nên hai vị đã cùng
nhau cộng tác để làm những thực chứng để mà giải đáp vấn đề. Xem tướng đoán số
tập thể để đoán định thời cuộc.
Một hôm họ gặp nhau tại Bảo quán Tân
Cương, Đào Bán Mai hỏi Lâm Canh Bạch đã phát hiện được ra điều gì mới lạ sau
khi xem số cho nhiều người?
Họ Lâm nói:
- Về các yếu nhân trong chính phủ
thì chưa thấy có gì khác lạ mới mẻ. Chỉ riêng có số của Thị trưởng Trùng Khánh
là Ngô Quốc Trinh thì năm nay là năm đại bất như ý. Đồng thời xem cho đa số dân
chúng Trùng Khánh thấy trong một trăm lá số có đến cả bẩy chục lá số rất xấu
năm nay.
Đào Bán Mai mới căn cứ vào lời nói
của bạn, mấy ngày hôm sau liền, ông tìm nơi công cộng lắm người đi lại mà sử
dụng đến tài của mình. Trường hợp này, xem tướng giải quyết vấn đề tương đối dễ
dàng hơn xem số. Bởi vì dù gặp người không quen, dù họ không mời vẫn đoán được
như thường. Lạ thay, khi vận dụng nhãn lực với tướng pháp ra nhìn thiên hạ, Đào
Bán Mai tiên sinh thấy khí sắc những người ở đây quá nửa là tướng chết bất đắc
kỳ tử mà thảm hoạ sắp đến rồi, chỉ trong vòng 3 tháng. Sợ rằng đất Trùng Khánh
này tai nạn đến nơi. Trong lúc chiến tranh, tai nạn không khỏi 2 điều: bị luân
hãm hoặc bị máy bay ném bom. Đất Trùng Khánh tính trên chiến lược không thể nào
bị luân hãm được, chỉ còn là vấn đề máy bay ném bom.
Đào tiên sinh nghĩ rất hợp lý. Vì
nếu Trùng Khánh bị giặc chiếm, tất nhiên số mạng các yếu nhân chính phủ ít nhất
dịch mã phải động, nghĩa là phải rời đi, nhưng theo như Lâm Canh Bạch thì
không.
Còn số mệnh của ông thị trưởng Ngô
Quốc Trinh thì bất quá chỉ là số mạng một cá nhân không quan thiết đến đại cục.
Cái đáng kể là Lâm Canh Bạch xem
thấy nhiều số xấu rồi đến Đào Bán Mai trông thấy nhiều tướng xấu. Hai người bàn
với nhau mà lo. Nhưng ai dám nói cho mọi người hay chuyện lạ khó lòng tin được
ấy.
Hai ông bàn nhau: Tất nhiên nếu có
thảm họa thì Trùng Khánh chỉ có thảm họa bị máy bay oanh kích. Nói đến máy bay
oanh kích thì hơi khó xảy ra thảm họa to tát bởi vì hệ thống hầm hố ở Trùng Khánh
rất chắc chắn. Vậy thì tướng số sai chăng? Không thể như thế được. Cá nhân còn
có thể sai, chứ tập thể làm sao sai? Vả lại "tử vong khí sắc" Đào Bán
Mai tiên sinh thấy càng ngày càng nặng thêm không giảm bớt chút nào.
Mối hoài nghi cứ dày vò mãi 2 nhà
tướng số.
Không bao lâu sau, cách cuộc gặp gỡ
của hai vị tướng số chừng 38 ngày thì thảm họa lịch sử Trùng Khánh xảy đến.
Hàng vạn người chết chẳng phải vì dịch tễ, chẳng vì bom đạn mà vì chết ngạt ở
dưới hệ thống hầm hố. Số người chỉ ngất xỉu đi thôi cũng bị vất lên xe đi chôn
tập thể.
Tướng và số tập thể như vậy không
phải là chuyện ngoa ngôn.
Đất nước chúng ta ngày nay nếu ai để
ý ít nhiều tất sẽ thấy ngay trẻ con thuộc thế hệ người Việt lớp sau này đều đẹp
đẽ sáng sủa hơn lớp trước mặc dầu chiến tranh miên man, mặc dầu rối loạn không
ngừng. Tướng tập thể của lũ trẻ Việt đó báo hiệu một tương lai tốt cho giang
sơn Việt Nam.
TƯỚNG TẬP THỂ ỨNG VÀO VIỆC THIÊN ĐÔ
CỦA CHÍNH PHỦ KHÁNG CHIẾN
Ở Hồng Khẩu, trước kháng chiến 5
tháng, tướng gia Đào Bán Mai gặp người bạn mời ăn cơm trưa. Ông bạn này biết
tài của họ Đào nên trước đông anh em, ông bạn yêu cầu tiên sinh xem tướng cho
tất cả bọn.
Bữa tiệc có khoảng chừng bẩy tám
chục người. Đào Bán Mai phát hiện tướng của họ đều chung một điểm giống nhau là
sắc tướng có khí mờ ám và có dấu hiệu rời đổi chỗ ở.
Khí sắc mờ ám là có sự "bất như
ý", "tiểu phá tài".
Khí sắc thiên di là chỉ trong nội
một thời gian ngắn tất đổi rời nơi cư ngụ.
Tướng thì thế, nhưng sự thực thì khó
lòng chứng minh quá. Ai nấy đều có công ăn việc làm thì dại gì mà đi đâu. Ấy
vậy mới kỳ. Nghe Đào tiên sinh nói họ cười thầm. Nhưng họ cười chẳng bao lâu
thì chiến tranh bùng nổ. Nhật ào ạt đổ lên Hồng Khẩu, toàn thể dân Hồng Khẩu
"khăn gói gió đưa" lên đường tản cư.
Một nhà tướng số khác sau khi xem số
và tướng cho các yếu nhân trong chính phủ như Tưởng Giới Thạch, Uông Tinh Vệ,
Lâm Xâm v. v... đã thi ra một điểm lạ. Trong cung thiên di của quá bán các yếu
nhân đó đều thấy dịch mã nên quyết đoán như sau: Chính phủ tất phải rời Nam
Kinh và đi về phía Tây. Quả nhiên chính phủ mấy tháng sau chuyển lên Vũ Hán rồi
đến Trùng Khánh.
TRI NHÂN THIÊN NHIỆM - BIẾT NGƯỜI ĐỂ
DÙNG NGƯỜI
Học tướng pháp để xem ai sẽ chết
non, chết yểu hay thọ bẩy tám mươi, hoặc ai sẽ giàu có nứt đố đổ vách hay nghèo
rớt mồng tơi. Nhưng đấy mới chỉ là phần tìm hiểu vận mạng một người.
Nhưng tướng pháp còn đem lại cho
chúng ta một điều hữu ích khác là biết người để dùng người, biết người làm bạn,
biết người để cùng mưu toan việc lớn.
Những độc giả nào đã đọc Tam Quốc
Chí chắc chưa quên cái tướng Ngụy Diên chói xương phản chủ mà Khổng Minh Gia
Cát biết trước để phòng trong cẩm nang giao cho Mã Đại xử tội.
Trong vở kịch của nhà đại văn hào
Anh Shakespeare, vở César, có đoạn: César nhìn thấy Cassius bèn bảo cận thần
của ông rằng:
- Các ngươi hãy canh chừng tên
Cassius kia. Vóc nó gầy guộc với đôi mắt võ vàng của nhiều đêm không ngủ. Ta sợ
những người như hắn. Hắn đang mưu toan hại ta đó.
Từ cổ xưa, lịch sử nhiều lần chứng
minh rằng: Tất cả thành công hay thất bại quá nửa thu vào hai chữ dùng người.
Hán Cao Tổ Lưu Bang sau khi thành
công rồi, một hôm hội họp quần thần lại mà hỏi:
- Các ngươi có biết tại sao từ áo
vải chân trắng mà lên được ngôi thiên tử chăng?
Quần thần nịnh hót, tán nhảm tán nhí
rằng ngài giỏi, ngài gan dạ, ngài anh minh, ngài quân tử.
Để cho tâng bốc hồi lâu, Lưu Bang
mới vuốt râu cười khe khẽ nói:
- Không phải, các người nói sai bét,
sai bét.
Đám quần thần thấy những câu nịnh
của mình trật lất nên người nào người nấy ngồi ngẩn mặt ra.
Bấy giờ Lưu Bang mới chậm rãi phán
rằng:
- Ta tài quyết liệu quân cơ không
bằng Trương Lương, tài tính toán đôn đốc quân ngũ không bằng Tiêu Hà, tài chỉ
huy chiến sĩ xông pha chiến trường không bằng Hàn Tín. Thế mà ta ngồi ở trên
cao nhất chính là nhờ ta biết người và dùng người đúng chỗ vậy!
Ông Gia Cát Lượng khi còn nằm tại
núi Ngọa Long đã viết ra thiên "Tri Nhân" (biết người) trong tập
Tướng Uyên như sau:
- Tính người thật khó hiểu. Dung mạo
bất nhất, hành động trăm ngàn lối. Kẻ trông hiền lành nhu thuận mà vô đạo, kẻ
bề ngoài cung kính mà trong lòng trí trá vô lễ. Kẻ trông rất hùng dũng nhưng
lại nhát sợ (kiểu các cụ đồ thường nói là già gi... non hột, dọa đánh người rồi
không dám đánh). Kẻ có vẻ thật tận lực mà rất bất trung.
Tuy nhiên, biết người cũng có bẩy
cách:
a) Đem điều phải lẽ trái hỏi họ để
biết chí hướng.
b) Lấy lý luận dồn họ vào thế bí để
biết biến thái.
c) Lấy mưu trí trị họ để trông thấy
kiến thức.
d) Nói cho họ những nỗi khó khăn để
xét đức dũng.
e) Cho họ uống rượu say để dò tâm
tính.
f) Đưa họ vào lợi lộc để biết tấm
lòng liêm chính.
g) Hẹn công việc với họ để đo chữ
tín.
Như thế, thuật "Tri Nhân"
của Khổng Minh xây dựng trên 2 điểm căn bản:
1) Hình tướng (phải học tướng pháp
để khỏi lầm cái hình dáng bên ngoài).
2) Tâm tướng (cách phát hiện tâm lý
người khác trong khoảng khắc).
Đấy tướng pháp quan trọng như thế
đó. Dù đi buôn bán, hùn vốn làm kỹ nghệ hay mọi công việc chỉ có hai người trở
lên mà chỉ có chút phản tướng vào đấy thôi là tất cả hỏng hết. Nữa là làm chính
trị!
Xin đưa vài tỷ dụ:
a) Người "bé gan" thì mục
châu (con ngươi) nhỏ mà vàng. Toàn mắt đen với vàng không rõ rệt nó lờ mờ. Mũi
ngắn, thân hình dài hơn chân, nói lao xao nhưng không thực. Mặt trắng bệch,
tính tình tham, thích thủ lợi (xin nhớ chỉ cần phạm vào một tướng trên đây cũng
đủ).
b) Lông mày thưa, xương mặt dưới
lông mày không gò lên mà lõm xuống. Hai mắt đột lộ lại đỏ. Trông bất cứ việc gì
hoặc ngước lên hoặc gầm xuống không dám nhìn thẳng. Lưỡng quyền nằm ngang, quá
cao ép bên cái mũi bất tương xứng. Mũi vẹo, mũi không đầy đặn, mũi như móc câu.
Trên lưỡng quyền có những vết nhăn đi ngược, sách tướng gọi là văn loạn quyền
phá là tướng của những tên phản trắc.
c) Tướng người hiếu sắc thì thần của
2 mắt lúc nào cũng lờ đờ như say rượu, gọi là tuý nhãn. Nếu sóng mắt lúc nào
cũng rạt rào gọi là dâm nhãn. Mắt vui ưa nhìn nhưng chứa chất tính cách hỉ hoan
tình ái gọi là đào hoa nhãn.
d) Tướng loại người gian điêu thì
mắt không đau mà lúc nào cũng đỏ. Hai mắt khuyết hãm. Nhưng nguy hiểm nhất là
tướng mũi khoằm tựa mỏ diều hâu, có điều là cái mũi ấy thường làm cho người
khác hay tin nghe bởi vì nó còn là tướng biểu lộ tài "khéo chiều
lòng".
TỤC NHÃN VÀ TƯỚNG NHÃN VỚI CÁI THÚ
XEM TƯỚNG
Đây là một câu chuyện nghiên cứu về
tướng phụ nữ. Trong cuộc sống hàng ngày, ta thường nói chữ "đẹp". Chữ
đẹp để chỉ đồ vật, phong cảnh, thái độ, thời tiết. Nhưng chữ đẹp hay dùng đến
nhất là chữ đẹp chỉ định người đàn bà. Khi nói vào tướng số, người ta không thể
áp dụng nghĩa chữ đẹp thường tình. Đẹp của con mắt tục khác và đẹp của con mắt
tướng khác xa nhau.
Trước khi bàn đến cái đẹp của tướng
nhãn, ta hãy nói qua cái đẹp của tục nhãn.
Phân biệt vẻ đẹp mỹ nhân, người
phương Đông chia làm hai loại:
a) Liễu yểu mềm nhẹ như thanh liễu.
Uyển chuyển có thể bay bổng lên được nếu gặp gió.
b) Đầy đặn mơn mởn như hoa mẫu đơn
đượm sương mai.
Thực ra chẳng riêng người phương
Đông phân biệt như vậy. Ở phương Tây cũng thế, đẹp "vamp" và đẹp mảnh
khảnh như người Anh (beauté anglaisse).
Các nhà nho ngày xưa đã thêu dệt
bằng chữ nghĩa những cô nàng vóc liễu mình mai bằng những câu:
Ngọc thụ lâm phong (cây bằng ngọc
đứng trước gió)
Quỳnh lâm ánh nguyệt (rừng hoa quỳnh
một đêm trăng sáng)
Thu vân thổ hỏa nguyệt (mây thu nhả
hoa trăng)
Xuân phong phất lý hoa (gió xuân làm
lay động hoa lý)
Các ông nhà nho khác ưa vẻ đẫy đà,
đầy đặn thì nhả văn ca tụng bằng những câu:
Hải đường hàm thần lộ (hoa Hải đường
ngậm giọt sương)
Đào lý ánh chiêu hà (bông hoa đào
buổi bình minh)
Nhất tiếu bác mị sinh (nụ cười nở
trăm vẻ duyên)
Ta vẫn nói: "Thấy người đẹp mà
không biết rằng đẹp tức thị là hạng không có mắt".
Tuy nhiên, đẹp là một vấn đề không
dễ dàng như ta tưởng. Ta hãy nhìn vào lịch sử hội hoạ kể từ Léonard de Vinci
cho đến Picasso, quan niệm về đẹp đã biến đổi khá nhiều. Còn riêng cái đẹp đàn
bà thì tư tưởng càng cao, vẻ đẹp càng trở nên khó để tiến tới mức đẹp. Ấy là nói
vào lĩnh vực trừu tượng. Kéo lùi về thế tục thì ta nhìn thấy người đàn bà đẹp,
đấy mới chỉ là bước đầu. Bước thứ hai ta ngắm và lẽ dĩ nhiên, mức đòi hỏi của
ta lên cao hơn, lúc bấy giờ ta nghĩ thêm: à đẹp thì đẹp thật, nhưng vô duyên,
đẹp mà vô duyên là cái đẹp đần độn, lạnh nhạt. Bước thứ ba phê bình của ta sẽ
thuộc về khứu giác, phàm đẹp thì phải thơm, thứ thơm tự nhiên thân thể tiết ra.
Trong trường hợp nhờ vào thơm chế tạo thì kém rồi, chẳng khác gì nước dùng phở
mang vị ngọt mì chính. Cứ như vậy đến bước thứ tư, thứ năm v. v...
Còn như vẻ đẹp đối với con mắt coi
tướng thì đã đi vào chỗ huyền chí diệu, đôi lúc nó vượt hẳn, trái hẳn con mắt
tục.
Nhìn xem trong chốn cao lâu, tửu
quán, cô đầu, nhà nhẩy có biết bao nhiêu khuôn mặt đẹp. Nhìn xem phu nhân các
ông to ông lớn có mấy bà mà không xấu như ma chôn ma vùi. Nhìn xem các ông
quyền thế vợ xấu, đi lấy vợ nhỏ và gần như là định lệ, vợ nhỏ thường đẹp hơn vợ
lớn. Nói xong quý bạn đặt một câu hỏi: Tại sao đẹp như sao băng lại đi làm đĩ
lấy lẽ? Xấu như ma mút lại được ngôi vị quý phu nhân?
Và câu trả lời là như thế này:
- Đẹp của con mắt tục khác hẳn đẹp
của con mắt tướng. Dù là "cây ngọc đứng chỗ gió" hay "xuân phong
phất lý hoa" hay "hoa hải đường ngậm giọt sương" mà không đi kèm
với cái đẹp về tướng nhãn thì cũng phải đứng đường làm đĩ như thường.
Dù có xấu như Chung Vô Diệm thì
Chung Vô Diệm vẫn làm chánh cung của Vua Tề. Ăn nhau ở cái tướng là thế đó.
Sách tướng dạy rằng: "Mỹ nhân
thường tác kỹ, mỹ trung hữu chí xú" (nghĩa là người đẹp thường đi làm đĩ vì
trong vẻ đẹp có cái gì cực xấu).
Một nhà tướng số danh tiếng tại
Trung Hoa kể lại chuyện dưới đây:
- Mùa xuân năm ấy tôi đi dự bữa tiệc
tại Cẩm Hoa Viên thết nhân ngày sinh nhật của Ngô bội Phu, một chính khách quân
nhân quyền thế khuynh quốc ở Bắc Kinh. Họ mời tôi đến cốt để xem tướng. Bởi vì
họ muốn thử mặc dầu họ rất tin tướng số, vì nếu không có tướng số thì làm sao
dốt ngu như họ mà lại làm to vậy. Nhưng họ vẫn hồ nghi cho nên thường hay thử
tài thầy tướng số, nếu thầy tướng số quả là chân tài thì đoán đúng, họ sẽ vui
sướng yên chí.
Khách đến dự thật đông nhất là phái
nữ. Đối với tôi dịp này rất may, tôi có cơ hội tốt để thử lại tài học về tướng
pháp.
Tay cầm cốc rượu đi tha thẩn trong
hoa viên, tôi mỉm cười trông những con "thiêu thân" đang vui vẻ hạnh
phúc hết sức vô tư qua mặt giả tạo mà trong đó tôi đã nắm chắc kẻ nào sắp mất
cơ nghiệp, kẻ nào lừa chồng dối vợ, kẻ nào ăn cắp làm giàu, kẻ nào tàn ác giết
người. Tướng pháp thật kỳ, nó có phép thần để đưa người nào nắm được nguyên lý
của nó đi ra ngoài đường tục.
Bỗng người bạn là Đàm tiên sinh đến
báo:
- Này bác, tại căn phòng phía Tây có
một người đàn bà, chừng trung tuần hơi đẫy đà, da ngăm đen, bác thử coi xem
tướng bà ta thế nào?
Ban đầu tôi nghĩ người này chắc phải
đẹp lắm nhưng tới nơi mới hay đây chỉ là một nhan sắc cực bình thường. Lúc ấy
tôi cùng đi với mấy người bạn rành tướng số nữa. Chúng tôi ngắm nghía chừng
mười phút thì ông bạn họ Kha của tôi nói:
- Tướng cách tốt lắm, nhất phẩm phu
nhân.
Ông bạn họ Viên cười mà rằng:
- Đi vào đây để đoán tướng nhất phẩm
phu nhân thì dễ ợt còn gì.
Ông họ Kha hơi cáu cãi lại:
- Đành thế nhưng bác nên nhớ rằng
cách nhất phẩm cũng chia làm nhiều hạng, với người này tôi đoán vào bậc
"thượng thượng", nhất phẩm phu nhân của người đàn bà này không nên
đem so bì với những hạng nhất phẩm khác.
Tôi đồng ý với ông bạn họ Kha vì
người đàn bà xấu xí về nhan sắc quả là có những tướng cực tốt như: mũi nở,
lưỡng quyền rộng và đầy, hàm lớn mà nặng, dáng đi ẩn nhẹ, tiếng nói êm ấm.
Tôi chưa kịp phát biểu thì ông bạn
họ Đàm đã nói:
- Kha tiên sinh đoán hay lắm. Người
đàn bà ấy chính là Ngô Bội Phu phu nhân đó.
Sau đấy chúng tôi bàn với nhau, chia
ra mỗi ngả đi săn "tướng" và cùng đưa ra ý kiến là: không cần xem kỹ
tướng (tướng kỹ nữ?) và quý tướng ở chốn này vì đương nhiên ở đây loại tướng ấy
chẳng thiếu gì.
Phân công xong mỗi người đi mỗi ngả.
Phần tôi, ngay trong bốn mươi lăm
phút đầu, tôi đã khám phá ra sáu người đàn bà, lẽ ra phải luân lạc làm kỹ nữ
nhưng hiện thời thì đang ở vận nhất thời tôn quý. Tìm hiểu xa hơn nữa, tôi thấy
ở đây đa số là kỹ nữ xuất thân mà rất ít tướng cách thực thụ là phu nhân, chỉ
hao hao giống phu nhân mà thôi. Tôi còn thấy năm người nữa, tuy hiện tại là phu
nhân nhưng không lâu, chắc lại phải trở về làm điếm, con hát. Dĩ nhiên ở đây
cũng có cả những tướng cách dâm loạn, ngoại tình giết chồng, sắp tái giá và
chồng sắp chết v.v... Chỉ một buổi dạ hội này thôi mà chúng tôi thu thập biết
bao nhiêu kinh nghiệm.
Xem xong chúng tôi về họp với nhau
và phân ra làm tám loại:
1) Quý cách suốt từ tấm bé đến lớn.
2) Trước làm kỹ nữ sau làm phu nhân
nhất thời.
3) Vĩnh viễn làm phu nhân.
4) Đã nhiều đời chồng.
5) Sắp tái giá.
6) Dâm loạn.
7) Có con.
8) Không con.
Theo con số thống kê thì trong hơn
bốn chục người, có tới 31 người là đĩ điếm xuất thân. Chúng tôi ghi lại và giao
Đàm tiên sinh phối kiểm với bà họ Trương, một người giao thiệp rộng biết nhiều,
hơn nữa, bà ta cũng chính là một kỹ nữ xuất thân, bà họ Trương rất tin tướng
số, tính thật thà.
Quả nhiên kế hoạch của chúng tôi rất
hoàn hảo. Bà họ Trương cho chúng tôi những tin tức đúng phong phóc.
Nhờ buổi dạ hội này, chúng tôi công
nhận tướng pháp mỹ nhân thường tác kỹ của cổ nhân là rất đúng.
Chúng tôi chưa kịp đưa ra lập luận:
mỹ nhân có bộ mặt đẹp, nhưng bộ mặt đẹp không nhất định là phúc tướng. Nhưng
cũng không là ác tướng hay bẩn tướng. Vậy tại sao lại phải luân lạc vào nghề đĩ
điếm ca kỹ? Câu hỏi này đưa chúng ta đến định lý mỹ trung hứa chí xú. Trong vẻ
đẹp ẩn chứa một cái gì cực xấu. Như vậy gọi là phá tướng.
Phá tướng là những gì?
Tỉ dụ: Mặt người con gái ấy đẹp
nhưng tiếng nói lại ồm oàm như cái lệnh vỡ.
- Thế thái, dung nhan người đàn bà
ấy thật là điệu mà đi như người đàn ông.
- Mặt trắng nhưng da thịt toàn thân
lại gợn đen như có ghét
- Tay èo ọt như không có xương.
- Thịt mềm như bông.
- Tóc cứng như rễ tre.
- Da nhám như có sạn bụi.
Hết thảy đều là phá tướng.
Tướng làm đĩ cụ thể nhất là nhìn vào
vầng trán.
Trán hẹp, trán thấp, trán nhọn, trán
lõm, trán rô, trán lệch, thiên sương hãm, ấn đường nhỏ. Phàm con gái từ 15 đến
22 tuổi đi vào vận của cái trán, nếu cái tướng trán mà xấu tất chẳng tránh khỏi
luân lạc vào nghề kỹ nữ.
Thoát khỏi vận trán, đi vào vận
khác, tốt thì sẽ hoàn lương, lấy chồng làm ăn tử tế. Ông trời quái ác thật,
đánh dấu cuộc đời ngay trên trán con người, thế mà hồ dễ đã mấy ai nhìn thấy.
Khi nhìn ra cảm thấy một cái thú vô
song như người được mang chiếu yêu kính mà xem ma cười quỷ khóc trước mặt.
QUÝ, TIỆN, CỐT CÁCH, KHÍ CHẤT
Mười năm đèn sách, mười năm nuôi khí
chất là phép tu dưỡng của người xưa.
Cốt cách và khí chất rất quan trọng
cho đời người. Anh hùng hào kiệt, chân nhân quân tử là những người có khí chất
tốt, cốt cách. Thành công, có địa vị là những người có hình tướng hiển đạt.
Sang hèn (quý - tiện) không phải chỉ
căn cứ vào mũ cao áo dài, quan to bổng hậu mà còn phải căn cứ vào khí chất con
người.
Cuối đời Minh, tổng đốc hai tỉnh Tô
Châu và Liêu Đông là Hồng Thừa Đào, có thầy tướng xem đã phê rõ ràng vào tướng
cách của Đào ngày ấy tháng ấy sẽ chết. Nhưng đến đúng ngày ấy, tháng ấy Hồng
Thừa Đào lại không chết khiến vị thầy tướng hết sức ngạc nhiên không hiểu tại
sao?
Đời sau mới khám phá ra lý lẽ. Đào
vốn là con người có danh có vị thời bấy giờ. Quân nhà Thanh sang xâm lược Trung
Quốc bắt được Hồng Thừa Đào chính vào ngày thầy tướng phê tận số. Bởi chưng,
Hồng Thừa Đào tham sống hàng giặc, đi làm quan cho giặc, làm Hán gian nên không
bị giặc giết. Đào từ bỏ khí chất quý đáng lẽ ra phải có của một vị nhất phẩm
nhân thần để chấp nhận tai tiếng ti tiện thành thử phát sinh biến tướng.
- Nếu căn cứ vào quyền thế, danh
vọng Hồng Thừa Đào lúc bấy giờ Minh triều còn qua đến Thanh triều mà bảo như
vậy là quý thì lầm. Chữ quý chứa chất trong nó cái nghĩa đẹp tốt, đức hạnh.
Trường hợp Hồng Thừa Đào hàng giặc, làm quan cho giặc phải gọi là Tiện chứ
không thể nói rằng Quý.
Ca dao có câu:
"Sáo đói thì sáo ăn da
Phượng hoàng lúc đói cứt gà cũng
ăn".
Phượng hoàng loại Hồng Thừa Đào là
thế.
Có kẻ hiển đạt mà ti tiện hèn hạ thì
ngược lại cũng có những người đói khổ mà cao quý. Tỉ như Vũ Huấn đời Thanh
nguyên là lão ăn mày rồi đột nhiên ông ta tụ tập tranh đấu thiết lập tổ chức
Nghĩa học, dạy các em nghèo biết chữ, tạo thành phong trào đi học rộng lớn.
Tuy nhiên, riêng thân phận ông ta
vẫn là một lão ăn mày.
Hình tướng tốt mà không có khí chất
tốt vẫn kể là bất túc.
Sách tướng viết: "Cốt vi quân
nhục vi thần, xương là vua thịt là bầy tôi". Xương với khí chất đi liền
với nhau cho nên ta có thể gọi là khí chất hay cốt khí hoặc cốt chất đều được
cả.
Ngụy Diên đời Tam Quốc có cái xương
chồi sau gáy, Khổng Minh coi cái xương đó là tướng tài giỏi nhưng phản trắc.
Cốt chất thế nào, khí chất như thế. Cốt chất xấu, khí chất tất hẹp hòi, gian
tà, ti tiện. Cốt chất tốt độ lượng, bao dung, sang trọng. Chỉ có tướng da,
tướng thịt ngoại hình hiển đạt mà không có cốt tướng hiển đạt thì sự hiển đạt
không lâu bền. Chỉ có tướng da tướng thịt ngoại hình quyền cao chức trọng mà
cốt chất hèn hạ thì quyền cao chức trọng thật chưa vẹn toàn. Trái lại, tướng da
tướng thịt ngoại hình cô hàn bần bạc mà cốt chất cao quý thì thân phận tuy thấp
kém nhưng danh đức độ ít người theo kịp.
Cho nên phép xem tướng trước phải
xem cốt cách.
Chương tổng luận sách "Thần
Tướng Toàn Biên" có chép lời của Thành Hoà Tử giảng như sau:
- Tướng mạo thanh cổ, cử động cẩn
thận, lễ độ, đàng hoàng, tính tình trầm tĩnh, thanh thản, ăn nói đâu ra đấy,
dõng dạc, tinh tế. Đấy là cốt chất của chính nhân quân tử.
- Hình mạo cổ quái, cử chỉ âm độc,
ăn nói đi đứng tà dâm, thường có sát phạt chi tâm. Đấy là cốt chất của loại
người bất thiện.
- Hình mạo tú lệ, cử động phong nhã,
thông minh sáng suốt, tính tình hòa nhã, ưa học hỏi tu luyện. Đấy là cốt chất
của thần tiên.
Những lời trên đây, Thành Hòa Tử
muốn cho người đọc thấy hình dung của cốt chất. Đọc kỹ và suy ngẫm sẽ có thể
nhận và thấu đáo được.
Để cho rõ hơn xin xem lại lịch sử
nước nhà thời hai vị vua Thành Thái và Duy Tân. Cả hai ông chấp nhận từ bỏ ngôi
báu chịu thân phận kẻ lưu đầy chứ không làm vua bù nhìn cho bọn Pháp thực dân.
Đấy là cốt chất bậc minh quân. Đem so sánh với vua Lê Chiêu Thống sang khóc lóc
với Thanh triều rước voi về dầy mồ. Đấy là cốt chất của hôn quân.
Địa vị có thể ngang nhau mà cốt chất
khác nhau thì quý tiện cũng khác hẳn.
Địa vị cao thấp, hơn kém nhau nhưng
cốt chất khác nhau thì quý tiện phải đặt vào sự nghiệp tiếng tăm, chứ không
phải đặt ở mũ cao áo dài.
Vấn đề cốt chất hay khí chất xong
rồi.
Bây giờ nói về hình tướng của xương
cốt.
Cốt vi quân, nhục vi thần.
Xương là chủ thể, thịt da là khách
thể.
Xương thịt cần phải tương xứng. Thịt
nhiều xương nhỏ không được. Thịt ít xương thô không được. Tối kỵ người lúc nào
cũng co ro như rét, sách tướng gọi là cốt hàn. Tướng cốt hàn thì nghèo, hèn
chết non.
Về tướng xương, sách Khâu Ngọc Quảng
viết:
- "Đốt xương ví như kim thạch,
cần vút cao lên chớ ngang ngạnh ra, tròn trịa đừng thô. Người mập nên béo lẳn
không lộ thịt, người gầy nên vững chắc không khẳng kheo lộ xương. Xương thịt
tương xứng khí sắc tương hòa là tốt. Cốt hàn xương co quắp phi yểu tắc
bần".
Sách "Thông Tiên Ngữ"
viết:
- "Quyền cốt (xương gò má) cao,
nở rộng với ngọc trẩm (xương sau ót giữa gáy và đỉnh đầu) u lên là làm quan to trong
triều đình".
Ông Thành Hòa tử nói:
- "Quyền cốt cao nhưng thô, mặt
mày nở nhưng thịt mỏng hoạn lộ lao đao. Da dầy xương nặng, khí tục là nông phu.
Xương quá lớn là thợ thuyền".
Sách "Cửu Cốt Ca" viết:
"Phong long quang nhuận khí bột
bột
Tiên lập triều ban chấp ngọc
hốt".
Phong long quang nhuận nghĩa là
xương vững chắc, đầy đủ, cân đối, sáng sủa trông đẹp như một tác phẩm điêu
khắc. Khí bột bột nghĩa là còn thấy nó có lực chưa hết, chưa tàn, trông khỏe
như cành cây, thân cây được chăm non vun bón.
Cũng sách "Cửu Cốt Ca" có
những câu:
- Có thịt không xương thì đi hầu.
- Có xương không thịt không ngôi vị.
- Quyền cốt chạy dài đến thái dương
được dịp là làm loạn.
- Sống mũi cao thẳng lên trán quan
cư thượng phẩm.
- Sau gáy xương nổi như cái trứng gà
(ngọc trẩm) thông minh, minh mẫn.
- Quý cốt thiếu niên thị đế đình,
Vô quý cốt giả chung bạch đinh.
(Có xương quý thành công sớm, không
có thì suốt đời làm bạch đinh).
Cốt tướng lấy đầu làm chủ cho nên
xem tướng chỉ cần xem xương sọ. Xương đầu đã hỏng thì các xương khác không đáng
kể nữa.
Về sau, những giang hồ thuật sĩ lập
ra một lối xem tướng sờ xương dành cho những người mù. Để thêm phần quan trọng,
họ nắn cả từng xương ngón tay ngón chân. Thật ra chỉ cần nắn xương sọ là đủ.
Giết tướng giặc, đám giặc phải tan.
Đầu cũng như ông tướng giặc của thân thể. Nhìn một người nếu thấy người đó đầu
quả muỗm, nhỏ mà thiếu góc cạnh, chẳng cần coi thêm, ta có thể hạ ngay một câu:
Tướng chung thân bần khổ.
BÀN VỀ THẦN KHÍ - KHÍ SẮC
Đọc Tam Quốc Chí diễn nghĩa, người
ta thấy câu chuyện này:
"Tào Sảng nghe lời Hà Yến không
dùng Tư Mã Ý. Từ khi Tư Mã Ý thác bệnh thì Tào Sảng và Hà Yến chủ quan không lo
gì nữa.
Sảng mỗi ngày cùng bọn Hà Yến uống
rượu, dùng uy quyền hống hách để đi chim gái. Những đồ quý báu trong cung,
những thóc gạo của dân đều cướp bóc làm của riêng.
Thấy địa vị chẳng tài cán gì mà có
nên Hà Yến rất tin tướng số. Hà Yến biết tiếng Quản Lộ ở Bình Nguyên tinh nghề
thuật số cho mời đến bàn nghĩa kinh dịch. Lúc bấy giờ có Đặng Dương cùng ngồi
đấy nhân mới hỏi Quân Lộ rằng:
- Ông thử bói cho tôi một quẻ xem có
làm tới tam công được không? Tôi lại mộng thấy vài mươi con ruồi xanh đậu trên
mũi, đó là điềm gì?
Lộ nói:
- Ngày xưa Nguyên Khải giúp vua
Thuấn, Chu Công giúp nhà Chu, cùng có đức tốt mà được hưởng phúc, nay quân hầu
ngôi cao quyền trọng nhưng người mến đức thì ít mà kẻ sợ oai thì nhiều, đó
không phải là lối cầu phúc. Vả lại mũi là cái núi, núi cao mà không đổ, khá sợ
lắm thay! Xin quân hầu bớt chỗ nhiều, thêm chỗ ít, điều gì phi lẽ chớ làm. Như
thế ngôi tam công mới đến tay mà đàn nhặng xanh mới xua đi được.
Đặng Dương giận, gắt rằng:
- Lời nói láo, ra cái quái gì.
Quản Lộ cũng bực mình đứng dậy đi
ra. Đặng Dương bảo với Hà Yến: "Thằng ấy thật là đồ cuồng sĩ".
Lộ về nhà thuật cho cậu nghe. Cậu
giật mình nói:
- Hà, Đặng là hai người đang quyền
thế hống hách, sao mày dám nói trêu chọc đến họ?
Lộ nói:
- Tôi cùng với người chết nói chuyện
còn ngại gì nữa?
Cậu hỏi tại sao thì Lộ nói:
- Đặng Dương gân không bó được
xương, mạch không giữ được thịt, ngồi đứng ngả nghiêng, hình như không có chân
tay đó gọi là tướng quỷ tao. Hà Yến không tươi được sắc mặt, tinh thần bất
định, dáng tựa cây khô, đó là tướng quỷ u. Hai người nay mai tất có vạ diệt,
mình can gì mà sợ.
Quả nhiên khi Tư Mã Ý vùng dậy, bắt
chém cả Hà lẫn Đặng. Quản Lộ nói về Hà Yến tinh thần bất định, nói về Đặng
Dương ngồi đứng ngả nghiêng là xem về khí sắc, thần khí.
Thần khí, khí sắc, khí vận là những
điều căn bản của khoa Tướng Mệnh.
Bộ vị xương cốt muốn tốt đẹp đến đâu
mà thiếu thần khí, thiếu khí sắc cũng là bỏ.
Ngược lại, dù bộ vị, cốt hình tuy
xấu mà thần khí hào sảng linh lợi thì lại dễ lập những kỳ công.
Thế nào là thần khí?
"Thiên thập quan sách thần
tướng toàn biên" viết:
- Uy nghi như hổ hạ sơn, trăm giống
thú đều kinh như chim ưng vọt bay lên khiến cáo, thỏ đều sợ. Không cần giận mà
vẫn oai.
Như vậy là thần khí. Chẳng phải vì
hình hài của hổ hay hình hài của chim ưng mà muông thú kinh sợ mà vì khí thế
oai thần do hổ, ưng vẫn có trong rừng núi. Bây giờ nếu con hổ ốm khặc khừ nằm
đấy, con chim ưng gẫy cánh treo trên cành cây thì muông thú nào sợ.
Đọc truyện "Đông Chu Liệt
Quốc" hồi Kinh Kha mưu sát Tần Thuỷ Hoàng. Cùng đi với Kinh Kha là Tần Vũ
Dương tay không đấm chết trâu. Kinh Kha không khoẻ bằng. Khi đến trước mặt Tần
Thuỷ Hoàng, Kinh Kha tiến lên bình tĩnh, còn Tần Vũ Dương mặt tái đi, chân tay
run lập cập. Tại sao vậy?
Tại Tần Vũ Dương chỉ có lực dũng mà
không có thần dũng như Kinh Kha. Thần ở đâu mà có?
"Khí tự du hề, thần tự
đăng"
(Khí là dầu, thần là ngọn đèn).
"Du thanh nhiên nhi hậu đăng
phương minh"
(Dầu sạch trong nên ngọn đèn mới
sáng).
Như vậy thần do khí mà ra.
Khí sắc là gì?
"Nhập môn hưu vấn vinh khô sự
Đản kiến hình dung tiện đắc
tri".
Nghĩa là: Bước vào nhà chưa cần phải
hỏi chủ nhân làm ăn khá hay không, chỉ nhìn hình dung là đủ biết.
Theo Tướng Mệnh học thì hình dung
tức là nhìn hình thái sắc mặt hay nói khác đi là quan sát khí sắc.
Sắc mặt là biểu hiện của khí chất ở
bên trong. Khí chất tốt sắc đẹp mịn màng óng ả (quang nhuận).
Dưới đây là một câu chuyện về tướng
khí sắc:
Khi quân Nhật chiếm lĩnh Thượng Hải,
Nam Kinh, Nhật giao cho Đường Thiệu Nghi lập chính phủ bù nhìn. Những nhà chính
trị chuyên nghiệp làm tay sai xôn xao bàn tán.
Nhà xem tướng danh tiếng Đào Bán Mai
có hai người bạn họ Cố và họ Sái. Cả hai đều quen biết Đường Thiệu Nghi nên
Nghi mời vào nội các. Bình nhật hai người không tin tướng số, lần này muốn thử
tài Đào tiên sinh nên đến nhờ xem tướng. Họ dấu nhẹm câu truyện mời mọc của
Đường Thiệu Nghi và chỉ hỏi Đào Bán Mai tiên sinh đoán về "quan vận"
ra sao và có phải đi đâu xa không?
Đào Bán Mai quan sát hai người hồi
lâu rồi nói:
- Quan vận sắp tới nhưng phải ba
tháng nữa mới thực hiện. Còn như đi đâu xa thì không vì không thấy dịch mã
động.
Bấy giờ chính phủ dân quốc Trung Hoa
tuy đã thiên đô vào sâu nội địa nhưng vẫn lưu lại ở Thượng Hải một bộ phận cứu
tế và địa hạt công tác. Đào Bán Mai cho rằng chính phủ dân quốc sẽ giao công
tác cho hai người chăng? Nhưng theo tiên sinh biết thì cả họ Cố lẫn họ Sái đâu
có gì quan hệ với tập đoàn chính trị dân quốc. Nghĩ vậy nên Đào Bán Mai mới nói
thẳng hai người có ý định tham gia chính phủ bù nhìn Đường Thiệu Nghi không?
Trước câu hỏi đột ngột, cực chẳng
đã, Sái và Cố đều thú nhận về ý định với Đường Thiệu Nghi rồi nói:
- Cứ theo tướng bác thì ba tháng nữa
mới thực hiện quan vận trong khi chính phủ Đường Thiệu Nghi chừng hai mươi ngày
nữa thành lập xong. Bác giải thích làm sao?
- Tôi chỉ biết tướng hiện ra thế nào
tôi nói thế. Tôi đoán chắc trong vòng hai tháng nữa, hai bác nhất định không
thể "xuất chính" được. Giải thích ra sao thì tôi cũng chỉ giải thích
bằng tướng pháp hay mạng vận thôi. Biết đâu Đường Thiệu Nghi lại không vì lý do
nào đó mà không tổ chức xong chính phủ. Tôi không làm chính trị cũng chưa được
xem tướng cho Đường Thiệu Nghi nên tôi chỉ dám đưa ra hoài nghi ấy thôi.
Sái và Cố nghe Đào Bán Mai nói liền
bàn với nhau mời Đào Bán Mai đến xem tướng cho Đường Thiệu Nghi.
Họ gặp nhau tại Tân Á đại tửu điếm.
Đào Bán Mai gặp Đường Thiệu Nghi chừng hơn mười phút đã vội cáo từ về ngay.
Phần Đường Thiệu Nghi bận việc nên cũng đi luôn. Thế là bữa tiệc bất thành. Sái
và Cố chạy theo ông bạn Đào Bán Mai gặng hỏi:
- Tại sao bác vội vàng thế? Sao chưa
nói chi với Đường huynh đã bỏ đi ngay?
Đào Bán Mai trả lời:
- Không thể nói ngay ở đây được.
Chúng ta về nhà hẵng hay.
Họ Cố và Sái nghe họ Đào nói cũng
lấy làm kỳ quái, chắc hẳn Đào Bán Mai có tâm sự chi lạ lùng lắm.
Cả ba thuê xe về nhà.
Chưa bước lên thuyền, hai người đã
tới tấp hỏi Đào Bán Mai:
- Thế nào? Bác phát hiện ra điều gì
trên vóc tướng Đường Thiệu Nghi?
- Nguy hiểm vạn trạng. Các bác đừng
đến gặp hắn ta nữa. Chỉ trong vòng năm ba ngày trở lại thôi.
- ? ? ?
- Thần sắc hắn ta lúc này như người
đã chết một nửa rồi. Hắn ta sẽ chết bất đắc kỳ tử không biết lúc nào. Các bác
hãy nghe tôi. Đừng đi đâu nữa. Chỉ trong vòng năm ngày.
- Bác nói chi mà như đinh đóng cột
vậy? Dù tướng số thì cũng phải một thời gian nó mới hiện ra được chứ? Hơn nữa,
Đường Thiệu Nghi đi đâu đó có bộ hạ hộ tống đàng hoàng, làm sao xảy ra chuyện
bất đắc kỳ tử? Trừ phi là ông ta ngộ gió độc?
Đào Bán Mai thấy hai người vẫn hồ
nghi, cũng chẳng nói thêm, ông lặng lẽ xuống bảo gia nhân làm cơm thết bạn.
Gần buổi chiều chừng năm giờ, bỗng
ngoài phố huyên náo hẳn lên, người nhà về cho hay hiến binh Nhật đang bủa vây
Tân Á Tửu điếm, cùng với cái tin động trời Đường Thiệu Nghi bị đặc công của
Trùng Khánh ám sát chết. Đường thiệu Nghi đang ngồi uống trà ở Tân Á tửu điếm
cùng với mấy viên sỹ quan Nhật Bản thì một người ăn mặc rất sang trọng bước vào
tới. Không ai lưu ý chi hết. Người kia đến bàn Đường Thiệu Nghi nét mặt tươi cười
bình tĩnh. Nhưng vụt một cái, anh ta rút trong mình ra chiếc búa lưỡi sáng quắc
và nhanh như cắt chém mạnh vào sọ Đường Thiệu Nghi. Nghi ngã vật xuống đất,
liền đấy mấy trái lựu đạn khói nổ tung, khách hàng nhốn nháo. Cổ Đổng, đặc viên
công tác của chính phủ Trùng Khánh, người vừa xử tử Hán gian Đường Thiệu Nghi
trốn thoát.
Sớm hôm sau, các báo đăng tin lớn:
Đường Thiệu Nghi đã từ trần.
Thần do khí sinh ra. Sắc cũng do khí
sinh ra. Vậy khí là gì?
Câu hỏi hắc búa nhất vì khó giảng vô
cùng. Vì từ y học, triết học, văn học cũng đều có danh từ khí. Tỉ dụ nói: văn
người ấy chải chuốt nhưng vô khí; khí tán rồi người ấy nay mai là chết, trông
người ấy không có sinh khí; cái khí hạo nhiên của người quân tử...
Đọc nhiều nghe nói nhiều, người ta
có thể hiểu bằng cách "ý hội" chứ không hiểu vì nghe giảng nghĩa. Bởi
thế, mỗi lần Tây Phương tìm hiểu Á Đông, cứ hễ đến danh từ khí là chịu chết
không làm sao dịch cho đúng, không làm sao giảng cho hiểu.
Triết sử gia Tiền Mục giảng
"khí" như sau:
Khí có hai hàm nghĩa:
a) Cực vi (nhỏ lắm).
b) Luôn luôn động.
Vạn vật trong vũ trụ đều do chất tố
cực vi chuyển động mà thành
Nếu giảng như thế để áp dụng cho
tướng mệnh học thì nó có vẻ lạc đề. Cho nên, cách tốt nhất để hiểu thần khí,
khí sắc và khí là tìm hiểu bằng cách hội ý. Cũng như không thể giảng bức tranh
đẹp như thế nào. Khi ý thức mỹ học cao lên sẽ hội ý được cái đẹp. Một cái cây
ta trông thấy cành lá tốt tươi mà kỳ thực rễ nó đã thối nát thì ít bữa lá rụng
cành khô. Một cây khác ta trông thấy lá úa, cành trơ trụi, kỳ thực rễ nó rất
khỏe thì ít bữa cành lá sẽ xanh tươi. Khí ví như cái rễ vậy.
Trần Đồ Nam nói:
- Có da thịt mà vô khí khác nào cây
gỗ bị mối ăn bên trong đã mục nát, gió mạnh là gẫy đổ.
Có thần khí mà vô thần nhục (da
thịt, hình tướng) ví như cây có rễ, chưa phát ra cành lá, đợi mùa xuân đến, tất
đâm cành nảy nụ.
Ông Khổng Minh hình tựa cây tùng khô
nhưng thần khí sáng sủa linh lợi, một sớm một chiều danh mãn thiên hạ.
Ý hội phải từ từ, cho nghĩa thấm
dần. Bạn đọc sẽ trở lại với khí sắc, thần khí qua những chương khác.
DÁNG DẤP VÀ PHONG THÁI
Sách "Ngọc Quản Chiếu
Thần" có câu:
"Hành nhược phù vân, toạ như
đỉnh thạch
Đoạn hậu cẩn ngôn, tính tình khoan
dật".
Nghĩa là: Đi nhẹ như mây bay, ngồi
chắc như tảng đá. Nghiêm trang, ăn nói cẩn thận, tính tình khoan dật.
Có dáng dấp phong thái như trên thì
sẽ: Quan sùng vị hiển, tử tôn vinh (Quan to chức trọng, con cháu đề huề).
Trái lại, nếu đi mà đầu lắc lư, ngồi
cúi gằm mặt thì bần tiện chung thân.
Dáng dấp phong thái quan trọng như
thế đấy.
Toạ như đỉnh thạch, ngồi chắc như
tảng đá là ngồi không nhấp nhổm, không chốc chốc lại đứng dậy ngả bên nọ,
nghiêng bên kia, giơ tay giơ chân rung đùi, rung vế, chứng tỏ thần khí đủ nên
không mỏi mệt.
Tinh thần càng sung túc, sự nghiệp
càng hay, người Trung Hoa nói một phân tinh thần, một phân sự nghiệp.
Không cứ to lớn, hay nhỏ bé, hễ ngồi
không ấm chỗ được lâu, sự nghiệp khó bền bỉ.
Tinh thần đã suy nhược tất nhiên
lười, không quyết đoán, ỷ lại làm sao khá được?
Làm nên sự nghiệp là những người có
tinh lực dồi dào, ý chí kiên cường, khí phách khoát đạt, tinh minh lỗi lạc.
Thiếu thần khí dù có mệnh vận tốt
chẳng qua là nhất thời phong vận, càng cao lắm càng làm trò cho thiên hạ cười
như Trương Tôn Xương, ông tướng thịt chó dưới thời Bắc Dương.
Thần khí là cái tốt tiềm phục bên
trong, nhất đán gặp cơ hội là phát huy kiến lập sự nghiệp lẫy lừng.
Tướng mệnh học đào sâu hơn nữa về
dáng dấp phong thái qua tướng ăn ngủ. Những việc thường ngày trong sinh hoạt có
thể báo hiệu cát hung hoạ phúc.
Trương Phi lúc ngủ mở mắt nghiến
răng, ngáy ran như sấm, ngủ say như chết đúng là anh chàng lỗ mãng chết vì đâm
chém.
Gia Cát Khổng Minh ngủ như ông đã tả
trong bốn câu thơ:
Đại mộng thùy tiêu giác
Bình sinh ngã tự tri
Thảo đường xuân thụy túc
Song ngoại nhất trì trì
(Giấc mộng lớn nào ai tỉnh trước
Bình sinh ta lại biết mình ta
Ngày xuân đẫy giấc trong am cỏ
Ngoài cửa trì bóng ngựa qua)
Ngủ với dáng dấp ấy nên Khổng Minh
với hai bàn tay trắng mà giúp Lưu Bị chia ba thiên hạ, suốt đời ông giữ được
phong thái của một trung thần chí sĩ.
Hoàng Hoa Thám, nhà cách mạng kháng
Pháp ngủ mở mắt, sau bị phản mà bất đắc kỳ tử.
THÀNH BẠI Ở CHỖ QUYẾT ĐOÁN HAY DO DỰ
Việc thành bại của cá nhân do nhiều
lẽ. Tuy nhiên, quyết đoán hay do dự là quan kiện trọng yếu cho thành bại. Cái
nghĩa cao nhất của hai chữ quyết đoán khác hẳn hai chữ quyết liệt và bừa liều.
Trương Lương quyết thắng việc ngoài
ngàn dặm chỉ cần ngồi trong doanh trại, khác hẳn Hạng Võ hôm nay quyết liều một
trận.
Sách tướng dạy rằng:
"Kẻ nhiều ngạo khí hay liều
Kẻ thần bất túc không quyết
đoán".
Xem tướng để biết ai quyết đoán, ai
liều, ai do dự, xem ở đâu?
Hãy nhìn vào các bộ vị trên mặt, nếu
thấy mi cốt (xương dưới lông mày) cao ngang, sống mũi nổi, quyền cốt cao, cằm
đưa lên như chầu vào mũi. Đó là tướng dũng cảm quả quyết. Xong nhìn vào nhãn
thần (ánh mắt) thấy sáng trong chứng tỏ trí tuệ cao minh, mắt thẳng thắn, con
ngươi không trâng tráo, đảo điên chứng tỏ tâm lý kiên quyết không thay đổi.
Cộng với đôi mắt cắn chỉ (Ngậm chặt rất khít) cũng là dấu hiệu của tính quyết
đoán. Có những tướng trên rất dễ thành công.
Đời Tam Quốc, Tuân Úc trong một cuộc
đàm thoại với Tào Tháo đã nói về Viên Thiệu như sau:
- Ngoài mặt thì bao dung nhưng lòng
lại đố kỵ
- Do dự không quyết đoán dễ hỏng
việc về sau.
- Trị quân lỏng lẻo, pháp lệnh không
nghiêm, quân mã nhiều mà vô dụng.
- Cậy là kẻ quyền thế, chuộng hư
danh nên chỉ có những kẻ hẹp hòi thấy lợi thì tôn thờ, nịnh bợ.
Tất cả những tính kể trên của Viên
Thiệu bởi do dự không quyết đoán mà ra.
Quyết tâm có tạo khí thế cho sự
nghiệp như sao đẩu, sao ngưu, đẹp như cầu vồng mọc ngang trên trời.
Tỉ dụ: Phạm Hồng Thái vác bom ném
vào tên toàn quyền thực dân Pháp Merlin. Thành bại hay không không ở chỗ tên
trùm thực dân có chết hay không mà ở chỗ nó làm nổ lên một quyết tâm diệt thù.
Lòng quyết tử tiến lên đường gió bụi
Hai bàn tay thề phục lại sơn hà
Thái Bình Dương lấp bằng niềm tủi
nhục
Lấy máu đào rửa sạch máu yêu ma
(Thơ Thái Dịch)
KHÍ TRONG SÁNG NHƯNG HÌNH YẾU ĐUỐI
TÀI CAO MÀ MỆNH BẠC
Hồn tài tử vơi đầy ngụ oan khổ
Khúc đoạn trường nên tuyệt cổ văn
chương
Hồn tài tử là khí chất trong sáng.
Oan khổ với đoạn trường bởi chưng hình thể doanh hư. Hữu tài vô mệnh. Ngoại
biểu thanh tú thông tuệ, bản chất thân thể yếu đuối, lúc nào cũng tựa người ốm
đau mà không phải ốm đau. Sách tướng gọi là hình bất túc. Khí thanh nên tài
cao, thế chất yếu đuối nên không lâu bền. Cho nên có mấy câu: "Khí thanh
thế doanh tuy tài cao nhi bất cửu. Ta nói khí độ, khí phách, khí vũ, khí vận,
khí thế tức là nói một cái gì trừu tượng biểu xuất ra bên ngoài mà gốc của nó
là tinh lực vô hình. Chẳng những nó quan hệ đến thọ yểu con người, còn quan hệ
đến giàu sang, nghèo hèn, cát hung họa phúc".
Sách "Linh Sơn Bí Quyết"
nói:
- Hình là chất vậy khí làm cho chất
đầy đủ sung thực. Hình nhờ khí mà nảy nở tươi tốt, thần nhờ chất mà an định.
Thần an thì khí tĩnh. Được thua còn mất không làm cho khí hao tổn. Mừng giận
không làm cho kinh động tinh thần. Lúc nào cũng điềm đạm, bao dung khí độ.
Người nào không uống rượu mà trông
như say, không nói chuyện buồn mà trông âu sầu, dễ kinh hoàng sợ hãi, tinh thần
bất định không thể có sự nghiệp, hoặc có sự nghiệp cũng nửa đời sụp đổ.
Hình là thân xác con người thuộc về
thực chất. Khí là linh hồn con người thuộc về tinh thần. Cả hai liên hệ như dầu
với đèn. Dầu khô đèn không sáng. Đèn không bấc, bóng đèn vỡ, đèn không cháy.
Sách "Ngọc Quản Chiếu
thần" nói:
- Đá có ngọc nên núi rực rỡ. Ngọc là
khí, đá và núi là người vậy.
Thầy Nhan Hồi, học trò giỏi của
Khổng Phu Tử, mặt sáng đẹp cực thông tuệ nhưng mới ba mươi tuổi đã chết chỉ vì
ngũ tạng hư, thân thể yếu đuối.
Nhà văn Vương Bột, tác giả bài phú
"Đằng Vương Các" chết năm 29 tuổi cũng chỉ do cái tướng khí, thanh
thể doanh hư. Hình bất túc cho nên khí thanh chẳng tụ vào đâu được.
TINH THẦN MẠNH, XƯƠNG CỐT KHỎE, QÚY
PHÚ THỌ KHANG NINH
Nóng rét gió mưa, tật bệnh là đại
địch, mệt nhọc, đói khổ là tai họa của con người. Nếu muốn chống lại những đại
địch và những tai họa đó, con người ta cần phải đầy đủ tinh lực.
Thần cường cốt tráng mới chịu được
gió mưa, nóng rét, mệt nhọc, đói khổ. Có chịu được mới kiên trì chiến đấu mà
tạo nên sự nghiệp.
Kiên trì và nhẫn nại
Không chịu lùi một phân
Vật chất tuy đau khổ
Không nao núng tinh thần.
Tôn Tẫn bị Bàng Quyên cắt gót, giả
điên lăn lộn trong chuồng heo nếu không thần cường cốt tráng thì hỏi làm sao
sống để rửa hận giết Bàng Quyên.
Hầu như hết thảy các vĩ nhân trong
lịch sử thế giới chẳng ai là thiếu cái lực nhẫn nại kể trên.
Thần cường cốt tráng đã, số mệnh
tính sau.
Thần cường cốt tráng hiện ra hình
tướng như thế nào?
a) Quyền cốt cao rộng,
b) Lông mày dài,
c) Sống mũi hữu lực,
d) Nhân trung dài, sâu,
e) Da đầu không quá căng. (Nếu căng
như da trống là chết. Đầu ở đây kể cả mặt).
f) Răng lớn, chặt chẽ khít khao,
g) Huyết sắc vinh phát. (Da mặt hồng
hào, không trơn như mỡ, không ám hãm),
h) Pháp lệnh dài, sâu,
i) Tiếng nói lớn mà không cụt,
j) Hơi thở đều đặn.
Thần cường cốt tráng nhưng có rất
nhiều trường hợp cốt tráng mà tinh thần bạc nhược, như mấy anh thân hình thì to
lớn nhưng ngu độn, gọi là hình hữu dư thần bất túc, thì lại thuộc tướng cách
khác.
Thần cường là căn bản rồi mới
*.
LƯU XUÂN THANH
Địa chỉ: Phường Nhơn Phú,
tp Quy Nhơn, Bình Định.
Email: luuquangthaibd@gmail.com
.
.
.
.
.
..............................................................................................................
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 21.05.2017.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân
Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
Bài này nên đề là sưu tầm giới thiệu thì mới đúng. Đứng tên tác giả mà phần lớn là "sao y bản chính" của các tác giả khác thì thật không nên chút nào
Trả lờiXóa