VÀI NHẬN XÉT VỀ
VẦN TRONG THƠ LỤC BÁT
*
Vần Thơ Lục Bát Liên Tục Không Ngừng.
(Tác giả Phạm Đức Nhì) |
Thể thơ
lục bát có lối gieo vần bài bản, nguyên tắc, vừa yêu vận, vừa cước vận. Tất cả
những chữ vần với nhau đều là thanh bằng. Chữ thứ 6 câu lục vần với chữ
thứ 6 câu bát, rồi chữ thứ 8 câu bát vần với chữ thứ 6 câu lục kế
tiếp - cứ thế cho đến hết bài (1).
Thí dụ:
TRE VIỆT
NAM
Tre xanh xanh tự bao giờ?
Chuyện ngày xưa... đã có bờ tre xanh
Thân gầy guộc, lá mong manh
Mà sao nên lũy nên thành tre ơi?
Ở đâu tre cũng xanh tươi
Cho dù đất sỏi đất vôi bạc màu
Chuyện ngày xưa... đã có bờ tre xanh
Thân gầy guộc, lá mong manh
Mà sao nên lũy nên thành tre ơi?
Ở đâu tre cũng xanh tươi
Cho dù đất sỏi đất vôi bạc màu
Có gì đâu, có gì đâu
Mỡ màu ít chắt dồn lâu hoá nhiều
Mỡ màu ít chắt dồn lâu hoá nhiều
(Nguyễn
Duy)
Các Loại Vần
Chính
vận: Phần âm giống nhau, khác phụ âm đầu (xanh manh thành)
Thông
vận: Phần âm na ná, gần giống, phụ âm đầu bất kể (ơi tươi vôi)
Chính tự
vận: Nguyên chữ giống nhau (tràng tràng, ru ru)
Lạc vận:
Khác biệt hoàn toàn (cười loan)
Lục Bát Nhiều Vần
Có thể
nói thơ lục bát có vần dầy đặc – giống song thất lục bát - nhiều vần hơn hẳn
các thể thơ khác.
Lượng
vần của thơ lục bát được tính theo công thức:
Số cặp
vần = Số câu – 1
Như thí
dụ trên, 8 câu đầu của bài Tre Việt Nam có 8 – 1 = 7 cặp vần (giờ bờ, xanh
manh, manh thành, ơi tươi, tươi vôi, màu đâu, đâu lâu).
Trong
khi Thơ Mới liền mạch, vần liên tiếp như 8 câu đầu của bài Áo Lụa Hà Đông dưới
đây
Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng
Anh vẫn nhớ em ngồi đây tóc ngắn
Mà mùa thu dài lắm ở chung quanh
Linh hồn anh vội vã vẽ chân dung
Bày vội vã vào trong hồn mở cửa
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng
Anh vẫn nhớ em ngồi đây tóc ngắn
Mà mùa thu dài lắm ở chung quanh
Linh hồn anh vội vã vẽ chân dung
Bày vội vã vào trong hồn mở cửa
(Nguyên
Sa)
chỉ có 3
cặp vần (Đông cùng, trắng ngắn, quanh dung) được tính theo công thức: Số cặp
vần = (số câu/2) - 1 = 3
Lạc Vận
Với thơ
lục bát không nên lơ là với vần - nhất là đừng để lạc vận vì lạc vận là phạm
luật. Một câu lạc vận là cả bài thơ “xấu mặt”.
Thí dụ
1:
TÂM ĐỨC
LÒNG NGƯỜI
Về nơi đoàn tụ trong lành
Gia đình vui sướng nụ cười tuơi duyên.
Gia đình vui sướng nụ cười tuơi duyên.
(Ghi
Nguyen Duc, FB Lục Bát Việt Nam)
Hai câu
cuối của bài thơ lạc vận – “lành” không vần với “cười”.
Truyện
Kiều của Nguyễn Du cũng có một số câu lạc vận như 2 thí dụ dưới đây.
Một vùng cỏ áy bóng tà
Gió hiu hiu thổi một vài bông lau
(Câu 97
– 98)
“Tà” và “vài” lạc vận.
Sượng sùng đánh dạn ra chào
Lạy thôi, nàng mới rỉ tai ân cần
(Câu
1095 – 1096)
“Chào” với “tai” lạc vận.
“Không Khéo” Nhưng
Không Phạm Luật
Đối với
thơ lục bát thì chỉ có lạc vận là phạm luật về vần. Còn những sơ sót như sau
đây chỉ là sự “không khéo” của tác giả. Thi sĩ tuân thủ đúng luật đàng hoàng
nhưng vì “không khéo” nên có hậu quả không hay cho âm điệu, nhạc điệu của thơ.
1/ Chính Tự Vận
KHÔNG LÀ
GIẤC MƠ
Yêu nhau thì phải nồng say
Trọn đời suốt kiếp không thay đổi lòng
Cũng không một dạ hai lòng
Đồng cam cộng khổ vợ chồng bên nhau
Nguyễn
Thanh Phong, FB Lục Bát Việt Nam)
Thi sĩ
Nguyễn Thanh Phong đã gieo vần “chính tự” (lòng lòng) – hai chữ giống nhau như
đúc. Gieo vần như vậy không sai luật nhưng nghe có “cái gì đó” không thuận tai.
Hơn nữa, vừa trùng vận lại vừa trùng ý nên làm dở đoạn thơ.
Mấy câu
Kiều sau đây của Nguyễn Du tuy không trùng ý nhưng cũng là kiểu vần “chính tự”
(chữ giống chữ). Tuy không phạm luật nhưng cho thấy thi sĩ lúc ấy đang ở “thế
kẹt”, không tìm được chữ hay hơn. Dù sao đi nữa cũng giảm giá trị nghệ thuật
của thơ.
Sụt sùi giở nỗi đoạn tràng
Giọt châu tầm tã đẫm tràng áo xanh
(Câu
1943 – 1944)
Mừng thầm được mối bán buôn có lời
Hư không đặt để nên lời
(Câu
2090 – 2091)
2/ Quay Lại Vần Cũ Chỉ Sau Một Lần Chuyển Vận
Dưới đây
là bài thơ của Nguyễn Quỳnh.
LẠC GIỮA
HỒN QUÊ
Hạ nồng thêm nỗi nhớ quê
Chiều nghiêng giọt nắng đường về trông theo
Lớn lên từ mảnh đất nghèo
Phồn hoa bỏ lại nặng đeo lối lề
Chiều nghiêng giọt nắng đường về trông theo
Lớn lên từ mảnh đất nghèo
Phồn hoa bỏ lại nặng đeo lối lề
Đồng trong gạo trắng cơm quê
Thành danh đến mấy cũng về chốn xưa
Thành danh đến mấy cũng về chốn xưa
(FB
Lục Bát Việt Nam)
Từ bộ
vần (quê về) mới chuyển qua (theo nghèo đeo) đã quay lại (lề quê về). “Hội
chứng nhàm chán vần” ở đây không nặng lắm nhưng cũng làm người đọc có cảm
giác khó chịu. Thật phí hoài mấy câu thơ hay.
Bởi vậy,
nếu không có nhu cầu cho một thi ảnh đặc biệt hoặc một biện pháp tu từ nào đó
hãy để dòng chảy của tứ thơ chảy thêm một đoạn nữa rồi hãy quay lại vần cũ cho
an toàn.
Đoạn
Kiều của Nguyễn Du sau đây cũng “không khéo” tương tự như vậy.
Vùi nông một nấm mặc dầu cỏ hoa
Trải bao thỏ lặn ác tà
Ấy mồ vô chủ, ai mà viếng thăm!
Lòng đâu sẵn mối thương tâm
Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa.
Đau đớn thay phận đàn bà!
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
(Câu 78
– 84)
3/ Cặp Vần Tai Hại Từ Câu Bát
Chúng ta
thử đọc bài thơ của Trần Trọng Giá dưới đây:
ĐỜI
Đắng cay này gửi vào thơ
Để đêm chia bóng, ngày chờ ước mơ
Tằm ơi! Sao chẳng nhả tơ
Cho ta vá lại hồn thơ nát nhàu!
(FB Lục Bát Việt Nam)
Để đêm chia bóng, ngày chờ ước mơ
Tằm ơi! Sao chẳng nhả tơ
Cho ta vá lại hồn thơ nát nhàu!
(FB Lục Bát Việt Nam)
Có người
gọi đây là lỗi “phong yêu” nhưng tôi không thích cái tên này vì nó dùng cho
Đường Luật mà cấu trúc câu của Đường Luật và lục bát khác nhau. Tôi cũng không
cho đây là “lỗi” hay phạm luật vì tác giả Trần Trọng Giá cho chữ thứ 6 câu lục
vần với chữ thứ 6 câu bát; rồi chữ chữ thứ 8 câu bát vần vói chữ thứ
6 câu lục kế tiếp…. rất bài bản và đúng luật.
Nhưng
ông đã không khéo cho chữ thứ 6 (chờ) và chữ thứ 8 câu bát (mơ) vần với
nhau. Hậu quả là độc giả phải nghe âm điệu của một chuỗi 5 chữ (thơ chờ mơ
tơ thơ) từ 4 câu thơ liên tiếp trùng vần – mà lại toàn là chính vận mới đáng
sợ. Vần quá ngọt. Có một tô chè mà nêm đến mấy lạng đường, ngọt lợ đến gắt cổ.
Tương tự
như vậy là bài thơ của thi sĩ Đào Việt Đức:
GIẤC MƠ
QUÊ
Đêm thu lá rụng bên hè
Bồn chồn giữa nỗi bộn bề mơ quê.
Bồn chồn giữa nỗi bộn bề mơ quê.
Chăn bò thơ thẩn
bờ đê
Nghe con chim cuốc gọi hè lao xao.
Nghe con chim cuốc gọi hè lao xao.
(FB Lục Bát Việt Nam)
Cặp vần
“bề quê” của câu bát đã đẻ ra một chuỗi 5 chữ cùng vần (hè bề quê đê hè) tạo thành
4 cặp trùng vận (hè bề, bề quê, quê đê, đê hè) đọc lên âm điệu ầu ơ,
rất ngán.
Thi si
Đào Việt Đức cũng lạc vào bếp của ông Trần Trọng Giá để nấu ra nồi chè Giấc Mơ
Quê quá ngọt, khách ăn chè vừa nhấp môi đã lắc đầu ngao ngán.
Đoạn
Kiều dưới đây còn “khủng khiếp” hơn.
Đinh ninh hai mặt một lời song song
Tóc tơ căn vặn tấc lòng
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương
Chén hà sánh giọng quỳnh tương
Dải là hương lộn bình gương bóng lồng
Sinh rằng: Gió mát
trăng trong
Bấy lâu nay một chút lòng chưa cam
(Câu 450
– 456)
Trong 7
câu thơ có đến 2 cặp vần từ câu bát (chữ đỏ), tạo ra ngang dọc 8 cặp trùng vận
(song lòng, lòng đồng, đồng xương, xương tương, tương gương, gương lồng, lồng
trong, trong lòng). Tuy có mấy vần “xương”, “tương”, “gương” lạng xa đi một
chút nhưng độ ngọt cũng quá nhiều.
Về luật
vần thì Nguyễn Du không sai nhưng ông đã “không khéo” tạo ra một đoạn thơ điệp
vận quá đáng không cần thiết; “hội chứng nhàm chán vần” rất nặng, giảm giá trị
nghệ thuật của tác phẩm.
Tóm Tắt
Vần
trong thơ lục bát có thể tóm tắt như sau:
1/ Toàn
vần bằng.
2/ Chữ
thứ 6 câu lục vần với chữ thứ 6 câu bát.
3/ Chữ
thứ 8 câu bát vần với chữ thứ 6 câu lục kế tiếp.
4/ Luật
duy nhất có thể phạm lỗi là Lạc Vận.
5/ Để ý
tránh:
a/ Chính tự vận (hai chữ giống nhau)
b/ Quay lại vần cũ chỉ sau một lần chuyển vận
c/ Cặp vần tai hại từ câu bát
Kết Luận
Bài viết
này chỉ chú trọng khía cạnh kỹ thuật, trình bày hết sức đơn giản để độc giả
thấy được bức tranh toàn cảnh và mấy điểm thực tiễn về vần. Hy vọng rằng có
được chút vốn liếng ấy các bạn trẻ sẽ tự tin hơn khi cầm bút làm thơ lục bát.
-------------
CHÚ THÍCH:
Có
một loại “lục bát biến thể” như 2 bài dưới đây:
Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.
Ông ơi, ông vớt tôi nao
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng
Có xáo thì xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con.
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.
Ông ơi, ông vớt tôi nao
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng
Có xáo thì xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con.
(Ca
dao, khuyết danh)
Bão lặng mà gió
còn lay
Khiến dạ bao ngày ảo não sầu ĐAU
Chỉ ước rạng rỡ về sau
Cho trúc xanh màu để thắm nhành mai.
Khiến dạ bao ngày ảo não sầu ĐAU
Chỉ ước rạng rỡ về sau
Cho trúc xanh màu để thắm nhành mai.
(Tấn
Phước Lê, FB Luật Thơ Tổng Hợp)
Vần
ở câu lục vẫn như thường lệ. Câu bát gieo vần ở chữ thứ tư. Tuy nhiên, loại
“lục bát biến thể” này rất ít gặp.
Ngoài
ra có người còn tách riêng 2 câu đầu của đoạn thơ dưới đây và tặng cho nó danh
hiệu “lục bát vần trắc”.
Tò vò mà nuôi
con nhện
Ngày sau nó lớn nó quện nhau đi
Tò vò ngồi khóc tỉ ti
Nhện ơi nhận hỡi nhện đi đàng nào?
Ngày sau nó lớn nó quện nhau đi
Tò vò ngồi khóc tỉ ti
Nhện ơi nhận hỡi nhện đi đàng nào?
(Ca
dao)
Theo
tôi đây chỉ là một sự phá cách đột hứng trong ca dao tục ngữ. Cũng có thể là
một kiểu biến thể của song thất lục bát. Sau đó, vì không có nhiều người hưởng
ứng sáng tác nên tôi chỉ xem nó như một trong vài trường hợp cá biệt, chưa thể
nâng lên hàng “thể thơ”.
Do
đó, cho đến thời điểm này, lục bát chỉ gieo toàn vần bằng, không có vần trắc.
*.
PHẠM ĐỨC NHÌ
Địa chỉ: League
City , Hoa Kỳ.
Email: nhidpham@gmail.com
.
.
.............................................................................................................
- Cập
nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 14.08.2020.
- Bài
viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui
lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét