VÌ SAO THỊ
NỞ PHẢI XẤU?
*
(Tác giả Đỗ Ngọc Thống) |
Lâu nay dân gian vẫn lưu truyền
câu ca: “Trông xa cứ tưởng nàng Kiều/ Lại
gần mới biết người yêu Chí Phèo”. Không chỉ đích danh, nhưng ai cũng biết “người yêu Chí Phèo” là Thị Nở, người
tình duy nhất trong cuộc đời u tối của Chí. Cứ theo câu ca trên thì Thị Nở tồn
tại trong tâm lý dân gian như là hiện thân của cái Xấu; đối nghịch của cái Đẹp;
phản thẩm mỹ. Chí Phèo chết một phần do Thị Nở và cũng chính vì Thị mà một thời
Nam Cao “mang tai mắc tiếng” là nhục mạ con người…
Nếu tách riêng đoạn văn Nam Cao
đặc tả Thị Nở ra thì quả không sai. Bạn đọc dễ nhận thấy: Khó mà tìm được trong
văn chương ta một nhân vật nào của “phái đẹp” mà lại “xấu” đến thế; lại như là hội tụ tất
cả những gì kém cỏi nhất của cõi người. “Một
người ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích và xấu ma chê quỷ hờn”.
Hãy đọc lại đoạn văn tả Thị Nở mà xem, Nam Cao viết: "Cái mặt thị thực là một sự mỉa mai của hóa công: nó ngắn đến nỗi người
ta có thể tưởng bề ngang hơn bề dài, thế mà hai má lại bóp lại mới thật là tai
hại. Nếu má phinh phính thì mặt thị lại còn được hao hao như là mặt lợn, là thứ
mặt vốn nhiều hơn người ta tưởng trên cổ người. Cái mũi thị vừa ngắn, vừa to,
vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành, bành bạnh muốn chen lẫn nhau với những cái
môi cũng cố to cho không thua cái mũi. Có lẽ vì quá cố cho nên chúng nứt nẻ như
rạn ra. Đã thế thị lại ăn trầu thuốc, hai môi dày được bồi cho dày thêm một
lần, cũng may quyết trầu sánh lại che được cái màu thịt trâu xám ngoách. Đã thế
những cái răng lại rất to, lại chìa ra, ý hẳn chúng nghĩ sự cân đối che được
vài phần cho sự xấu. Đã thế thị lại dở hơi. Đó là một sự ân huệ đặc biệt của
thượng đế chí công".
Một chân dung như thế thì câu
ca trên có gì là quá! Chân dung ấy, giọng văn ấy, khiến một thời nhiều người
cho Nam Cao đã “phạm tội” mạt sát, nhục mạ con người; có biểu hiện “tự nhiên
chủ nghĩa”. Không ít thầy giáo, cô giáo coi đó là hạn chế của Nam Cao... Một
trong những nguyên nhân dẫn đến kết luận tai hại trên là người ta đã tách nhân
vật này ra khỏi hệ thống hình tượng của toàn bộ tác phẩm; thoát ly hẳn mối quan
hệ với nhân vật trung tâm và không xét đến chủ đích nghệ thuật của Nam Cao.
Viết tác phẩm Chí Phèo, Nam Cao
muốn ném ra giữa cuộc đời một nhân vật “khốn
khổ, tủi nhục nhất của người dân cùng ở một nước thuộc địa” (Nguyễn Đăng
Mạnh); một con người bị tước đoạt triệt để trên mọi phương diện; một kiếp người
khốn khó bị đẩy xuống “dưới đáy” xã hội, biến thành lưu manh và đã phải trả một
giá quá đắt khi muốn trở lại cõi người. Xã hội ấy đã đẩy Chí vào một tình huống
nghiệt ngã, tưởng như một nghịch lý: Muốn tồn tại thì phải lưu manh, muốn sống
thì phải chết.
Để làm nổi bật hình tượng này,
toàn bộ các nhân vật khác đều xoay quanh Chí, đều “góp phần” làm cho Chí trở
thành “khốn khổ tủi nhục nhất” trong
đám cùng đinh trước cách mạng tháng Tám (1945). Thị Nở được hình thành và khai
sinh không ngoài cảm hứng và chủ đích nghệ thuật đó.
Có thể thấy rất rõ rằng Nam Cao
đã “cố tình” tạo ra Thị Nở như là “sự mỉa
mai của hóa công”. Chẳng thế mà trong đoạn văn đặc tả ngắn ngủi ấy, ông
dùng đến ba lần chữ “đã thế” hai lần
“và Thị lại”. Tuy nhiên, sự “cố tình”
này của Nam Cao là nhằm tạo ra một hiệu quả nghệ thuật khác. Thị Nở xuất hiện,
tính chất bi kịch của cuộc đời Chí tăng vọt tới tột cùng. Như một tỉ lệ thuận,
Thị Nở càng xấu thì sự “khốn khổ, tủi nhục” của Chí càng cao. Thị xuất hiện làm
sống lại những mong muốn mơ hồ từng có trong Chí: lấy vợ. Và thật tủi nhục cho
Chí biết bao: Nào có mơ ước gì “cành vàng lá ngọc”, nào có đòi một Tiên Dung
hay một Quỳnh Nga, thậm chí dù chỉ là một người đàn bà bình thường mà “thất
bại” cho cam, đây chỉ mong được “một
người mà người ta tránh Thị như tránh một vật gì rất tởm”… Chỉ mong ước một
người như Thị Nở cũng không được, thế thì còn gì là đáng sống?
Thị Nở - Ánh sáng leo lét cuối
cùng trong cuộc đời mịt mù của Chí chợt bừng lên rồi tắt ngấm, để lại cho Chí
nỗi đau tình phụ và một nỗi uất hận trả thù. Chính Thị là chất xúc tác trực
tiếp làm cho phản ứng tự sát của Chí diễn ra nhanh hơn, quyết liệt và bi thảm
hơn. Ngẫm kỹ, việc mô tả sự xấu của Thị ở đây, không phải là để “mạt sát” con
người mà khắc sâu thêm nỗi đau của con người, về con người.
Mặt khác, việc miêu tả cái xấu
của Thị Nở đã mang lại cho thế giới nhân vật của Nam Cao một “Đôi lứa xứng
đôi”; trao cho Chí Phèo một tri kỷ “đồng bệnh tương liên", tạo nên sự đồng
cảm, thương xót trước một mối tình thuần hậu đến nao lòng. Nghệ thuật miêu tả ở
đây có tác dụng thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc và ý thức trách nhiệm với
con người của Nam Cao. Chẳng phải là Chí Phèo và Thị Nở đã yêu nhau sao? Suốt
thời gian ấy, Thị cũng làm duyên, cũng e lệ, làm tình, cũng lườm, cũng âu yếm,
khi gọi tiếng vợ chồng cũng “ngường
ngượng và thinh thích”; khi xa cũng nhơ nhớ, bâng khuâng... cuối cùng cũng
đau khổ, say sưa và tức giận... Phải kể tất cả các trạng thái và cung bậc tình
yêu ra như thế mới thấy ngòi bút của Nam Cao nhân đạo biết nhường nào. Hỡi ôi!
Có mấy ai nghĩ được, tin được hai con người ấy lại có một tình yêu, cũng biết
yêu và cần một tình yêu. Nam Cao cất tiếng đòi quyền sống, quyền lương thiện đã
đành mà thêm vào đó là quyền được yêu cho những con người đã bị vất ra lề xã
hội với biết bao phần người không hoàn thiện.
Cái xã hội làng Vũ Đại đã chối
bỏ một cách quyết liệt và thẳng thừng “đôi lứa” ấy, nhưng Nam Cao vẫn nhìn thấy
trong những con người méo mó, cực nhục này lấp lánh những mảnh vỡ của nhân
tính, những ngọn lửa dù leo lét mà vẫn ấm áp tình người. Trong khi gần gũi, yêu
đương, Thị Nở đã nhìn thấy ở Chí những điểm tốt lành mà người đời không thấy.
Và Chí cũng thấy “Trông Thị thế mà có
duyên”, “Xấu mà e lệ thì cũng yêu”
và đặc biệt Thị đã khơi gợi được trong Chí ước muốn làm người lương thiện, Chí
nghĩ: “Thị sẽ mở đường cho hắn”. Đặt
trong bối cảnh xã hội Việt Nam trước cách mạng tháng Tám (1945) thì cách nhìn,
cách nghĩ về “đôi lứa” ấy như thế, chẳng phải là một cái nhìn nhân đạo hay sao?
Nam cao thật vĩ đại. Ông viết
như cho mọi thời. Cái nghịch lí muốn tồn tại thì phải lưu manh, muốn sống thì
phải chết dường như vẫn đang hiển hiện giữa cuộc đời này.
*.
ĐỖ NGỌC THỐNG
Địa chỉ: Vụ Giáo dục Trung học
Bộ Giáo dục và Đào tạo
Số 35 Đại Cồ Việt - Hà Nội
........................................................................................
- Cập nhật từ email: dovantuyenbk@yahoo.com.vn
ngày 10.07.2020.
- Bài viết không thể
hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại..
0 comments:
Đăng nhận xét