SỐ PHẬN BÀI THƠ ‘KHÓC KẺ THÙ’
CỦA HẢI BẰNG
*
Nhà thơ Hải Bằng đi vào cõi
vĩnh hằng đã nhiều năm rồi (1999), nhưng độc giả yêu thơ Miền Trung, nhất là ba
tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế vẫn không ai quên “người nô bộc tận
tụy” của thơ ca, một thi sĩ lính đa cảm và bộc trực này. Nhiều bài thơ của ông
vẫn được mọi người thuộc lòng. Hải Bằng tên thật là Nguyễn Phước Vĩnh Tôn là
chắt nội của vua Hiệp Hòa. Ông là nhà thơ duy nhất ở Huế có 2 tấm thẻ hội viên
trong hành trang của mình. Thẻ Hội Viên Hội Văn Nghệ Việt Nam năm cấp 1957 do
nhà văn Nguyễn Tuân ký. Năm 1958, do ông có mấy cái ký họa đăng trên báo Trăm
hoa , nên bị kỷ luật vì quan hệ với Nhân văn- Giai phẩm, phải “phát vãng” về
Quảng Bình, mấy năm ròng đi câu cá ở làng Cảnh Dương dưới chân Đèo Ngang. Sau
một thời gian mới được gọi đi làm ở Sở Văn hoá tỉnh, làm nghề bán sách. Sau đó
ông làm thơ, được giải thưởng thơ Báo Văn Nghệ với bài thơ Cồn Cỏ, năm 1985,
ông được cấp lại thẻ Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam do nhà văn Nguyễn Đình Thi
ký. (Tác giả Ngô Minh)
Năm mười bốn tuổi, Hải Bằng đã
từ bỏ cuộc sống nhung lụa giàu sang của gia đình Hoàng tộc để đi theoVệ Quốc
Đoàn, trở thành chiến sĩ trung đoàn 101 nổi tiếng của Vệ quốc đoàn vùng Trị
Thiên - Huế từ năm 1945.Từ năm 1948, ông ở trong đoàn văn nghệ Liên khu IV vào
chi viện cho chiến trường Bình Trị Thiên. Thời kỳ nay, Hải Bằng lấy tên là Văn
Tôn, làm thơ, rồi đọc cho bộ đội nghe. Những bài thơ của ông liên tục xuất hiện
tại chiến khu Dương Hòa, Ba Lòng, Do Linh ,Cam Lộ từ đó. Trong đó có bài thơ
nổi tiếng “Em nữ cứu thương người Pháp”.
Khi còn sống nhà thơ kể rằng,
mùa hè năm 1952, ông theo bộ đội Trung đoàn 95 ra trận phục kích đoàn quân Pháp
tiếp tế cho đồn Nam Đông vùng Cam Lộ, Quảng Trị trên đường 73, 74. Trong trận
đánh quân ta bắt được một số tù binh Pháp, trong đó có một nữ cứu thương Pháp
còn rất trẻ. Bọn Pháp đã bắn ca-nông vào trận địa ta, làm cho người nữ cứu
thương người Pháp bị tử trận. Người ta tìm thấy trong túi cô cứu thương Pháp có
bức thư của người mẹ từ Pháp gửi qua, nhắn con gái hãy trở về với mẹ. Xúc động
trước thân phận người con gái nước ngoài bị bọn thực dân ném vào cuộc chiến
tranh phi nghĩa ở Việt Nam, nhà thơ trẻ Văn Tôn lúc đó mới 22 tuổi, xúc động
thức suốt đêm, đốt đèn dầu lạc, làm bài thơ dài 14 khổ (56 câu), như một nén
nhang thắp cho người con gái xấu số:
Chiều nay tiếng súng anh ngừng nổ
Thấy xác em nằm giữa cỏ tranh
Anh đắp cho em mền trấn thủ
Còn đâu nhìn thấy mắt xanh xanh
Bên xác còn nguyên tờ giấy mỏng
Nhậm ngùi anh nhặt đọc dòng thư
Thư buồn mẹ nhắn con về nước
Anh biết nhà em cũng xác xơ...
Làm xong bài thơ, Văn Tôn đọc
cho các chiến sĩ trong đơn vị mình nghe. Bài thơ tự sự ,dân dã, ngôn ngữ cấu tứ
không cầu kỳ, nhưng lại da diết nỗi niềm, nên lay động lòng người. Bài thơ lập
tức được chép tay, được học thuộc và lan truyền nhanh chóng trong các đơn vị bộ
đội và nhân dân trên chiến trường Trị Thiên lúc đó và gây nên sự xúc động sâu
sắc. Một số lính ngụy ở lô cốt Giăng-phạc-ngân cũng chép và thuộc bài thơ. Đây
là lần đầu tiên trong văn chương cách mạng Việt Nam có một tác phẩm viết về “kẻ
thù”, nhưng không ở góc độ phản kháng, chống đối, mà ở sự “thương xót” cho số
phận con người và lên án chiến tranh. Vì thế bài thơ có tầm nhìn quốc tế lớn
bởi cách nhìn chiến tranh rất nhân văn và nhân đạo: “Em chết, chiều nay chết ở đây / Mẹ đâu thấy bóng buổi sau này / Quê
hương bên ấy chiều xanh khói / Sẽ thấy bà con nước mắt đầy”... Bài thơ cũng
nói rất rõ là cô cứu thương người Pháp bị Vệ Quốc đoàn bắt, nhưng rồi cô bị
giết bởi đạn ca-nông của chính bọn Pháp, nên sự căm hờn càng nhân lên, sức tố
cáo chiến tranh càng nhân lên bởi chính bọn xâm lược cũng chẳng thiết gì mạng
sống của đồng đội mình: “Bắt em, súng anh
ngừng không bắn / Nhưng súng quân thù lại giết em / Chúng bắn ca-nông vào giữa
trận / Mắt xanh nhắm lại xác nằm im”... Sau trận đánh, các chiến sĩ Việt
Minh đã đắp cho cô gái Pháp nấm mộ đàng hoàng nơi chiến khu: “Rằng các anh là Vệ quốc đoàn / Chiều nay
thắng trận tiếng hò vang / Em được đắp dày ngôi mộ mới / Anh ngừng tay cuốc:
giận... buồn...thương...”. Đó là tình cảm quốc tế rộng lớn của người chiến
sĩ Vệ Quốc đoàn! Bài thơ đã được nhà văn Nguyễn Khắc Thứ (người nổi tiếng với
ký sự Trận Thanh Hương) dịch ra tiếng Pháp gửi cho những người lính hàng binh
com-măng-do đọc trong thời gian đó. Không khí bài thơ trầm lắng, buồn thương
nhờ sự xoáy sâu, khai thác những hình ảnh của người con gái trẻ bị chết trên
chiến trường Việt Nam với người mẹ, người yêu, em thơ ... đang buồn đau ở làng
quê nước Pháp xa xôi: “Con mẹ từ nay lấp
bụi đường..”.; “Em thơ ngơ ngác ngùi thương chị / Chim ở quanh vườn thôi hát ca...”.
Bài thơ làm cho Văn Tôn nổi
tiếng trong làng văn nghệ kháng chiến Liên khu IV lúc đó, đồng thời cũng gây
nên rắc rối cho ông. Dù không được in sách báo nào, nhưng một số vị lãnh đạo
cực đoan lúc đó cho rằng “quan điểm địch,
ta trong bài thơ không rõ ràng”! Bài thơ bị “đua lên bàn mổ“, phê phán gay
gắt trong các cuộc chỉnh quân, đặc biệt tại Hội nghị ba tỉnh Bình Trị Thiên ở
Cùa theo chỉ thị “Nâng cao lập trường
giap cấp, xác định rõ bạn thù, tăng cường tính chiến đấu trong sáng tác”.
Tác giả bị kiểm thảo vì đã “thương xót kẻ
thù”. Sinh thời, nhà thơ Hải Bằng kể: ”Trong
những ngày chỉnh quân, bài thơ “Em nữ cứu thương người Pháp bị quy kết là “không
biết căm thù giặc” và “thương vay khóc mướn”.v.v.. Có ý kiến phản đối kịch liệt,
nhưng cũng có ý kiến bênh vực. Những rồi người ta vẫn đọc và vẫn ngâm cho nhau
nghe...“. Vì thế bài thơ hay nổi tiếng ấy đã không được vào các tuyển tập
thơ kháng chiến, nên các thế hệ trẻ sau này không được đọc. Sau năm 1975, đất
nước thống nhất, trở về Huế, những năm cuối đời nhà thơ Hải Bằng in tới thơ 13
tập thơ, nhưng không hiểu sao ông không đưa bài thơ ấy vào tập thơ nào cả! Có
lẽ ông sợ lại bị “kiểm điểm“ lần nữa chăng? Hay ông tin chẳng cần in bài thơ
vẫn sống trong lòng người chiến sĩ?
Nhưng rất nhiều cựu chiến binh
và nhân dân thời chống Pháp ở chiến trường Bình Trị Thiên, đặc biệt là vùng Cam
Lộ, Do Linh đến nay vẫn thuộc bài thơ. Sinh thời nhà thơ Hải Bằng thường nhắc
lại một kỷ niệm, năm 1975 khi miền Nam giải phóng, ông trở lại vùng Cam Lộ thăm
lại nơi chiến đấu xưa, thì gặp chị Nậy, một cô thiếu xữ trẻ xưa kia nay đã già
và bị mù do bom đạn Mỹ. Nhà thơ cầm tay chị và khi nói mình tên và Văn Tôn, thì
chị Nậy òa khóc, rồi sau đó đọc thuộc lòng bài thơ “Em nữ cứu thương người Pháp”! Trong một đặc san kỷ niệm ngày
thành lập ngày cựu chiến binh Việt Nam của Hội Cựu chiến binh Quảng Trị gần
đây, đã chép trong trí nhớ để in lại bài thơ đó, nhờ đó chúng ta mới được đọc
trọn vẹn bài thơ này.
Mới hay, khi thơ ca đã vào lòng
người, thì không cần giấy trắng mực đen, nó vẫn sống mãi với thời gian!
EM NỮ CỨU THƯƠNG NGƯỜI PHÁP
Chiều nay tiếng súng anh ngừng nổ
Thấy xác em nằm giữa cỏ tranh
Anh đắp cho em mền trấn thủ
Còn đâu nhìn thấy mắt xanh xanh
Bên xác còn nguyên tờ giấy mỏng
Ngậm ngùi anh nhặt đọc dòng thư
Thư buồn, mẹ nhắn con về nước
Anh biết nhà em cũng xác xơ
Chúng bắt em đi xa đất nước
Bỏ nhà, lìa mẹ, cách em thơ
Qua đây giày xéo quê hương bạn
Nhà cửa tan tành ngọn cỏ khô !
Qua đây em nhớ nhà không nhỉ ?
Thao thức đêm dài mẹ nhớ con
Thôi chiều nay hết - em đi biệt
Tiếc nuối thương đời nữ cứu thương !
Em ở mấy mùa trên đất Việt
Những ngày hôm trước biết gì không ?
Tin rằng độ ấy em không biết
Nếu biết giờ đây đỡ lạnh lùng...
Bắt em, súng anh ngừng không bắn
Nhưng súng quân thù lại giết em
Chúng bắn ca-nông vào giữa trận
Mắt xanh nhắm lại, xác nắm im...
Anh giận đời em đi lạc hướng
Tội em theo bước bọn thù chung
Băng bó vết thương cho lũ giặc
Bạn em còn sống biết hay không ?
Em chết, chiều nay chết ở đây
Mẹ đâu thấy bóng buổi sau này
Quê hương bên ấy chiều xanh khói
Sẽ thấy bà con nước mắt đầy
Em chết, bàn tay vây máu đỏ
Tin về bên ấy lạnh lùng chưa !
Buổi mai tuyết phủ dồn trên mái
Có bóng người yêu lỡ hẹn hò
Mẹ bước vào sâu trong phòng lạnh
Bàn tay ôm lấy một vòng hoa
Em thơ ngơ ngác ngùi thương chị
Chim ở quanh vuờn thôi hát ca...
Từ độ em đi cho đến nay
Pa-ri vùng dậy biết bao ngày
Biểu tình chống giặc bắt đi lính
Đỡ khổ làng anh máu nhuộm đầy
Rằng các anh là Vệ quốc đoàn
Chiều nay thắng trận tiếng hò vang
Em được đắp dày ngôi mộ mới
Anh ngừng tay cuốc : giận... buồn... thương...
Thôi em nằm đó anh đi trận
Giết kẻ thù chung cướp nước anh
Đem lại ngày mai hai dân tộc
Tình thương hứa hẹn một bình minh.
1952
****
VĂN TÔN (HẢI BẰNG)
*.
NGÔ MINH
Quê quán: Làng Thượng Luật, xã Ngư Thủy,.
huyện Lệ
Thủy, tỉnh Quảng Bình.
Thường trú (và mất): thành phố Huế.
.............................................................................................................
- Cập nhật
từ email: tranchicuong27@yahoo.com.vn gửi ngày 15.12.2020.
- Bài viết
không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng
ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét