MỘT NGUYỄN CAO KỲ
THÔNG MINH
Anh trai cả của tôi sinh năm
1927, lớn hơn ông Nguyễn Cao Kỳ 3 tuổi nên thuộc lớp người cùng thế hệ, lớp
trên - lớp dưới. Thuở nhỏ anh đi học tận Sơn Tây cũng nổi tiếng là học giỏi và
biết nhiều chuyện. Cho nên, từ lúc còn học lớp “vỡ lòng”, tôi thường được anh
kể nhiều chuyện trong Tam quốc, Tây du kí… và cả chuyện ông Nguyễn Cao Kỳ thời
đi học. Anh nói: “Kỳ nó thông minh, nhanh
nhẹn, ít nói và được bạn bè yêu mến”. Tôi tròn mắt hỏi: “Sao anh lại khen giặc”. Anh tôi nhẹ
nhàng: “Kỳ không phải là giặc mà là đi
lính cho giặc. Mà đi lính thì có thể là bị bắt lính, hoặc vì quá nghèo… Giặc là
bọn từ ngoài đến cướp nước ta”. Tôi mơ hồ hiểu một số khái niệm từ đó.
Tôi là đứa trẻ biết nhiều chuyện
vì anh tôi “kích cầu” bằng cách kể chuyện để chúng tôi ngồi bóc thầu dầu giúp
anh đạt chỉ tiêu khoán của hợp tác xã vào những đêm sáng trăng. Ngày ấy, quê
tôi có hai vùng bãi rộng. Sau mỗi mùa nước lên, thầu dầu (tiếng địa phương gọi
là cây hột) mọc ngập mặt đất. Bây giờ thì loại cây này không còn, chỉ còn trong
kí ức của lớp người như chúng tôi. Nhưng những lời kể của anh ngày ấy đã tạo ra
cho tôi một “khung hình” về Nguyễn Cao Kỳ khi được nghe tận tai những câu
chuyện liên quan đến ông.
Tôi nhớ lại, vào quãng
2003-2004, tôi thường có những chuyến đi dạy vào phía Nam. Thời đó là thời phát
triển của đào tạo Văn bằng 2 và Đại học từ xa nên cán bộ giảng dạy được huy
động hết công suất. Tôi là một số ít cán bộ trong ngành tham gia tích cực cho
các đơn vị bạn theo lời mời. Một lần dạy ở Phan Rang, các học trò hỏi: “Ngày chủ nhật, thầy muốn khám phá gì thêm ở
mảnh đất này không ạ?”. Tôi nói: “Theo
tôi biết, Phan Rang có Tháp Chàm và cũng là quê hương Nguyễn Văn Thiệu. Tôi
muốn được đến hai nơi đó, nếu không làm phiền tới các bạn”. Khỏi nói, “các bạn” đang học tôi là giáo viên và
cán bộ chủ chốt của tỉnh, họ rất quí mến các thầy từ Bắc vào. Khi biết tôi là
nhà văn, họ lại càng mở lòng. Thế nên, tôi được dành một buổi đến tận nhà ông
Nguyễn Văn Thiệu. Thời đó, cán bộ chưa có xe ô tô riêng như bây giờ. Các học
viên đưa tôi đi bằng xe máy trên đoạn đường gần 40 km từ nơi ở đến quê ông
Thiệu. Nhà ông ở ngay sát biển. Quả thực, lúc đến. tôi rất bất ngờ vì khi đọc
sách báo, tôi không thể hình dung, tư dinh của một vị Tổng thống có tiếng là
tạo ra một chế độ tham nhũng lại khiêm tốn, đơn sơ đến như vây.
Tôi nói chuyện rất lâu với một
bà cụ gần 90 tuổi, lúc đó là chủ nhân của ngôi nhà. Bà nói bà có họ hàng xa với
chủ nhân. Tôi hỏi khá kĩ về nhiều chuyện. Đại để khi làm tổng thống, ông Thiệu
có hay về đây không? Về vào dịp nào? Đi với những ai?... Bà cụ nằm đung đưa
trên chiếc vòng gai được mắc trên hai cái khuy lớn mắc chéo qua hai góc tường.
Bà cụ bảo: “Từ ngày ông ấy làm vua, căn
nhà của cha ông ấy vẫn giữ nguyên như cũ, không sửa sang gì?” Tôi đi một
vòng trong nhà rồi qua phía sau. Từ đây có thể nhìn xuống vụng biển, nơi lơ thơ
vài chiếc thuyền neo đậu. Vườn không rộng, chỉ khoảng vài trăm mét vuông, để
hoang, chỉ có vài cây dừa già nua trong gió, còn lại là cát. Khi ông Thiệu đã
di tản, ngôi vườn nom rất tiêu điều, chỉ có nắng chói chang soi trên nền cát,
với một vài đám cỏ lơ thơ. Tôi có cảm giác nơi đây giống một xóm chài mới ăn
nên làm ra vì nhà cửa xung quanh chỉ có một tầng. Lối vào nhà ông Thiệu chỉ vừa
đủ hai xe máy tránh nhau. Bà cụ cho biết, mỗi lần quan quân của “vua” về đều phải để xe ở ngoài, để đi bộ
vào.
Tôi rất lạ vì sao bà cụ không
gọi ông Thiệu là tổng thống mà gọi là vua, mặc dù ngôn ngữ hiện đại, từ này đã
bị vứt bỏ lâu rồi? Nhưng bà cụ hồn nhiên, vẫn coi ông Thiệu như một đỉnh cao
mang tính trường tồn trong lòng bà. Bà cụ nói, ông Thiệu năm nào cũng về thắp
hương vào các dịp giỗ tết. Đi cùng thường có các vị tướng và các bộ trưởng. Tôi
hỏi: “Họ đông không cụ?” Bà cụ bảo:
Thường thì vài chục, đông nhất là gần trăm. “Thế họ ăn uống ở đâu ạ? Chật thế này làm sao đủ chỗ kê bàn?”. Bà cụ
cười: “Làm gì có bàn. Họ chải chiếu trong
nhà và sân và ngồi ăn với nhau thôi”. Nghe xong tôi cứ tròn xoe mắt và nhìn
quanh.
Ngôi nhà của cha ông Thiệu là
một ngôi nhà mái bằng một tầng, duy nhất chỉ có một phòng lớn rộng chừng vài
chục mét vuông, lát gạch cũ kĩ, mỗi chiều 20 phân. Còn phía sau chỉ có một
phòng xép làm nhà bếp. Vậy, mỗi khi về quê, ông Thiệu nghỉ ở đâu? Giải đáp thắc
mắc của tôi, bà cụ nói, ông Thiệu còn có một nhà riêng hai tầng ngoài bờ biển.
Đó là nơi, vợ chồng ông Thiệu nghỉ lại đêm. Tôi hỏi, ông Nguyễn Cao Kỳ có hay
về cùng ông Thiệu không? Bà cụ gật đầu. Bà nói, mỗi lần về, ngoài ăn uống họ
còn tranh cãi nhau nhiều chuyện. Ví dụ chuyện người Hoa … Có lần mấy ổng còn
nói, “người Hoa thì chỉ có anh Kỳ mới trị
được”.
Tôi không rõ ngày ấy bà cụ nghe
lỏm được hay nghe người khác kể lại, nhưng theo bà cụ thì người Hoa ở miền Nam
lúc ấy giàu lắm. Họ có thể làm tất cả chuyện gì họ muốn. Sau này, đọc báo chí,
tôi mới hiểu thêm, ông Nguyễn Cao Kỳ là một người rất thông minh như lời anh tôi
đánh giá lúc tôi còn nhỏ qua các câu chuyện kể. Tiêu biếu nhất là vụ “Bốc
thăm tử hình”, một cách làm quái kiệt của một người có vai trò trị
quốc.
Chuyện kể rằng, vào những năm
đỉnh điểm của cuộc chiến, giá gạo luôn thăng giáng bởi giới tài phiệt người Hoa.
Có thời cao điểm, giá đã lên 6,7 đồng/ kg khiến cho xã hội chao đảo. Sau khi
cho tìm hiểu và nghiên cứu, với tư cách Thủ tướng (ông làm Thủ tướng giai đoạn
1965- 1967) ông Kỳ cho gọi 7 nhà tài Phiệt lớn nhất trong giời người Hoa chuyên
buôn bán gạo, lên gặp. Ông nói: “Giá gạo
lên là do các anh lũng đoạn. Bây giờ các anh hãy ghi tên mình vào tờ giấy này.
Tôi hẹn một tuần, nếu giá gạo không xuống các anh sẽ lại đây bốc thăm. Ai bốc
trúng tôi bắn người đó”. Bảy vị tài phiệt cứ nghĩ là ông dọa, ai ngờ ông Kỳ
làm thật. Đúng ngày thử bảy, họ đã có mặt. Người bốc thăm trúng án tử là Tạ
Vinh. Ông Kỳ cho bắt ngay và tuyên sẽ bắn. Lúc đó, cả Hội người Hoa mới nháo
nhào. Ngày 6/3/1966, Tòa án Quân sự mở phiên xét xử khẩn cấp rồi kết án tử hình
Tạ Vinh mà không cho luật sư bào chữa. Khi báo chí đưa tin, 5 vị thủ lĩnh đứng
đầu người Hoa ở Chợ Lớn liền họp bàn, tìm cách giải cứu. Trước mắt, họ hạ thấp
giá gạo xuống 4 đồng / kg. Sau đó họ tổ chức móc nối để đưa tiền hối lộ nhằm
cứu Tạ Vinh thoát chết. Huy động tiền gom góp tới 2 triệu đồng, họ giao cho một
nhân vật giàu kinh nghiệm hối lộ nhất là Lý Long Thân để gặp Nguyễn Cao Kỳ
nhưng ông từ chối thẳng thừng và nói “Hại
dân tôi bắn bỏ”. Cách nói kiểu lính tráng và cách làm của của ông Kỳ khiến
nhiều nhà báo coi ông là tướng cao bồi. Nhưng xét ở góc độ trị quốc, ông là một
người thông minh đầy mưu lược. Câu chuyện na ná kiểu Tào Tháo chém chết tên
lính quân lương trong truyện Tam quốc.
Là một nhà văn, tôi từng ôm ấp
viết về cuộc chiến đã qua ở tầm vĩ mô có liên quan đến các nhân vật cao nhất từ
hai phía. Nhưng đó chỉ là ước mở vì đã ngoài bảy mươi mà đó vẫn chỉ là dự định.
Tuy nhiên, với những tư liệu mà tôi tiếp xúc và trực tiếp trải nghiệm, tôi muốn
viết lại vài ba ý để bạn đọc có thể tham khảo, nhất là những người làm công tác
sáng tạo nghệ thuật, ngõ hầu khi dựng lại cuộc đời của các nhân vật này có thể
tái hiện lại đúng tính cách và con người của họ. Trong mắt tôi, ông Nguyễn Cao
Kỳ có lỗi lầm lớn là tham gia như là một trong những người có vai trò chủ chốt
trong chính quyền làm tay sai cho ngoại bang, nhưng ông hoàn toàn không phải là
kẻ vô học và không biết thương dân. Chỉ có điều, ông đã sai trong nhận thức. Có
lẽ, sau nhiều năm chấp chính, ông đã tỉnh ngộ nhận ra bi kịch trong cái chết
của Ngô Đình Diệm nên sau đó ông tham gia trong liên minh ứng của cùng Nguyễn
Văn Thiệu mặc dù ông là một nhân vật có uy tín trong giới quân sự và chính
quyền trong chế độ Sài gòn lúc bấy giờ. Trước khi miền Nam được hoàn giải
phỏng, ông gần như sống ẩn dât trên cao nguyên và không tham gia vào các biến
cố chính trị. Trong con mắt của một vị tướng, khi Sài gòn đang hấp hối, ông vẫn
cho rằng có có thể cứu nguy nếu quân đội được tổ chức lại. Từ cao nguyên ông
lái máy bay về Sài gòn xin gặp ông già Trần Văn Hương là phó Tổng thống chịu trách
nhiệm lãnh đạo chế độ khi ông Nguyễn Văn Thiệu buộc phải từ chức để xin được
chỉ huy quân đội. Nhưng đề nghị của ông không được quan tâm. Cuối cùng, ông
phải chấp nhận làm tướng bại trận và di tản khỏi Nam Việt Nam.
Cho đến lúc này, khi kể lại
chuyến viếng thăm nhà Nguyễn Văn Thiệu, tôi vẫn cứ băn khoăn. Tại sao làm đến
tổng thống mà ông Nguyễn Văn Thiệu không cho xây cất lại nhà thờ - một trong
những việc mà có không ít người có chức quyền vẫn làm một cách hoành tráng,
thậm chí vô cùng hoành tráng? Ông không biết ơn tổ tiên hay ông muốn giữ “liêm
khiết” cho mình? Ấy vậy mà lúc ông rời đi lại có nhiều nguồn tin ông cuỗm đi 14
tấn vàng? Trong rất nhiều năm tôi nghĩ, có vẻ tin đồn này thiếu thuyết phục.
Bởi lúc đó, ông Thiệu không còn có vai trò gì thì làm sao có thể ra lệnh được
cho thân tín vào nơi cất giấu vàng tại nhà băng? Hơn nữa, bộ máy chính quyền
lúc ấy chưa tan rã mà vẫn hoạt động. Làm sao họ có thể cho ông Thiệu cướp đi
ngân khố của một quốc gia một cách dễ dàng ???
Nếu có một cuốn tiểu thuyết nào
viết về ông và Nguyễn Cao Kỳ - những nhân vật chóp bu của một chế độ phụ thuộc
ngoại bang, có lẽ đây là chỗ khó lí giải nhất khi khai thác tâm tư và hành động
của các nhân vật này mà nhiều nguồn tin đã có chưa đủ để tạo ra hình hài thật
của họ!
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Ông Phan Văn
Khải như tôi đã biếtl
- Văn Cao một đời
tài hoa nhưng đau đớnl
- Hoàng Văn Hoan
và những bước đi của Bắc Kinhl
- Cần hiểu đúng
Nguyễn Bỉnh Khiêm và vương triều Mạcl
- Phan Châu Trinh
và cuộc ly khai văn hóa Hán tộcl
- Pham Quỳnh nhà
trí thức dân gianl
- Phạm Quỳnh sự
nghiệp và số phậnl
- Cái chết của hùm
thiêng Yên Thếl
- Tây Sơn có phá
mồ các chúa Nguyễnl
Mời
nghe Khề Khà Truyện đọc truyện ngắn
CHUYỆN CỦA GÃ KHỜ của Đặng Xuân Xuyến:
Đặng Xuân Xuyến giới thiệu
Ảnh minh họa sưu tầm
từ nguồn: internet
Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.
0 comments:
Đăng nhận xét