MỘT SỐ HIỆN TƯỢNG
THƠ ‘HIỆN ĐẠI’
Đặng Đình
Hưng với các tập thơ "Bến lạ"
(1991), "Ô Mai" (1992) là một hiện tượng thơ lạ và đơn độc.Ông tham
gia nhóm "Nhân văn- Giai phẩm"(1956-1959) rồi âm thầm sống và sáng
tác bên lề đời sống văn học cách mạng.
Thơ ông là
lời độc thoại nội tâm khó lòng chia sẻ, là cái gì đó rời rã, rối bời, bấn loạn,
rất khó nhập cảm. "Bến lạ"
và "Ô Mai" được viết
dưới hình thức thơ văn xuôi, phi logic, về chính tả thì viết d thành z, gi
thành j… một cách lập dị. Người đọc thông thường dễ bỏ qua thơ ông như gặp một
con người lẩn thẩn đang nói những lời dấp dính, lưng chừng, ngây dại:
"Tôi lại đi
Zưới cái nong hình záng lưng tôi, một bảng đen trước
mặt, một vòng phần zưới chân, zính zính những con số 8 lộn zọc nhẵn thín nam
châm gói trong hạt jống của không biết".
(Bến lạ)
Sẽ có rất
nhiều cách hiểu khác nhau về đoạn thơ này. Phải chăng đây là ẩn dụ về trạng
thái tù túng, giam hãm, cô đơn và bất lực đến cùng cực.
Cô đơn một
cách tuyệt đối giữa cuộc sống xô bồ là trạng thái thường gặp trong thơ Đặng
Đình Hưng:
"Chui lên khỏi hầm, ngồi đối diện với người
đời sống động, mà anh vẫn thấy cách ly như thể ngồi trong một cái lồng trong
suốt bằng không khí, việc người người làm, việc mình mình làm. Người đời thấy
buồn cười - không chấp - người ta quen dần đi, rồi quên".
(Ô Mai)
Thơ Đặng
Đình Hưng thường sử dụng yếu tố cảm giác nhưng đó là cảm giác giống như của một
người trong trạng thái ốm nặng:
"Vắng. Anh thường ngồi jờ zài chẳng nghĩ. Chỉ
cảm. Cảm bằng za. Za của mắt - bàn tay - chủ yếu là lưng - tới mức toàn thân
gắn hẳn vào không khí, đồ vật, tường, buồng. Rì rầm một cái chợ không lời ở
zưới chân, anh rì rầm vỗ theo".
(Ô Mai)
Cảm giác
trong thơ Đặng Đình Hưng khá đa dạng: Từ cảm giác bản năng thường tình “ăn -
gắp - xin tí tương zấm”, “thèm bé - bé một mùi hương tóc”, đến những cảm giác
khá nên thơ:
"Gạo có khuôn mặt. Đố thấy một mảy may ác ý.
Nói riêng về nếp, với cái mùa chớm sương, chỉ nom hình một hạt nếp đã thấy sữa
và hương trời".
(Ô Mai)
Một người
làm thơ khác giống trường hợp Đặng Đình Hưng là Lê Đạt.Thơ Lê Đạt nổi bật ở
khía cạnh kĩ thuật ngôn từ. Ông tư duy thơ theo hướng “làm chữ”. Với quan niệm
“chữ bầu lên nhà thơ” (E. Gabex) và nhà thơ “phu chữ”, ông quan tâm đến khâu
luyện chữ sao cho nó có tính chất đa nghĩa và thú vị ở mặt ngữ âm. Lê Đạt quan
niệm: “Câu thơ mang nặng lịch sử chữ” theo nguyên lý liên văn bản. Ở phần thành
công ,thơ ông có vẻ độc đáo, vừa cổ điển vừa hiện đại:
"Anh đến thu nhà em
Nắng cúc lăm răm vũng nhỏ
Mà cho đấy rửa lồng mày
Nên nỗi heo may từ đó"
(Thu nhà em)
Một đàn ngày trắng phau phau
Bì bạch bờ xoan nước mát
(Thủy lợi)
Thấp thoáng
phía sau là ca dao, tục ngữ, câu đố, thơ cổ điển…
Lê Đạt chơi
chữ một mình một kiểu. Có khi ông chơi ngữ âm:
Mimoza chiều
khép cánh mi môi xa
Khi nội dung
trữ tình hòa nhập với nghệ thuật ngôn từ, Lê Đạt có những bài thơ vừa có vẻ đẹp
hiện đại, vừa tự nhiên, giàu sức gợi:
Chia xa rồi anh mới thấy em
Như một thời thơ thiếu nhỏ
Em về trắng đầy cong khung nhớ
Mưa mấy mùa
mây mấy độ thu
Vườn thức một mùi hoa đi vắng
Em vẫn đây mà em ở đâu
Chiều Âu lâu
bóng chữ động chân cầu.
(Bóng chữ)
Ông có những
câu thơ mang màu sắc thẩm mỹ khác với thơ truyền thống:
Tóc trắng tầm xanh qua cầu với gió
Đùi bãi ngô non ngo ngó sông đầy
Cây gạo già
lời tình
lên hiệu đỏ
La lả cành
cởi thắm để hoa bay
(Quan họ)
Nhưng khi Lê
Đạt lộ rõ dấu vết đẽo gọt ngôn từ của người “phu chữ” thì thơ ông thường sa vào
gò ép, cầu kỳ.
Trong xu
hướng thơ hiện đại người có tiềm năng sáng tạo hơn cả trong các tác giả trẻ là
Nguyễn Quang Thiều. Ở anh tư duy liên tưởng rất mạnh mẽ và phóng khoáng. Thơ
Nguyễn Quang Thiều sử dụng nhiều ẩn dụ có sức biểu đạt, gây ấn tượng mạnh:
Bầy chó gầy bẩn thỉu ốm đau
Ngày lùng sục kiếm ăn
Liếm cả vào lưỡi dao sắc nhọn
Con đến sau lại liếm máu bầy mình
(Bầy chó của
tôi)
Đôi khi hình
tượng thơ Nguyễn Quang Thiều được xây dựng từ một liên tưởng thị giác, vượt
khỏi cái nhìn quen thuộc. Nhà thơ nhìn thấy ở những người đàn bà gánh nước sông
một hình tượng kỳ vĩ:
Một bàn tay họ bám vào đòn gánh bé bỏng chơi vơi
Bàn tay kia bấu vào mây trắng
(Những người
đàn bà gánh nước sông)
Cũng là thủ
pháp nhân hóa nhưng Nguyễn Quang Thiều có những hình ảnh thơ lạ:
Những trái cây chín mê ngủ tuột khỏi cành rơi xuống
Những cánh buồm khổ đau tự xé, tự vá lại mình
Sông gục vào bờ đất lần đi
Nhưng phổ
biến hơn cả trong thơ Nguyễn Quang Thiều là cái lạ của tư duy thơ siêu thực.
Trong thơ anh, lạ hóa trở thành hình thức biểu đạt chính:
Tôi bay qua những cánh đồng mùa xuân còn ngái ngủ
Qua những ngôi sao mở mắt nhưng lưỡi còn chưa mọc
Tôi gặp dơi của bình minh, sơn ca của bóng tối
Những ngôi mộ của tổ tiên hắt sáng gọi tôi về.
Thơ Nguyễn
Quang Thiều mang cảm xúc của con người hiện đại, dị ứng với mặt trái của văn
minh đô thị:
Họ chạy trốn những khách sạn cửa đóng mở không lý do
Vừa chạy họ vừa ngước lên những chòm cây chật vật
đâm chồi
Ngước lên bầy chim cánh chập choạng hát bài ca kiên
nhẫn
Ngước lên những đám mây trĩu ngực vì bụi cố bò qua
cơn dị ứng
của thời tiết vô luân
(Lời cầu
nguyện)
Làng quê trở
thành miền thiêng trong thơ Nguyễn Quang Thiều. Nơi đó có khả năng tái sinh đời
sống tinh thần của con người. Chính vì vậy làng quê trong thơ anh như được nhìn
qua cảm giác tôn giáo hóa. Đồng thời làng quê cũng là nơi con người còn phải
sống trong đói nghèo, lạc hậu, vất vả, khổ đau. Ám ảnh người đọc là hình ảnh
bàn chân biến dạng của những người phụ nữ thôn quê:
Những bàn
chân xương xẩu ngón dài
Và đen tỏa
ra như ngón chân gà mái
Đã mười lăm
năm và nửa đời tôi nhìn thấy
Những người
đàn bà gánh nước sông
(Những người
đàn bà gánh nước sông)
Đọc thơ
Nguyễn Quang Thiều nhiều lúc có cảm giác như đứng trước một dòng suối ngôn từ
đang tuôn chảy. Khi ấy thơ anh ồn ào, rườm rà chi tiết, thiếu sự cô đọng cần
thiết của ngôn ngữ thơ. Có người nói thơ anh giống thơ Beat (Mỹ), lại có người
bảo giống thơ J. Brodsky (nhà thơ Mỹ gốc Nga). Nhưng nhìn chung Nguyễn Quang
Thiều là một nhà thơ trẻ giàu tiềm năng sáng tạo theo hướng hiện đại hóa.
Cần chỉ ra
một sự thật là trong đa số trường hợp những bài thơ, câu thơ hay của các tác
giả theo xu hướng “thơ hiện đại” đều có thể hiểu, chỉ sử dụng những yếu tố của
chủ nghĩa hiện đại. Nhưng khi họ sáng tác theo chủ nghĩa hiện đại thì thơ lại
chưa đủ sức thuyết phục. Đây là một đoạn trong tập thơ "Bến lạ" của Đặng Đình Hưng được
Hoàng Hưng xem là “đúng với thơ hiện đại
đang đến”: “Tôi khắc biết mênh mông
của cái bẹn Epicure ngập chìa truồng bốn phía cơn mưa tú lơ khơ xanh đỏ con sập
sành - bọ ngựa bám vào nhảy lung tung - cõng đi chơi trên lưng ni lông - các
tông của định mệnh”. Thậm chí Hoàng Hưng còn cho rằng những câu thơ kiểu
này mang bản sắc dân tộc:
“Bản sắc Việt Nam của Bến lạ ở cú pháp không
duy lý, nhưng kết hợp trong đó chức năng các chữ lẫn vào nhau tạo thành một
trường đa tương tác gây nên tính đa nghĩa của câu thơ:
Một nong nghiêng cơn mưa trên lưng Alfa cõng tôi
Bản sắc việt Nam ở những kết cấu đặc biệt của tiếng
Việt dùng sáng tạo bất ngờ: “tôi quên là tôi quên hết” “mỗi ăn xong lại một rửa
mồm”(1).
Thực chất
đây là “nói lấy được”, lý luận thì lớn lao, to tát nhưng cách quá xa thực tiễn
sáng tác. Trong bài viết "Từ Thơ
mới đến thơ hiện đại" cổ vũ cho thơ hiện đại, Phạm Xuân Nguyên
trích hai bài thơ của một tác giả (giấu tên), “đã sáng tác dư nghìn bài chưa công bố” và cũng cho đó là “đúng với thơ hiện đại đang đến”:
- Thơ là cái thơ của nó
Dắt có tìm không
Biến không thành có
Lên chưa xuống đã
- Thơ nằm dài ngoài trí tuệ
Thơ nằm dài ngoài vũ trụ
Gối đầu lên trái đất
Ta nằm dài ngoài thơ
Gối đầu lên tất tật làm thơ
Hiện đại hóa
là khát vọng của các nhà thơ và bạn đọc đang chờ đợi nhưng thật khó chấp nhận
những bài trên đây là thơ mà nền thơ Việt Nam Đổi mới đang cần phải vươn tới.
Một số tác
giả thơ theo xu hướng hiện đại chủ nghĩa cả trong lý luận lẫn sáng tác đều lấy
điểm tựa ở lý thuyết phân tâm học. Điều đáng nói là đôi khi những người này đã
hiểu sai S. Freud khi cho rằng thơ là sản phẩm “vụt hiện” từ bản năng. Nhiều
bài thơ nói về tính dục một cách thô thiển:
Nghe lênh láng trời trăng hỏa tinh
Mùi gạch non, một mùi nách đàn bà
(Dương
Tường)
Thơ Hoàng
Hưng nói đến “đờn dãi”, “thịt da”, “tinh khí”, “giao hợp”...
một cách tự nhiên chủ nghĩa:
- Khăn trải giường nhạt nhẽo, buồn nôn
- Người đàn bà hồi xuân trong căn phòng yếm khí
Làm sao tới
Niết bàn trên cái bụng nhà nghề?
- Bạn ơi giao hợp nơi đâu
Về đây gác tối sắc màu đu đưa.
Nếu tác giả
này áp dụng thuyết phục dục vọng thăng hoa của Freud thì nó đã bị hiểu một cách
thô thiển. Theo Freud dục vọng tính dục đã thăng hoa, cải biến thành những tình
cảm, tư tưởng cao đẹp trong văn học chứ không phải “vụt hiện” trực tiếp như
vậy.
Lý luận và
sáng tác của các nhà thơ "hiện đại" thông báo sự tìm tòi của họ là
theo hướng tượng trưng, siêu thực, hiện sinh và hậu hiện đại. Mọi khuynh hướng
tìm tòi cần phải được tôn trọng. Nhưng cũng nên thấy rằng mỗi phương pháp chỉ
có những tiềm năng thẩm mỹ nhất định. Một khía cạnh khác là vấn đề tài năng. Xu
hướng nào cũng cần tài năng. Thành tựu của xu hướng thơ này còn ít ỏi là do tài
năng chưa kịp khát vọng chăng?
Gần đây
trong lý luận và nghiên cứu văn học xuất hiện khái niệm hậu hiện đại.Về nội hàm
khái niệm này nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Dân cho rằng:
“Chủ nghĩa hậu hiện đại trong nghệ thuật là một
thuật ngữ bao quát được nhiều người dùng để chỉ các xu hướng văn học nghệ thuật
khác nhau về đặc tính nghệ thuật nhưng giống nhau về cách tính thời gian tức là
được dùng để chỉ các xu hướng văn học nghệ thuật xuất hiện ở nửa sau thế kỷ XX,
sau thời kỳ của chủ nghĩa hiện đại và chúng cũng có xu hướng tìm tòi đổi mới,
thậm chí đổi mới đến mức cực đoan, đến mức siêu hiện đại… Cho nên có thể nói
chủ nghĩa hậu hiện đại là giai đoạn kịch phát của chủ nghĩa hiện đại là có vẻ
xác đáng và bao quát hơn cả”.
Một số nhà
nghiên cứu văn học người Việt ở nước ngoài như Đặng Tiến, Nguyễn Hưng Quốc… đã
hình dung văn học Việt Nam phải phát triển theo mô hình phương Tây, tiến tới
hậu hiện đại. Với nhãn quan đó họ chỉ thấy thơ Việt Nam đương đại như một sa
mạc “thỉnh thoảng nổi lên mấy ốc đảo”
như Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Hoàng Hưng… là những nhà thơ hiện đại và hậu hiện
đại. Nếu ở phương Tây trường phái thơ hậu hiện đại đang ngự trị thật thì cũng
không nên đổ xô tất cả vào trường phái này vì bản chất của một nền thơ phát
triển là đan xen, song song tồn tại nhiều xu hướng làm nên sự phong phú, đa
sắc. Chỗ nhầm lẫn hoặc cố tình lặp lờ, không minh bạch của nhiều người theo xu
hướng sáng tác này là đồng nhất chủ nghĩa hiện đại và hậu hiện đại với bước
tiến bộ cao nhất của văn học thế giới ngày nay. Nếu không cố tình thì đó cũng
là ngộ nhận. Chủ nghĩa hiện đại và hậu hiện đại có đem đến những đổi mới trong
văn học, nhưng không thể chối cãi rằng chúng cũng đem đến cả sự suy đồi. Ngay ở
phương Tây các trí thức lớn đã và đang nghi ngờ ý đồ tư tưởng hệ của chủ nghĩa
hậu hiện đại nhất là của Jean Francois Lyotard và Baudrillard. Nhà phê bình Mỹ
Fredric Jameson đã gọi lý thuyết về hậu hiện đại là “logic văn hóa của chủ
nghĩa tư bản muộn” và coi đó là “kẻ thông
đồng với giới cầm quyền để giúp giới này duy trì hiện trạng chính trị… làm cho
con người thờ ơ trước cảnh hỗn loạn chính trị và trước sự mất mát đau buồn của
nhân loại”.
Những tìm
tòi đổi mới đang đặt lại vấn đề bản chất thơ là gì và hướng phát triển của thơ
Việt Nam đương đại.Bản chất thơ đã được xem xét từ nhiều mặt. Trên bình diện
mục đích sáng tạo “Thơ là giải thoát”
(Geothe). Nó thỏa mãn nhu cầu chia sẻ tư tưởng, tình cảm, cảm xúc thẩm mỹ. Trên
bình diện xã hội thơ là một hình thức giao tiếp, là công cụ nhận thức đặc biệt.
Trên bình diện văn bản, thơ là nghệ thuật ngôn từ mà nổi bật là cấu trúc ngôn
ngữ theo nguyên tắc lạ hóa. Từ góc độ sinh thành của thơ có vai trò nhất định
của vô thức, tiềm thức, bản năng. Thơ là sáng tạo, không ngừng mở rộng, khám
phá chân trời mới. “Có những nhà thơ làm
thơ. Có những nhà thơ vừa làm thơ vừa đẩy lịch sử thơ ca duy tân thêm một bước”
(Chế Lan Viên). Mọi khuynh hướng tìm tòi đều đáng được quan tâm, cổ vũ nếu thực
sự vì thơ. Cũng cần thấy rằng xu hướng thơ hiện đại chủ nghĩa hôm nay còn mang
nặng những biểu hiện hình thức, cực đoan, dung tục. Đa số các nhà nghiên cứu
nghiêng về ý nên xem nó là một trong những hướng mở của thơ Việt Nam hôm nay.
Vấn đề trở
nên phức tạp khi nhiều nhà thơ theo xu hướng này nhất quyết rằng đó là hướng
đổi mới duy nhất hợp quy luật phát triển của thơ ca nhân loại và biểu dương một
cách thiếu thuyết phục những bài thơ, câu thơ khó chấp nhận về mặt thẩm mỹ.
Thậm chí có người còn mang tham vọng “đổi gác” cho cả nền thơ. Thường thì cực
đoan này sẽ gặp cực đoan khác. Những ý kiến phủ nhận, chế giễu cay độc có thể
gặp ở đây đó cũng là điều dẽ hiểu. Cần thấy xu hướng thơ này không còn mới nữa
về mặt lịch sử, tiềm năng thẩm mỹ của nó cũng có những nhạn chế, nếu đẩy đến
cực đoan sẽ gặp nguy cơ phi giao tiếp.
Xuất phát từ
chỗ xem dân chủ xã hội và tự do sáng tác là điều kiện tiên quyết để có một nền
thơ phát triển phong phú, đa dạng, chúng tôi thừa nhận quyền tồn tại bình đẳng
của các xu hướng sáng tác khác nhau trên thi đàn. Mặc dù vậy theo quan điểm cá
nhân, chúng tôi đánh giá cao những bài thơ sâu sắc về nội dung trong một hình
thức đẹp và đầy tính sáng tạo về nghệ thuật ngôn từ. Khó có thể gọi là tuyệt
tác một bài thơ chỉ thể hiện sự tài khéo về hình thức còn nội dung thì trống
rỗng, vô vị. Nhà thơ lớn xưa nay bên cạnh phẩm chất thiên tài bao giờ cũng là
người có trái tim lớn đạp cùng một nhịp với nhân dân mình trước những vấn đề
của thời đại. Chúng tôi đồng ý với quan điểm của nhà nghiên cứu Nguyễn Văn
Hạnh: “Có nhiều con đường để thể hiện đại
hóa thơ, phát triển thơ. Nhưng con đường có triển vọng nhất là phát huy được
bản chất và chức năng đặc thù của thơ, thể hiện được tinh thần của thời đại và
luôn giữ được mối dây đồng cảm giữa người viết và người đọc”.
------------
(1) Hoàng Hưng, Về bản sắc dân
tộc và thơ hôm nay - Sông Hương (11), Huế, 1994.
*
PHẠM QUỐC CA
Địa chỉ: Đường Lý Nam Đế,
thành phố Đà
Lạt, Lâm Đồng.
.............................................................................................................
-
Cập nhật từ email: huongmai8081@yahoo.com.vn ngày 07.04.2020
-
Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
-
Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét