NGÔN NGỮ THƠ - Tác giả: Phạm Quốc Ca (Lâm Đồng)

Leave a Comment

 

NGÔN NGỮ THƠ

*

Đã có nhiều chuyên luận bàn về ngôn ngữ thơ được xuất bản thành sách. Sau đây là sự hiểu của tôi được trình bày ngắn gọn, xin chia sẻ cùng các bạn.

(Tác giả Phạm Quốc Ca)

Ngôn ngữ thơ có đặc trưng riêng: đó là ngôn ngữ có tính song trùng, vừa là phương tiện, vừa là mục đích. Các nhà hình thức luận Nga cho rằng: “Thơ là ngôn ngữ tự lấy mình làm cứu cánh”… “Thơ là một phát ngôn nhắm vào cách phát biểu” (R.Jacobson).Thơ hay do nhiều nguyên nhân nhưng thể hiện rõ nhất ở tài năng sử dụng ngôn ngữ của nhà thơ. Nó là kết tinh của lao động sáng tạo: 

Phải phí tốn ngàn cân quặng chữ

Để thu về một chữ mà thôi

Nhưng chữ ấy làm cho rung động 

Triệu trái tim trong hàng triệu năm dài

(Maiakovski)

Đỗ Phủ có một châm ngôn mà mọi người làm thơ đều tâm đắc: “Ngữ bất kinh nhân, tử bất hưu” (Lời thơ chưa làm cho người đọc kinh ngạc, thán phục, đến chết chưa thôi lao động sáng tạo). 

Tựu trung ngôn ngữ thơ có một số đặc điểm chính sau đây:

 

1. Tính hàm súc

Hàm súc là súc tích, hàm chứa. Ngôn ngữ thơ phải thật cô đọng, ít lời mà nói được nhiều ý, ý ở ngoài lời, gợi nhiều liên tưởng. Có thể ví công việc làm thơ với việc giải một bài toán tối ưu ,sao cho ít lời mà giá trị biểu hiện được nhiều nhất. Thơ Trung đại phương Đông là mẫu mực cho tính chất hàm súc. Các thể thơ haikư 17 âm tiết, tanka 31 âm tiết (Nhật Bản), tứ tuyệt 20 hoặc 28 âm tiết (Trung Hoa), Ả Rập, Ba Tư cũng có thơ 4 câu. Đó là thể thơ rubai. Thể thơ sijo của Triều Tiên chỉ 3 câu. Thơ dân gian Việt Nam có khi chỉ 2 câu: “Ai về Giồng Dứa qua truông/ Gió đưa bông sậy bỏ buồn cho em”. Nhà thơ Dương Tường từng viết bài thơ một câu: “Tôi đứng về phe nước mắt”. Đó là những thí dụ tiêu biểu cho tính hàm súc của thơ. Thơ hiện đại đã giải phóng cho nhà thơ khỏi những ràng buộc quá chặt chẽ về câu chữ ,niêm luật nhưng mặt trái của nó là dễ sa vào dàn trải, thiếu chắt lọc. Có người nhận xét rằng trong một số bài thơ của Lưu Trọng Lư thời kỳ Thơ mới 1932-1945 có thể bỏ đi một vài khổ thơ mà cũng không ảnh hưởng gì.

Các nhà thơ rất chú ý đến tính hàm ngôn của lời thơ. Lê Đạt đã viết:

Thu nở bầy chim mây vỡ tổ.

Câu thơ này có thể đọc với nhiều phương án ngắt nhịp khác nhau và cho ta những cách hiểu khác nhau.

 

2. Tính đa nghĩa

Tính đa nghĩa của thơ không chỉ do yếu tố chủ quan của người tiếp nhận theo nguyên lý: tác phẩm văn học = văn bản + người đọc. Tính đa nghĩa còn do đặc trưng của ngôn ngữ thơ.Quan điểm của nhà thơ càng kín đáo bao nhiêu càng có lợi cho tác phẩm bấy nhiêu. Đặc trưng của tư tưởng nghệ thuật là toát ra từ hình tượng, tình huống, chi tiết. Chúng kích thích, khêu gợi người đọc để họ tự rút ra một tư tưởng nào đó. Tính mơ hồ, đa nghĩa của ngôn ngữ thơ tạo điều kiện cho người đọc đồng sáng tạo. Tạ Trăn (đời Minh) từng phát biểu: “Thơ có chỗ có thể giải thích, có chỗ không thể giải thích, có chỗ không cần giải thích như hoa dưới nuớc, trăng trong gương. Một nhà thi học đồng thời là nhà thơ là Vương Sĩ Trinh cũng nói: “Thơ khó ở chỗ không giải thích được thì vô vị, giải thích được thì hết vị”. Các nhà thơ trong nhóm Xuân Thu nhã tập quan niệm: “Thơ không phải lúc nào cũng rõ nghĩa vì nó không chủ động trong địa hạt ý nghĩa; không phải lúc nào cũng sáng sủa vì nó không vụ cái phần sáng sủa của tâm linh, nó giữ phần sâu kín, nó giữ phần sâu sắc”. Tính đa nghĩa không phải là dấu hiệu non kém về nghệ thuật mà phải được xem là đặc trưng của ngôn ngữ thơ. Một số hiện tượng thơ đã phải tốn rất nhiều giấy mực để tìm hiểu như "Thề non nước" (Tản Đà), "Tống biệt hành"(Thâm Tâm),"Đây thôn Vĩ Dạ"(Hàn Mặc Từ). Ví dụ khổ thơ cuối trong bài "Tống biệt hành":

Người đi, ừ nhỉ, người đi thực

Mẹ thà xem như chiếc lá bay

Chị thà xem như là hạt bụi

Em thà xem như hơi rượu say

Có nhà nghiên cứu hiểu người ra đi xem mẹ như chiếc lá bay, chị như là hạt bụi, em như hơi rượu say. Phải hiểu ngược lại mới đúng bởi Nguyễn Bính cũng đã từng viết:

Thầy đừng nhớ, mẹ đừng thương

Coi như đồng kẽm ngang đường đánh rơi

 

3. Tính biểu cảm

Tính biểu cảm của ngôn ngữ thơ nằm trong bản chất thể loại. Thơ là một hình thức giao tiếp đặc biệt: Từ trái tim đến trái tim. Có nhiều hình thức biểu cảm: 

- Biểu cảm trực tiếp (thường đi với thán từ):

Hôm nay lạnh mặt trời đi ngủ sớm

Anh nhớ em, em hỡi, anh nhớ em!

(Xuân Diệu)

- Biểu cảm gián tiếp:

Nhà thơ dùng hình ảnh, hình tượng vẽ nên một bức tranh về đời sống để khơi gợi ở người đọc cảm xúc tương đồng. Gợi ý, gợi cảm là bí quyết của thơ phương Đông:

- Xuân triều, đới vũ vãn lai cấp

Dã độ vô nhân chu tự hoành

(Mưa dịp chiều xuân, trời sập tối

Chiếc đò quạnh vắng tự quay ngang)

(Trừ Châu tây giản- Vi Ứng Vật)

-Đình thụ bất tri nhân khứ tận

Xuân lai hoàn phát cựu thời hoa

(Cây trước sân không biết người đi hết

Xuân về vẫn nở hoa như mùa trước)

(Sơn phòng xuân sự- Sầm Tham)

Nguyễn Bính đã có những câu thơ truyền cảm gián tiếp thật tuyệt bút:

- Giếng thơi, mưa ngập, nước tràn

Ba gian đầy cả ba gian nắng chiều

 

4. Tính hình tượng

Trong thực tế, có những bài thơ hay mà ngôn ngữ như lời nói thẳng (ví dụ như bài thơ "Tôi yêu em" của Puskin) nhưng ngôn ngữ thơ thường có tính hình tượng. Đó là khả năng tái hiện những hiện tượng cuộc sống một cách sinh động bằng những bức tranh gợi hình, gợi cảm. Ngôn ngữ có hình tượng là ngôn ngữ giàu hình ảnh, tạo hình, âm thanh, màu sắc, có khả năng gây ấn tượng mạnh mẽ vào trí tưởng tượng và cảm nhận của người đọc. Nổi bật trong thơ là hình tượng thị giác:

- Gió thổi rừng tre phấp phới

(Đất nước – Nguyễn Đình Thi)

- Mặt trời bơi trên mặt hồ như một con thiên nga đỏ

(S. Esenin)

- Ôi sông Lô nước xanh 

tròng trành mảnh nguyệt

Bình Ca sương xuống

lạc con đò

(Trần Dần)

- Dưới trăng quyên đã gọi hè

Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông

(Kiều – Nguyễn Du)

Hình tượng thị giác phổ biến nhất trong thơ. Trong một số trường hợp nhất định hình tượng thơ có thể trở thành biểu tượng thơ như "đầu súng trăng treo"(Chính Hữu).

Có thể nói đến hình tượng thính giác trong thơ:

Chập chùng thác Lửa, thác Chông

Thác Dài, thác Khó, thác Ông, thác Bà

Thác, bao nhiêu thác cũng qua

Thênh thênh là chiếc thuyền ta trên đời

(Nước non nghìn dặm- Tố Hữu)

Với cách nói hình tượng nhiều lúc thơ có sức diễn tả thật đặc biệt:

Họ đã yêu em đến sờn mòn

Họ đã chiều em đến nhàu nát!

(Esenin)

 

5. Tính mới lạ

Một trong những đặc điểm quan trọng nhất của ngôn ngữ thơ hiện đại là tính mới lạ. Điều này nằm trong bản chất sáng tạo của thơ. Dưới thời Trung đại, người làm thơ thường mô phỏng tiền nhân. Trong thơ hiện đại tính mới lạ phải trở thành phẩm chất bắt buộc. Xuân Diệu từng tuyên ngôn:

- Lòng rộng quá chẳng chịu khung nào hết

- Khinh rẻ khuôn mòn, bỏ lối quen

Trong giai đoạn Thơ mới 1932-1945 ngôn ngữ thơ ông đầy tính sáng tạo. Có thể dẫn ra một số thí dụ như: 

- Trăng rất trăng là trăng của tình duyên

- Chiều goá không em lạnh lẽo sao!

- Này lắng nghe em khúc nhạc thơm

- Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi

Từ Thơ mới trở đi, thơ Việt Nam có những kết hợp từ thật mới lạ: xuân không mùa, biển pha lê, đêm thủy tinh, lệ ngân (Xuân Diệu), hương phản trắc (Đinh Hùng), Lẵng xuân/ bờ giũ trái xuân sa/ Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà (Nguyễn Xuân Sanh). Cần lưu ý rằng cái lạ chưa bao hàm cái mới. Đôi khi người ta đã nhầm cái lạ với cái mới, đánh giá cao cả những câu thơ được viết khi tác giả bị bệnh thần kinh:

Một hôm gầu guốc gầm ghì

Hai hôm gần gũi cũng vì ba hôm

Bom ha, đạn hả bao gồm

Bồm gao gạo đỏ bỏ gồm gạo đen

(Bùi Giáng)

 

6. Tính nhạc

Tính nhạc làm cho bài thơ trở thành một sinh thể nghệ thuật đồng thời làm nên tính độc đáo của ngôn ngữ thơ. Tính nhạc của ngôn ngữ thơ đã được ý thức từ xa xưa nhưng đó là thứ nhạc khuôn mẫu trong các thể thơ đã được luật hóa. Vào thời kỳ hiện đại, các nhà thơ lãng mạn và đặc biệt là các nhà thơ tượng trưng đã hết sức đề cao nhạc tính. P.Verlaine cho rằng trong thơ “nhạc đi trước mọi sự”. E.Poe cho rằng: “Trong sự kết hợp thơ với nhạc, trong ý nghĩa phổ biến, chúng ta có thể tìm thấy phạm vi rộng rãi nhất cho sự phát triển của thơ”. Bài thơ "Những tiếng chuông" (The bells) của ông rất độc đáo về tính nhạc:

Hear the sledges with the bell

Silver bells

What a world of meriment their melody foretells!

How they tinkle, tinkle, tinkle,

In the icy air of night!

While the star that oversprinkle

All the heavens seem to twinkle

With a crystalline delight…

(Vọng lại tiếng những chiếc xe trượt tuyết và những tiếng chuông/ Những tiếng chuông bạc/ Giai điệu của chuông báo tin một thế giới hân hoan/ Những tiếng kêu leng keng không dứt trong màn đêm lạnh giá/ Trong khi cả bầu trời sao chi chít lấp lánh niềm vui pha lê…)

Theo E.Poe, “làm thơ là sáng tạo nhịp điệu của cái đẹp”. Trong thơ Việt Nam không ít thí dụ về những câu thơ có tính nhạc độc đáo:

- Đùng đùng gió dục mây vần

Một xe trong cõi hồng trần như bay

(Kiều – Nguyễn Du) 

- Tài cao phận thấp chí khí uất

(Tản Đà)

- Sương nương theo trang ngừng lưng trời

Tương tư nâng lòng lên chơi vơi

(Xuân Diệu)

Cần lưu ý rằng làm nên tính nhạc không chỉ do vần mà còn do nhịp và thanh điệu. Không hiểu rõ điều này, trong cuộc tranh luận nghệ thuật ở Việt Bắc năm 1949 nhiều người đã phê phán bất công các bài thơ tự do không vần của Nguyễn Đình Thi. Thực ra phải ghi nhận đây là một nỗ lực hiện đại hóa thơ.

*

PHẠM QUỐC CA

Địa chỉ: Đường Lý Nam Đế,

thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng.

 

 

 

 

.............................................................................................................

- Cập nhật từ email: huongmai8081@yahoo.com.vn ngày 07.04.2020.

- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến. 

- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.

 

0 comments:

Đăng nhận xét