MA ĐƯA LỐI.... - Truyện ngắn Nguyễn Quang Thiều (Hà Tây)

Leave a Comment

 

MA ĐƯA LỐI....

*

(Tác giả Nguyễn Quang Thiều)

Tôi nhớ vào năm học lớp hai, một buổi tối mùa đông rất lạnh nên mẹ cho chúng tôi ngủ trên ổ rơm trong bếp cho ấm vì nhà cũng chẳng có chăn như bây giờ. Mẹ còn đốt thêm một đống lửa bằng gốc tre khô. Cho dù ngủ trong bếp nhưng anh chị em tôi ai cũng thích. Hơi ấm của rơm và của hơi lửa làm cho giấc ngủ thật êm đềm. Đêm ấy, mẹ tôi hỏi: “Có đứa nào biết câu ma đưa lối, quỷ dẫn đường không?”. Nghe mẹ hỏi, chị tôi trả lời: “Là người ta bị ma lôi xuống sông”. Mẹ tôi cười bảo chị tôi là ngốc rồi giải thích cho chúng tôi câu nói ấy. Nhưng vì còn nhỏ tôi vẫn chẳng làm sao hiểu được đầy đủ. Rồi mẹ tôi nói: “Thế mà có người được ma đưa lối lại gặp may đấy”. Và mẹ kể câu chuyện ma đưa lối ấy cho chúng tôi nghe.

Vào một năm từ lâu lắm rồi, nạn đói lan rộng như một bệnh dịch. Làng tôi là một làng quê nhỏ bé và cũng nằm trong nạn đói ấy. Thế nhưng ngày nào cũng có người ăn mày đi qua làng. Có một cụ già không biết từ đâu đi ăn mày đến đầu làng tôi. Nhưng vì già yếu và đói quá, bà cụ không thể lê nổi bước chân bèn ngồi tựa vào bức tường cổng tam quan của làng tôi ở ngay dưới chân đê. Ông Dụ người làng tôi đi kiếm cá ngoài sông về gặp bà cụ chìa bàn tay xương xẩu ra xin ăn. Ông Dụ vô cùng lúng túng bởi ông cũng chẳng có gì ngoài mấy con cá nhỏ vừa kiếm ngoài sông về. Ông Dụ cầm lấy bàn tay bà cụ và nói bà cụ hãy gắng chịu chờ ông về nhà nướng mấy con cá nhỏ mang ra cho bà cụ. Trở về nhà, ông Dụ vội đốt rơm nướng mấy con cá và mang ra cho bà cụ ăn mày cùng với hai quả chuối xanh luộc. Vì đói và yếu quá, bà cụ không thể tự ăn. Ông Dụ đã gỡ mấy con cá nhỏ nhiều xương bón cho bà cụ. Bà cụ vừa ăn những miếng cá nhỏ vừa nhìn ông Dụ ứa nước mắt. Cho bà cụ ăn xong, ông Dụ cõng bà cụ vào một cái lều nhỏ trong chợ đầu làng để bà cụ nằm nghỉ rồi dặn bà cụ đừng đi đâu để tối ông Dụ sẽ nấu bát cháo khoai mang ra cho bà cụ.

Buổi tối, thấy bố mình múc một bát cháo khoai để mang cho bà cụ ăn mày, người con trai của ông Dụ đã giằng lấy bát cháo khoai và mắng nhiếc bố mình. Bát cháo khoai văng ra khỏi tay ông Dụ và rơi xuống nền nhà. Ông Dụ vừa khóc vừa vét bát cháo khoai duy nhất là phần của ông và mang ra cho bà cụ. Nhưng khi ông ra đến lều chợ thì bà cụ đã trút hơi thở cuối cùng. Quá thương cảm bà cụ ăn mày, ông Dụ đã tìm một manh chiếu rách bó xác bà cụ ăm này và mang ra gò sông mai táng. Khi biết chuyện đó, người con trai cả lại càng mắng nhiếc ông và nói với ông không được làm chuyện đó vì bà cụ kia chẳng họ hàng thân tích gì với gia đình họ. Ông Dụ nói với đứa con rằng có thể đến một lúc nào đó ông cũng trở thành kẻ ăn mày và chết đường chết chợ không có ai nương tựa. Nhưng trong cảnh cùng quẫn, người con trai kiên quyết ngăn cản bố mình mai táng bà cụ ăn mày. Đợi đến khuya, ông Dụ lấy cớ đi thả lờ rô để mang xác bà cụ ăn mày đi chôn. Ông đặt bát cháo khoai vét từ nền nhà lên mộ người quá cố và thắp một nén hương cho bà cụ ăn mày. Sau ba năm, theo tục thì phải cải táng cho người chết để linh hồn người chết được mát mẻ và yên giấc ngàn thu, ông Dự đã một mình nửa đêm làm lễ cải táng cho bà cụ ăn mày. Vì nghèo không mua được tiểu sành, ông Dụ phải mua một chiếc vại nhỏ dùng để muối cà để đựng cốt của bà cụ ăn mày. Đêm ấy, một mình ông Dụ đào mộ bà cụ ăn mày lên và tắm rửa hài cốt cho bà cụ đến gần sáng thì xong. Những ngày sau đó, những lúc đi kiếm cá sông, ông Dụ lại ghé qua chăm sóc ngôi mộ của bà cụ ăn mày.

Cho đến một đêm vào khoảng canh ba, trong giấc ngủ chập chờn, ông Dụ thấy một người ăn mặc rách rưới đứng ở cuối giường nhìn ông. Ông Dụ hoảng hốt ngồi dậy hỏi ai đấy thì nghe bóng người kia nói: “Tôi là người ăn mày khi sống được ông cho ăn, khi chết được ông chôn cất tử tế, không bao giờ tôi quên ơn ông, tôi về đây để cám ơn ông, ông hãy đi theo tôi”. Lúc đó ông Dụ mới nhận ra đó là bà cụ ăn mày. Ông vội vã thắp ngọn đèn dầu lên thì không thấy bà cụ ăn mày đâu nữa. Ông nghĩ có lẽ mộ bà cụ ngoài gò sông mà ông mai táng cho dù rất kín đáo không ai trong làng biết được nhưng cũng có thể có chuyện gì xảy ra làm động mồ động mả nên hồn ma bà cụ ăn mày mới hiện về. Nghĩ vậy, đợi trời hửng sáng ông vội ra bờ sông tìm đến phần mộ của bà cụ ăn mày. Ông Dụ xem xét phần mộ nhưng không thấy phần mộ bị xói lở hay khác thường gì cả. Lúc đó ông cho rằng hình hài bà cụ ăn mày đã chết mà ông nhìn thấy chắc do lúc nửa thức nửa ngủ ông tưởng tượng ra mà thôi.

Nhưng rồi những đêm sau đó, cứ thi thoảng ông lại thấy bà cụ ăn mày hiện về. Ông Dự nói với hồn ma bà cụ là nhà ông nghèo nên khi bà cụ mất không có áo quan mai táng bà cụ và khi cải táng cũng chẳng có tiểu sành mà chỉ có cái vại muối cà đựng hài cốt bà cụ thôi và mong bà cụ thông cảm. Nghe ông Dụ nói vậy, hồn ma bà cụ ăn mày nói: “Tôi chết rồi nhưng mãi mãi mang ơn ông đã đối xử với tôi tử tể đến như thế. Tôi chưa thể rời khỏi đây vì muốn trả ơn ông. Ông hãy đi theo tôi. Tôi không làm gì hại ông đâu mà ông sợ”. Cho dù hồn ma bà cụ ăn mày nói vậy nhưng ông Dụ vẫn cho rằng bà cụ ăn mày chết đói chết khát, chết tha phương không có con cháu hay người thân gì nên không thể siêu thoát. Vào ngày đầu tháng sau đó, ông kín đáo sắm bát cơm, quả trứng, nải chuối đợi đêm tối ra phần mộ bà cụ ăn mày thắp hương khấn vái mong cho linh hồn bà cụ ăn mày được siêu thoát. Thế nhưng, thi thoảng hồn ma bà cụ ăn mày lại hiện về và vẫn nói ông Dụ đi theo bà cụ. Cuối cùng thì ông Dụ cũng liều đi theo hồn ma bà cụ ăn mày. Ông nghĩ rằng chắc bà cụ ăn mày còn có điều gì đó muốn nói với ông nên cứ hiện về như thế.

Hồn ma bà cụ ăn mày đi trước ông Dụ lúc tỏ lúc mờ, lúc bước đi như người thường và lúc như bay lơ lửng trước mặt ông. Hồn ma bà cụ dẫn ông ra phía đầu làng về phía bờ sông. Lúc đó, ông càng tin phần mộ bà cụ ăn mày có “động” nên hiện về nói với ông. Nhưng khi đến đầu làng thì hồn ma bà cụ ăn mày không đi lên đê để xuống gò sông nơi có phần mộ mình ở đó mà rẽ xuống bờ chiếc giếng đầu làng. Đến bờ giếng, hồn ma bà cụ ăn mày chỉ xuống chiếc cầu đá và nói: “Ông lặn xuống giếng ở phía dưới chiếc cầu đá này. Ở sát chân chiếc cầu đá có một cái hũ sành. Ông lấy mang về và đừng cho ai biết. Tôi mang ơn ông và muốn được trả ơn ông”. Nói xong, hồn ma bà cụ ăn mày tan như khói và biến mất. Ông Dụ đứng mãi bên bờ giếng nhưng không làm theo lời hồn ma bà cụ ăn mày dặn. Ông đi về nhà.

Ít ngày sau vào lúc canh ba hồn ma bà cụ ăn mày lại hiện về đứng phía đuôi giường của ông và nói: “ Sao ông không lặn xuống giếng lấy cái hũ sành. Tôi không bao giờ hại ông cả. Tôi mang ơn ông. Ông nghe lời tôi một lần này nữa. Sau đó tôi không về làm phiền ông nữa đâu”. Sau mấy ngày suy nghĩ, ông Dụ thấy nên làm theo lời hồn ma bà cụ ăn mày để bà cụ có thể siêu thoát. Thế là, vào một đêm, ông Dụ ra chiếc giếng đầu làng lặn xuống. Phải lặn đến lần thứ ba ông mới chạm tay vào chiếc hũ sành mà người ta thường để làm mắm. Khi mang được chiếc hũ sành lên bờ giếng, ông ngồi rất lâu. Lúc này ông mới tin hồn ma bà cụ ăn mày hiện về là có thật. Ông vừa hồi hộp vừa lo lắng không biết trong chiếc hũ sành có gì. Ông ôm chiếc hũ sành về nhà. Phải đến mấy ngày sau, đợi khi vợ chồng người con trai đi làm, ông mới mang chiếc hũ sành ra mở. Chiếc hũ sành khá nặng và miệng được đậy bằng một chiếc đĩa gốm nhỏ có gắn vôi trộn mật nên rất chắc. Cuối cùng ông phải đập cái hũ ra. Khi chiếc hũ sành bị đập vỡ, ông bàng hoàng khi thấy những thỏi vàng hiện ra. Lúc này, ông mới hoàn toàn tin chuyện hồn ma là có thật. Mấy ngày sau, ông sắm một mâm lễ và bí mật ra phần mộ cụ bà ăn mày thắp hương khấn vái và nói: “Tôi xin đa tạ lòng tốt của cụ. Tôi vốn không ham vàng ham bạc, nếu cụ thương tôi thì chỉ xin cụ cho con trai tôi một mụn con trai để lấy người nối dõi tổ tông”.

Từ sau khi tìm thấy hũ vàng theo lời chỉ dẫn của hồn ma bà cụ ăn mày, ông Dụ không bao giờ gặp lại hồn ma bà cụ nữa. Về phần người con trai ông Dụ lấy vợ đã nhiều năm nhưng không có con. Sau khi làm lễ tạ ơn hồn ma bà cụ ăn mày, ông Dụ đem hũ vàng đem ra gò sông chôn. Một năm sau thì vợ người con trai có mang và sinh đôi hai đứa con trai. Ông Dụ vô cùng hạnh phúc. Ông nghĩ đến một ngày nào đó sẽ phải mang chuyện hồn ma bà cụ ăn mày kể lại cho người con trai nghe. Với ông đó là một bài học cho lẽ làm người. Ông Dụ cũng không bán đi một thỏi vàng nào cho dù lúc đó cuộc sống của cha con ông vô cùng nghèo đói. Nhưng có một điều ông nhận thấy là ông không hề ốm đau gì kể từ ngày đó và khỏe như trai tráng. Cuộc sống của gia đình ông cũng mỗi ngày một khá lên. Hai đứa cháu trai của ông khỏe mạnh, ngoan ngoãn và thông minh. Ông Dụ cứ thế sống trong hạnh phúc với con cháu mà không bệnh tật gì cho tới 99 tuổi thì mất. Một buổi chiều, ông nằm trên chiếc chõng tre kê ở hiên nhà hóng gió và ngủ một giấc vĩnh viễn.

Sau ngày ông Dụ mất, người con trai mới kể cho vợ nghe là ông Dụ đã nói cho anh ta nghe về chuyện hồn ma bà cụ ăn mày cũng như chuyện hũ vàng mà ông đã chôn ở gò sông. Nhưng ông không nói cho người con trai biết cụ thể hũ vàng được chôn ở đâu. Người con trai đã nhiều lần gặng hỏi nhưng ông Dụ chỉ nói: “Hai đứa con trai của con là hai hũ vàng lớn nhất. Hãy chăm sóc chúng nó chứ đừng để tâm đến cái hũ sành đó làm gì. Không có vàng cũng không ai chết cả”. Người con dâu nghe được câu chuyện đó thì đi kể cho hết người này đến người khác. Chỉ ít sau, câu chuyện về hồn ma bà cụ ăn mày và hũ vàng được cả làng tôi và những làng lân cận đều biết. Thế là cuộc săn tìm hũ vàng bắt đầu. Người ta càng tin có hũ vàng vì khi tìm hũ vàng họ đào thấy cái vại sành đựng hãi cốt bà cụ ăn mày đúng như trong lời kể. Thế nhưng, họ đào tung cả cái gò sông ra vẫn không tìm thấy hũ vàng đâu cả. Một thời, người ta đồn có người đã tìm thấy hũ vàng. Nói vậy nhưng chẳng ai biết cụ thể là ai. Cho đến tận ngày nay, thi thoảng vẫn có người dùng cái thuốn sắt dò tìm hũ vàng ấy.

*.

NGUYỄN QUANG THIỀU

Địa chỉ: Làng Chùa, xã Sơn Công,

huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Tây.

Email: nquangthieu@gmail.com

 

 

 

 

 

…………………………………………………………………………

- Cập nhật từ messenger facebook Ngô Thanh Tuấn ngày 12.03.2021.

- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến. 

- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.

0 comments:

Đăng nhận xét