‘BIỆT TAM
THANH’ THƠ LÊ GIAO VĂN
(Khóc bạn
thơ hay hơn khóc bạn tình)
Nhà
thơ Tam Thanh, tên thật Nguyễn Tiềm, sanh 1929 , quê Thanh Lê - Quảng Trị, mất
2011. Nhà thơ Lê Giao Văn quê Quảng Nam, hiện sông tại Bà Rịa-Vũng Tàu, tiển
bạn thơ của mình bằng hai bài thơ “Biệt
Tam Thanh”, bài thứ nhất là thơ Mới, bài thư hai là thơ Đường luật. Cả
hai bài thơ không có nước mắt, vì hình như nước mắt đã hóa thành hơi, bay lên
vùng sao Đẩu sao Khuê.
Đọc
khổ thơ đầu tiên của bài thơ thứ nhất cho ta thấy ngay nỗi đau của nhà thơ quá
cố Tam Thanh không phải là nỗi đau bình thường, đó không chỉ là nỗi đau ly
hương mà còn là nỗi đau thân phận như thân phận của kẻ bị lưu đày:
Anh trải thế tình qua thế sự
Dòng sông Vĩnh Định đục hay trong ...?
Cố quận- quê người đều đất trích
Chỉ có quê thơ sống tận lòng
“Thế tình” là thế thái nhân tình, là thời
đại và lòng người. “Thế sự” nói khái
quát là việc đời. Câu thơ đầu “Anh trải
thế tình qua thế sự” cho thấy nhà thơ Tam Thanh đã sống trường trải với bao
nỗi thăng trầm trong đời, đã kinh qua nhiều vui buồn trong cuộc sống.
Quê
Hương của Tam Thanh là Quảng Trị, làng Thanh Lê nằm bên dòng sông Vĩnh Định.
Nhà thơ Lê Giao Văn cho rằng dầu Tam Thanh ở tại quê nhà hay làm dân ngụ ở Bà
Rịa- Vũng Tàu, vẫn là thân phận của một kẻ bị đày đi xa ở nơi “đất trích”
“Đất trích” là gì?
“Đất
trích” xuất từ tiếng “Trích điạ”
trong Thơ Tỳ Bà Hành của Thi
Sĩ Bạch Cư Dị:
Đồng thị thiên nhai luân lạc nhân,
Tương phùng hà tất tằng tương thức.
Ngã tòng khứ niên từ đế kinh,
Trích cư ngoạ bệnh Tầm Duơng thành.
Thi
Sĩ Phan Huy Vịnh dịch:
Cùng một lứa bên trời lận đận,
Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau.
Từ xa kinh khuyết bấy lâu,
Tầm Dương đất trích gối sầu hôm mai.
Ngày
xưa, những ông quan có tội thường bị Vua phạt bằng cách đổi đi làm quan ở những
nơi xa đô thị, ở những vùng hoang vắng khỉ ho, cò gáy, chó ăn đá, gà ăn muối.
Quan lại Tàu gọi việc viên quan bị đày đi xa là bị “biếm trích“, gọi nơi vị quan bị đày đến là “trích địa.”
Nhà
thơ Lê Giao Văn chỉ dùng lại hai chữ “đất trích” của thi sĩ xưa, đã nói lên
được tất cả nỗi đau của Tam Thanh, thi sĩ thời nay, ông không chỉ ở nơi đất
trích là nơi ngụ cư, mà còn ở nơi đất trích trên chinh quê hương Quảng Trị của
mình, vì nơi đây chắc ông bị ruồng bỏ, hành hạ, đọa đày, đối xử như là người tù
bị biếm trích trên chính quê hương ông. Bởi thế Tam Thanh phải thoát ly đến
miền trích đia xứ người.
Qua
khổ thơ thứ hai:
Cùng một bào thai, hai thế kỷ
Bể dâu gởi trả cuộc Nam hành
Bao nhiêu Từ Thứ, bao Từ Hải ...
Anh bạn của huynh- em bạn anh !
Nhà
thơ Tam Thanh chính là bạn với hai người anh của nhà thơ Lê Giao Văn: “Cùng một bào thai, hai thế kỷ”. Sau đó
qua hai người anh của mình, tình thơ của Văn và Thanh nẩy sinh từ đó: “Anh bạn
của huynh- em bạn anh”
“Từ Thứ” (160-220) là mưu sĩ của sứ quân
Lưu Bị, sau đó là đại thần nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Hoa.
“Từ Hải” là nhân vật Nguyễn Du yêu
thích trong tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Đại thi hào
Nguyễn Du đã xây dựng hình tượng Từ Hải lên một bước mới, dùng hình tượng anh
hùng của Từ Hải để thể hiện nguyện vọng thầm kín của mình. Vị anh hùng ấy,
ngòai thói đa tình, còn thêm hai đức tính đặc biệt khác nữa là, lòng kiêu hãnh,
chí độc lập ngang tàng.
Lê
Giao Văn đã mô tả hoặc xây dựng bạn thơ của mình, Tam Thanh thành một nhân vật
đa trí đa tài như những anh hùng trong sử sách thuở xa xưa. Để làm chi? Để nhà
thơ nằm xuống, như một nhân vật “Kinh
luân khởi tâm thượng/ Binh giáp tàng hung trung” (Việc chính trị đã định
sẵn trong lòng/Việc giáp binh đã sắp sẵn trong bụng) nhưng đã bị thế thời trói
tay, thời cuộc làm cho thân bại danh liệt, phải đem thân biếm trích đi cư ngụ
vào nơi đất trích xứ người!
Nhà
thơ Tam Thanh mất năm 2011, Lê Giao Văn không khóc, chỉ thao thức đêm trường
đọc thơ Tam Thanh trên “Giấy úa còn nguyên
hình nét bút”:
Lòng đất anh về tìm sao Đẩu
Sao Khuê em lặng ngắm qua mành
Giấy úa, còn nguyên hình nét bút
Đường trần thao thức nhớ Tam Thanh.
Sao
Đẩu là sao gì? Đó là một nhóm gồm bảy ngôi sao ở phía Bắc trái đất, trong chòm
sao Đại Hùng. Những tàu thuyền đi trên biển ngày xưa ngắm nhóm sao nầy để định
hướng đi cho mình.
Lê
Giao Văn muốn linh hồn bạn mình đi tìm sao Đẩu, là muốn bên kia thế giới, bạn
mình không còn như con thuyền mất hướng, lênh đênh phiêu dạt như trên đời trần
gian nầy nữa.
Trong
văn hóa Đông Á và Việt Nam, sao Khuê là biểu tượng của văn chương, học thuật.
Khuê Văn Các được xây dựng tại Quốc Tử Giám, trường Đại học đầu tiên của Việt
Nam, mang biểu tượng này. Những bậc bác học lỗi lạc trong lịch sử được ví là
sáng như sao Khuê; một trong số đó là Nguyễn Trãi, đã được Lê Thánh Tông cho
tạc bia: Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo (Tâm hồn cao thượng của Ức Trai sáng
như sao Khuê)
Lê
Giao Văn thao thức hằng đêm, đọc thơ bạn mình trên giấy úa, lặng ngắm ngôi sao
Khuê qua mành, là ước vọng ở trên cao kia, bạn thơ Tam Thanh thỏa vui, vẩy vùng
nơi chốn văn chương, không bị tự khóa tay bịt miệng như chốn trận gian nầy.
Bài thơ thứ hai Lê Giao Văn đưa tiển Tam Thanh là một bài Đường thi, tiếng thơ nghe bình tỉnh lạ thường, âm thanh như những con sóng gối đầu lên nhau, nhưng nỗi sầu cứ nhẹ bay, nhẹ bay như khói hương quyện lên giữa bầu trời trong xanh, trong ngày linh hồn người bay bổng lên cao. Hai câu thơ cuối “Nằm lại Vũng Tàu nghe biển hát/ Ngàn thu bên Chúa giấc mơ lành” hòa nhập thiên nhiên cùng cõi vĩnh hằng nơi mộ chí, như ngàn vạn con sóng biển vọng muôn đời, tan linh hồn vào cõi vô vi. Hai câu thơ như hai cánh chim bay, mang linh hồn cả người sống và người chết vào miền an tịnh vô biên!:
Chiếu thơ điểm lại biệt Tam Thanh
Cõi mộng riêng anh bước độc hành
Dâu bể không sờn khi sóng lớn
Tang bồng chặng thẹn với ngày xanh
Tứ thơ bay bỗng toan dừng lại
Sự nghiệp cao sang cũng phải đành
Nằm lại Vũng Tàu nghe biển hát
Ngàn thu bên Chúa giấc mơ lành.
Có
lẽ không quá đáng khi tôi nói “Biệt Tam Thanh
thơ Lê Giao Văn, khóc bạn thơ hay hơn khóc bạn tình”. Thật vậy, khóc bạn
tình thì rơi nhiều nước mắt, khóc bạn thơ thì nước mắt ít rơi hoặc không rơi,
nhưng tiếng thơ rơi vào trong lòng, như rơi vào cõi quyến luyến vô biên, như
tiếng thủy tinh tan vỡ, như tiếng ngọc va vào vách đá, như tiếng nước rơi từ
thạch nhủ trong động sâu, và như tiếng sóng biển thì thầm muôn đời cùng tinh
tú.
Đọc
thơ Lê Giao Văn tiển dưa bạn về trời, tôi thấy hình như có đủ những thanh âm mà
tôi đã nói ở trên ./.
-------------
BIỆT TAM THANH
Anh trải thế tình qua thế sự
Dòng sông Vĩnh Định đục hay trong ...?
Cố quận - quê người đều đất trích
Chỉ có quê thơ sống tận lòng
Cùng một bào thai, hai thế kỷ
Bể dâu gởi trả cuộc Nam hành
Bao nhiêu Từ Thứ, bao Từ Hải ...
Anh bạn của huynh- em bạn anh !
Lòng đất anh về tìm sao Đẩu
Sao Khuê em lặng ngắm qua mành
Giấy úa, còn nguyên hình nét bút
Đường trần thao thức nhớ Tam Thanh.
- Bài 2.
Chiếu thơ điểm lại biệt Tam Thanh
Cõi mộng riêng anh bước độc hành
Dâu bể không sờn khi sóng lớn
Tang bồng chặng thẹn với ngày xanh
Tứ thơ bay bỗng toan dừng lại
Sự nghiệp cao sang cũng phải đành
Nằm lại Vũng Tàu nghe biển hát
Ngàn thu bên Chúa giấc mơ lành.
- Lê
Giao Văn -
*.
CHÂU THẠCH (Trương Văn Trạn)
Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính, Đà Nẵng.
ĐT: 0929128967 - 05113894610
Email: truongvantran@hotmail.com
…………………………………………………………………………
- Cập nhật theo nguyên bản từ email tác giả gửi ngày
26.05.2021.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng
Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
0 comments:
Đăng nhận xét