HỒ XUÂN HƯƠNG
CHÂN DUNG VÀ TÁC PHẨM
Hồ Xuân
Hương tên thật là Hồ Phi Mai, đó là lý do khiến Tốn Phong trong 31 bài
thơ tặng Xuân Hương, đã có 29 bài nhắc đến Mai, có bài nhắc đến hai
ba lần. Hồ Phi Mai hiệu là Xuân Hương, hoa mai bay trên hồ nơi ngắm cảnh
xuân, Mai là hương hoa mùa xuân.
Hồ Xuân
Hương xuất thân từ một gia đình danh giá. Hoàng các khấu lai chân vọng
tộc, bài 1, thơ Tốn Phong. Hoàng các vốn gia đình vọng tộc.
Thân phụ
là Hồ Phi Diễn sinh năm 1703 và mất năm 1786. Năm 20 tuổi ông đậu Tam
Trường (Tú Tài) khoa Thi Hương đời Bảo Thái thứ tư, tức năm Quý Mão
1723. Ông đồ Nghệ phiêu bạt đi dạy học tại Hải Dương và kết hôn với
mẹ nàng họ Hà quê Hải Dương, ông sinh Hồ Phi Mai lúc 69 tuổi, ông mất
lúc Hồ Phi Mai 14 tuổi, bà mẹ sinh
nàng có lẽ lúc khoảng hai mươi và còn sống đến sau năm 1814, năm Tốn
Phong trở lại đề tựa Lưu Hương Ký và tặng thêm 21 bài thơ, Tốn Phong
đã biết đến Hồ Xuân Hương đã yêu
và hứa hẹn với Tham Hiệp Yên Quảng Trần Phúc Hiển nên chúc
mừng ; « Xe loan mong sớm với người xa. » Nhưng mãi đến
hai năm sau Trần Phúc Hiển mới rước nàng về Vịnh Hạ Long. Mẹ Hồ Xuân
Hương mất trong khoảng thời gian này nên nàng phải cư tang ít nhất một
năm.
Hồ Phi
Diễn chánh quán làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An. Họ Hồ
tại Quỳnh Lưu rất có tiếng tại Nghệ An và có từ đời nhà Hậu Hán
cai trị (917-971). Viên Thái Thú Diễn Châu là Trạng nguyên Hồ Hưng Dật
làm nhà ở đây, con cháu phồn thịnh sau khi nước nhà độc lập. Đời Trần
có chi ra Thanh Hóa sau sinh ra Hồ Quý Ly. Gia phả họ Hồ ở Nghệ An
chép đến đời Trần Xương Phù (1377-1389) một cách liên tục. Đời Trần
có một chi vào đất Đông Thành cùng phủ sinh Hồ Tông Thốc có ba đời
Trạng nguyên. Chi ở xã Hoàn Hậu đời Lê có nhiều người đỗ Tiến sĩ
nổi danh như Hồ Sĩ Dương nhà chính trị học, sử học. Riêng chi, đời
thứ 8 Hồ Sĩ Anh (1618-?) đời Lê có hai người đỗ Hoàng Giáp là Hồ Phi
Tích (1665-1734) đỗ năm 1700 và Hồ Sĩ Đống (1739-1785) đỗ năm 1772. Có
chi ra Tây Sơn đổi họ Nguyễn, Hồ Phi Phúc sinh ra Nguyễn Nhạc, Nguyễn
Huệ và Nguyễn Lữ, do đó vua Quang Trung Nguyễn Huệ, Hoàng Giáp Hồ Sĩ
Đống và nữ sĩ Hồ Xuân Hương, Tú tài Hồ Phi Hội cùng có một ông tổ đời thứ 8 là Hồ
Sĩ Anh. Ngày xưa bà con bốn đời là rất gần. Tốn Phong biết đến Hồ
Xuân Hương vì nàng là em của quan lớn họ Hồ. Phạm Đình Hổ trong bài
Thi Ca trong Vũ Trung Tùy bút, đã viết Hồ Sĩ Đống, Hoàn Hậu Công là
một trong ba bậc thầy thi ca đời Lê Trung Hưng cùng với Nguyễn Tông Khuê
(thầy của Lê Quý Đôn) và Nguyễn Huy Oánh (cha Nguyễn Huy Tự, học trò
hơn 30 người đỗ Tiến Sĩ).
Khi Nguyễn
Khản, anh Nguyễn Du bị nạn kiêu binh phải bỏ trốn lên Sơn Tây với
Nguyễn Điều, thì Hồ Sĩ Đống được Chúa Trịnh gọi về thay chức Hành
Tham Tụng (quyền Thủ Tướng), Hồ Sĩ Đống đã làm yên được kiêu binh,
Hồ Sĩ Đống còn được gửi vào Phú Xuân, có lẽ Chúa Trịnh mong muốn
thương thuyết với anh em Tây Sơn, nhưng Tây Sơn đang bận những chiến trận
với Chúa Nguyễn phương Nam nên không gặp. Hồ Sĩ Đống từng làm Phó Sứ
năm Mậu Tuất 1778, khi đi đến Động Đình Hồ, Chánh Sứ Võ Khâm Tự tự tử
và đốt tờ biểu xin sắc phong vương của Chúa Trịnh Sâm thay vua Lê, Hồ
Sĩ Đống thay thế làm Chánh Sứ, Nguyễn Trọng Đan làm Phó Sứ, cuộc đi
sứ hoàn tất trở về và Chúa Trịnh cũng không dám hỏi ông việc xin
phong vương, Hồ Sĩ Đống sống thanh liêm giản dị, chu tất việc triều
chính, ông mất sớm năm 1885 chỉ mới 46 tuổi, ông được mọi người đều
thương tiếc, nhà Trịnh vua Lê cũng sụp đổ một năm sau đó.
Hồ Xuân
Hương sinh ra và lớn lên tại làng Nghi Tàm bên Hồ Tây, nơi nổi tiếng
nghề dệt lụa, làm giấy, dệt lĩnh đen và trồng hoa. Tây Hồ có cảnh
đẹp Tây Hồ Bát Cảnh, một thi xã đời Vĩnh Hựu (1735-1739) đã ca tụng
tám cảnh đẹp quanh Tây Hồ :
- Bến Trúc
Nghi Tàm, bến tắm chúa Trịnh Giang dưới dãy trúc ngà làng Nghi Tàm.
- Rừng
bàng Yên Thái, rừng bàng trên núi đất làng Bưởi do chúa Trịnh Giang
bắt trồng.
- Đàn thề
Đồng Cổ do vua Lý Thái Tông xây để hàng năm quần thần đến thề để tỏ
lòng trung hiếu.
- Phật say
làng Thụy. Pho tượng Phật chống gậy dáng đi như người say rượu ở
chùa Làng Thụy Chương. (Làng Thụy Khuê có nghề nấu rượu rất ngon nên
Phật cũng say).
- Sâm cầm
rợp bóng. Nghề săn ngỗng trời các làng quanh Hồ Tây, do ngỗng mập
mạp, người ta cho rằng ngỗng ăn sâm từ Cao Ly bay về nên gọi là sâm
cầm.
- Đồng hoa
Nghi Tàm, làng Nghi Tàm làm nghề trồng hoa có những vườn hoa rất
đẹp.
- Chợ đêm
Khán Xuân, Chúa Trịnh thường họp chợ đêm cùng các cung nữ, thái giám
giả làm người mua bán làm vui. Khu đất ngày xưa rất rộng nơi đình
làng Nghi Tàm ngày nay. Bên cạnh có ngôi Gác Tía của Nguyễn Khản làm
nơi câu cá hầu Chúa Trịnh.
Cổ Nguyệt
Đường được xây dựng khoảng năm 1783, ngày xưa khi thầy được 80 tuổi,
để mừng thọ thầy, học trò lớn, bé, làm quan hay không đều góp công
góp sức xây nhà cho thầy. Do việc xây cất bề bộn, Hồ Xuân Hương được
gửi về quê nội Quỳnh Lưu, đó là dịp Hồ Xuân Hương xướng họa với
Dương Tri Tạn. Cổ Nguyệt Đường là một cơ ngơi rộng rãi, theo thơ Tốn
Phong gọi là viện hay mai đình có tả viện là nơi tiếp khách, phòng
ăn, nơi bán sách giấy bút mực của vợ và con gái thầy. nghĩa có
tiền viện nơi thờ phượng, hữu viện nơi dạy học và hậu viện phòng
ngủ, chính giữa là khoảng sân rộng có hòn non bộ, chậu kiểng và
bếp. Phong cách kiến trúc hình chữ khẩu, hình vuông ngày nay còn lại
trong các ngôi nhà cổ, đình chùa Việt Nam. Nhà quay mặt hướng Đông
(Đối mặt trời xanh mưa móc thuận, bài 1), trước Cổ Nguyệt Đường có
cây bàng lớn, (Cội bàng trăng khuất chiếu mai đình, bài 6 ), cạnh Bến
Trúc Nghi Tàm (Bến Trúc mừng vui gặp mỹ nhân, bài 25), quanh nhà có
trồng nhiều hoa (Nàng đây đối mặt giữa hoa ngàn, bài 7). Khi cụ Hồ
Phi Diễn mất năm 1786, người trưởng tràng là Tử Minh tức Cả Tân thay
thầy dạy học. Ba bài thơ Hồ Xuân Hương khóc Tử Minh là có những chi
tiết quý báu. Khi Tử Minh mất năm
1811, 40 tuổi để lại vợ và hai con trai, Hồ Xuân Hương ngừng đi
buôn do tình hình bất an do loạn Đặng Trần Siêu và Võ Đình Lục
(1810-1822) vùng Sơn Nam, nàng trở về đảm nhận lớp học. Học trò nàng
có hai con Tử Minh và cô Nguyễn Thị Hinh tức là bà Huyện Thanh Quan
sau này, về sau bà học với Tiến sĩ Phạm Quý Thích, chung lớp với
Phương Đình Nguyễn Văn Siêu.
Cổ Nguyệt
Đường dùng đèn bạc khác với mọi người dùng đèn đất, hay đèn sứ và
có cả hồ đồng để coi giờ theo mực nước, là một cơ ngơi khá giả
đương thời. Năm 1892 Antony Landes mướn Lê Quý và Nguyễn Văn Đại về
làng Nghi Tàm chép thơ Hồ Xuân Hương, thì hai người con Tử Minh, nếu
còn sống cũng khoảng 80 tuổi, Hồ Xuân Hương không con cháu, hai người
con trai Tử Minh là người thân thiết nhất trong gia đình đã sưu tập thơ
Hồ Xuân Hương và trông coi Cổ Nguyệt Đường. Ba bài thơ Khóc Tử Minh là
bằng chứng của việc này vì thơ phúng điếu chỉ có gia đình người
quá cố cất giữ. Tập thơ này nhiều
bài lẫn lộn với thơ vua Lê Thánh Tôn, tôi cho rằng đó là những bài
thơ Hồ Xuân Hương yêu thích, là mẫu mực thi ca của bậc thầy, cần
thiết trả lại các bài thơ Chợ Trời, Đánh Đu, đền Khán Xuân.. cho ông
Vua Thơ Nôm Lê Thánh Tôn, không thể sửa đổi vài chữ rồi cho rằng thơ
ấy hay hơn thơ vua Lê, phải công nhận là thơ Hồ Xuân Hương như Xuân Diệu
viết trong sách Các nhà thơ Cổ Điển.
Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến từng làm việc tại Trường Viễn Đông
Bác Cổ đã viết Giai Nhân Dị Mặc dựa theo văn bản này. Văn bản này
còn lưu trử tại Société Asiatique tại Paris, Giáo sư Maurice Durand đã
dùng để viết sách L ́Oeuvre de la
poétesse vietnamienne Hồ Xuân Hương EFEO Paris 1968.
Thuở nhỏ
Hồ Xuân Hương học chữ với cha, cha mất năm Hồ Xuân Hương 14 tuổi, có
lẽ nàng tiếp tục đọc sách và học hỏi với trưởng tràng Tử Minh. Mẹ
bán quán giấy bút, sách nôm, nghề bán giấy bút và sách vở ngày xưa
là nghề của vợ và con gái các thầy đồ, vì người bán cũng biết
đọc và đọc qua các sách. Từ nhỏ Hồ Xuân Hương chăm chỉ đọc sách vừa
ăn trầu, làm bếp cũng nhớ chuyện sử sách : “Mở sách ra rồi lại nhá
trầu” (thơ Dương Tri Tạn), hay “Học thói Bàn Canh nấu bún Thang”. Cổ
Nguyệt Đường còn có nghề dệt và trồng hoa có gia nhân chăm sóc. Các
chú dẫn trong thơ Văn bản Landes, Hồ Xuân Hương thường đi lễ chùa du
xuân, lễ Thanh Minh với bạn gái vợ Tử Minh và các học trò trai gái.
Có thể
chia tác phẩm Hồ Xuân Hương làm ba phần :
- Thơ văn
Hồ Xuân Hương theo văn bản Anthony Landes trước năm 1892, (thời kỳ này
chưa có Trường Viễn Đông Bác Cổ,
ông là người đầu tiên mướn người sao chép sách cổ Việt Nam, Landes
chết đuối trên sông Sài Gòn năm 1892) văn bản gồm những bài thơ truyền
khẩu. Những bài thơ ứng khẩu thời Hồ Xuân Hương không chép thành thi
tập. Các văn bản về sau của Đông
Châu Nguyễn Hữu Tiến và nhà in Xuân Lan.. dựa theo văn bản này.
- Thơ Lưu
Hương Ký, Tốn Phong đề tựa là những bài thơ viết về chuyện tình
mình với các danh sĩ Nguyễn Du, Mai
Sơn Phủ, Tốn Phong, Trần Ngọc Quán, Trần Quang Tĩnh, Trần Phúc Hiển.
- Hương
Đình Cổ Nguyệt thi tập những bài thơ viết trao đổi với Nguyễn Du và
các bài thơ trong thời kỳ sống với Tham Hiệp Yên Quảng Trần Phúc Hiển.
Tập thơ này bị phân tán làm nhiều mãnh.
Cổ Nguyệt
Đường chiết tự chữ Hán chữ Hồ, chữ Cổ là xưa và chữ Nguyệt là
trăng , là nơi Hồ Xuân Hương dạy học, bên cạnh có quán trà của bà mẹ
đã là Phòng Khách Văn Học của Việt Nam đầu thế kỷ 19. Là nơi các
tao nhân mặc khách, các nhà thơ lớn đương thời xướng họa : Thi hào
Nguyễn Du, Phạm Đình Hổ tác giả Vũ Trung Tùy Bút, Hiệp Trấn Sơn Nam
Thượng Trần Ngọc Quán, Hiệp Trấn Sơn Nam Hạ Trần Quang Tĩnh. Tham
Hiệp Yên Quảng Trần Phúc Hiển, Tốn Phong Phan Huy Huân, Mai Sơn Phủ, Tử
Minh, Cư Đình và cả một Tao Đàn Cổ Nguyệt Đường 28 người mà Trần
Ngọc Quán được bầu làm Thi Tướng. Bản Lưu Hương Ký còn lưu lại tại
nhà cụ Cử Nguyễn Văn Tú làng Hành
Thiện và bản Hương Đình Cổ Nguyệt thi tập ông Trần Tường tìm ra tại
Nam Định năm 1974, có lẽ là từ những người có chân trong Tao Đàn Cổ
Nguyệt Đường.
Hương Đình
Cổ Nguyệt thi tập là tập thơ cuối cùng của Hồ Xuân Hương. Tập thơ
này đã được Miên Thẩm Tùng Thiện Vương và đại thần Trương Đăng Quế
đọc, nên họ so sánh Hồ Xuân Hương với Mai Am Công Chúa và Phạm Lam Anh.
Tập thơ này gồm các bài : Tưởng đáo nhân tình, Giang Nam phụ níp kiêm lưu biệt hữu nhân,
Vịnh Thạch Phu Phụ, Quá Khinh Dao từ hoài cổ, Ngư Ông khúc hành, Tái
ngoại văn châm, Bán chẩm thư hoài.. Tám bài Vịnh cảnh Hạ Long (nay
còn 5 bài) và tám bài thơ Vịnh Cảnh Đồ Sơn.. Các tác giả thế kỷ 19
không nhìn Hồ Xuân Hương như một nhà thơ dâm tục.
Năm Hồ Phi
Mai, 18 tuổi, năm 1790, Nguyễn Du sau ba năm lưu lạc giang hồ Trung Quốc,
sau cuộc khởi nghĩa chống Tây Sơn tại Tư Nông, tỉnh Thái Nguyên thất
bại, cùng Quyền Trấn thủ Thái Nguyên là Nguyễn Đăng Tiến tức Nguyễn
Đại Lang (trong Thanh Hiên thi tập), Cai Già (trong Lịch Triều Tạp Kỷ)
Cai Gia (trong Hoàng Lê Nhất Thống Chí) và Nguyễn Quýnh (tức Nguyễn
Sĩ Hữu) họ bị chỉ huy Giáo bắt và giải về cho Vũ Văn Nhậm (theo Lê
Quý Kỷ Sự, tr. 100). Nhậm trân trọng khí khái tha chết và cho muốn đi
đâu thì đi. Hai câu : “Sinh tử giao
tình tại, Tồn vong cùng khổ khi”
bài Biệt Nguyễn Đại Lang của Nguyễn Du cho biết ông cũng bị bắt và
cùng được tha trong trận này. Sau đó họ lên đường đi Vân Nam, nơi cách
Trường An ngàn dậm, có tuyết, có lá vàng rơi, trưởng giả còn ăn mặc
theo thời nhà Hán (không thắt bính đuôi sam, ăn vận theo nhà Thanh) và
không dùng lịch nhà Tần (họ dùng lịch theo Tây Tạng). Tại Vân Nam, vì
không quen khí hậu miền núi Nguyễn Du bị bệnh ba tháng xuân, phải bán
con ngựa đi đường và ở nhà người thầy thuốc để chữa bệnh (Dược phố
xuân hàn lũng trúc sơ), Vườn thuốc đìu hiu lạnh trúc thưa, bài Sơn cư
mạn hứng). Hết bệnh Nguyễn Du thực hiện ước mơ mình, “Ná đắc khiêu
ly phù thế ngoại”, Ước gì thoát khỏi vòng trần tục (bài Sơn Thôn),
Nguyễn Du đã xuất gia thành nhà sư mang danh hiệu Chí Hiên, danh hiệu
dùng cho đến năm 1796, hai bài thơ Chí Hiên tặng trong Lưu Hương Ký. Theo
gương Lý Bạch lúc 21 tuổi, mặc áo trắng đạo sĩ, mang trường kiếm đi
ngao du khắp Ngũ hồ và các sông Giang Bắc Giang Nam, ngày dạo chơi
thắng cảnh ban đêm trú chân nơi các đạo quán trên đường đi. Nguyễn Du
thành nhà sư Chí Hiên, cũng “Giang Nam Giang Bắc nhất nang không”, (bài
Mạn Hứng II), Giang Bắc, Giang Nam một túi không, ngày dạo chơi thắng
cảnh ban đêm trú chân trong các chùa trên đường đi, tụng kinh Kim Cương,
nhà chùa đãi cho món ăn rau đậu,và tặng xôi oản. Trong túi vải Nguyễn Du có bản Kinh Kim Cương chú giải
của Lê Quý Đôn, quyển sách được trí thức Bắc Hà yêu chuộng thời bấy
giờ, Nguyễn Du đi khoảng gần 5000 km (Vạn lý hoàng quan tương mộ cảnh,
Muôn dậm mũ vàng chiều nắng xế, bài Mạn Hứng II) và đọc Kinh Kim
Cương nghìn lượt (ba năm) bài Phân Kinh Thạch Đài.
Đến Liễu
Cao Lâm, Liễu Châu họ chia tay nhau, Nguyễn Đại Lang về thăm quê cũ ở
Việt Đông, vùng Quế Lâm cao sơn lưu thủy, và hẹn gặp lại tại Trung
Châu. Nguyễn Sĩ Hữu trở về làm chủ Hồng Lĩnh, khởi nghĩa chống Tây
Sơn. Nguyễn Du đến Quế Lâm thăm mộ Quế Lâm Cù Các Bộ và lăng mộ Quế
Vương nhà Minh (khi đi sứ sang triều đình nhà Thanh, Nguyễn Du ở công quán không thể đi thăm mộ và di
tích những người Phản Thanh Phục Minh), sau đó đi theo sông Tương, Mịch
Giang thăm nơi Khuất Nguyên trầm mình. (Viết bài Ngũ nguyệt quan cạnh
độ) xem đua thuyền nhân lễ Đoan Ngọ, mùng 5 tháng 5, khi đi sứ Nguyễn
Du qua nơi này tháng 7 và trở về
tháng 3 Âm lịch. Nguyễn Du còn viết
bài Phản Chiêu Hồn bài bác thơ Tống Ngọc, mượn cớ để nói chuyện
chính sự Việt Nam đời Tây Sơn :”Về thành Yên thành Dĩnh làm chi nữa,
Thành quách y nguyên dân sự khác, Cát bụi lấm cả quần áo người, Đi
ra xe ngựa, về vênh váo, Lên mặt Cao, Quỳ tán chuyện đời..” và
bài Trường Sa Giả Thái Phó : “Trời
ban tài lạ không có chỗ dùng.” Khi đi sứ Nguyễn Du đã được vua Gia
Long biết tài, trọng dụng tất nhiên không còn viết như thế.
Nguyễn Du
đến thành Tín Dương, khi trận chiến Tây Sơn thắng Tôn Sĩ Nghị năm Kỷ
Dậu 1789 đã xãy ra, cách biên giới trăm dặm dân chúng Trung Quốc hoảng
sợ bỏ chạy theo tàn binh rút lui. Trận chiến làm rung động cả đất
khách. (Tây Phong biến dị hương, bài Tín Dương tức sự).
Nguyễn Du
đến Vũ Hán rồi sang sông Hán Dương đi Trường An (Ngã biệt phù Giang
Hán) tại Trường An (tức Tây An, Thiểm Tây) làm bài Dương Phi Cố Lý,
quê Dương Ngọc Hoàn tại làng Hoàng Nông huyện Hòa Âm tỉnh Thiểm Tây
và Bùi Tấn Công Mộ tại Vị Thành, Trường An. Sau đó đi Lạc Dương kinh
đô nhà Tùy, nơi đây có chùa Bạch Mã, ngôi chùa tổ đình, đầu tiên của
Phật Giáo Trung Quốc lập năm 65 sau công nguyên, Nguyễn Du thăm đình Tô Tần , đình chỉ
có tại Lạc Dương quê hương ông, Nguyễn Du viết hai bài thơ Đình Tô Tần,
và bài Phân Kinh Thạch Đài có nhắc đến bạch mã. Sau đó Nguyễn Du
theo kênh đào Đại Vận Hà đi Hàng Châu, nơi đây Miếu Nhạc Phi, Nguyễn Du dừng chân nơi
này khá lâu nên viết 5 bài thơ. Tôi cho rằng đây là điểm hẹn “Tương
kiến tại Trung Châu” với Nguyễn Đại Lang, trong bài Biệt Nguyễn Đại
Lang. Trước Miếu Nhạc Phi có con đê
Tô, do Tô Đông Pha khi làm Thứ Sử Hàng Châu đã cho nạo vét lòng hồ đắp
thành đê, nối liền Miếu Nhạc Phi với chùa Hổ Pháo, nơi Từ Hải từng
tu hành với danh hiệu Minh Sơn hòa thượng trước khi thành nụy khấu,
cướp biển. Nguyễn Du có bản Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tân Tài Nhân
nơi này, tại Hàng Châu đã khắc bản gỗ in ấn và bán thời nhà Thanh.
Tôi bác bỏ thuyết cho rằng Nguyễn Du đi ngang Miếu Nhạc Phi ở Thang Âm
quê hương ông vì nơi đây không có núi Thê Hà như thơ mô tả, cũng không
có tượng vợ chồng Tần Cối quỳ chịu tội cùng Trương Tuấn, tên tướng
bắt Nhạc Phi và tên cai ngục Vạn Sĩ Tiết. Ngô Thời Nhiệm khi đi sứ
triều Tây Sơn, trong Hoàng Hoa đồ phả có bài thơ Miếu Nhạc Phi tại
Thang Âm.
Sau khi gặp
lại Nguyễn Đại Lang, họ cùng đi Yên Kinh (Bắc Kinh) gặp quần thần Lê
Chiêu Thống, họ đã bàn việc xin nhà Thanh một tỉnh Thái Nguyên, như
nhà Mạc xin Lạng Sơn, làm hương hỏa nhà Lê, nhưng không thành, vì Tể
Tướng Hoà Thân tiếp sứ thần Tây Sơn do Ngô Vi Quý mang quà tặng riêng,
nên đày các quần thần nhà Lê đi xa. Phan Huy Ích và Đoàn Nguyễn Tuấn
có thơ tặng Ngô Vi Quý khi hai đoàn sứ gặp nhau tại Vũ Hán. Nguyễn
Đại Lang cùng Nguyễn Du quay trở về đến Hoàng Châu vào mùa thu năm
1790, thì gặp Đoàn Nguyễn Tuấn phó sứ trong sứ đoàn Phan Huy Ích.
Đoàn có tặng văn nhân họ Nguyễn hai bài thơ, cho biết họ bàn luận sôi
nổi chuyện văn chương (Hồng nhan đa truân), Đoàn Nguyễn Tuấn cho tin
Nguyễn Nể ( anh cùng cha cùng mẹ, còn gọi Nguyễn Đề, Nể là kính
nể, Nễ dấu ngã không có nghĩa) đã ra làm quan Tây Sơn làm Hàn Lâm
thị thư, đã đi sứ và cố vấn cho
vua Quang Trung, ngày ngày nhà vua gióng ngựa quý sang thăm bàn việc
nước. Đoàn Nguyễn Tuấn, Phan Huy Ích phải tiếp tục đi Nhiệt Hà, cung
điện mùa hè vua Càn Long đang nghỉ nơi này, và hẹn gặp lại Nguyễn Du
vào mùa xuân. Nguyễn Du đi xe song mã về đến Long Châu, sông Long Thủy,
xóm Nam Đài và trở về Thăng Long.
Nguyễn Du
về sống tại Thăng Long, nương tựa anh Nguyễn Nể, nhưng nơi dinh thự cũ
bị kiêu binh phá, và trận cháy lớn do Lê Chiêu Thống sai đốt phủ Chúa
Trịnh khi chúa Trịnh Bồng trốn đi, toàn bộ Thăng Long thành tro khói,
Nguyễn Nể khi ra làm quan đã cho xây dựng lại mới nơi nền cũ nhà cụ
Nguyễn Nghiễm tại Bích Câu. Nhưng nơi đây thường hội họp ca hát với
quan tướng Tây Sơn, bài Long Thành cầm giả ca cho biết Nguyễn Du chỉ
đứng trong bóng tối xem ca hát, Nguyễn Du không ở với anh mà ra ở nơi
Gác Tiá, nơi câu cá của anh Thượng Thư Nguyễn Khản cạnh đền Khán
Xuân. Tại đây Nguyễn Du quen cô hàng xóm Xuân Hương Hồ Phi Mai, tuổi vừa
18, cùng đi hái sen với nàng và mối tình ba năm. (Chữ tình chốc đã
ba năm vẹn, Bài Cảm Cựu kiêm trình Cần Chánh Học Sĩ Nguyễn Hầu, Hầu
Nghi Xuân Tiên Điền nhân.) Những ngày
gặp gỡ Hồ Xuân Hương viết bài Duyên kỳ ngộ và Hỏi Trăng, Nguyễn Du
ghi lại mối tình cô hàng xóm bằng bài Mộng đắc thái liên (Mơ thấy
hái sen).
Năm 1792,
vua Quang Trung mất, Nguyễn Nể nhận được nhiệm vụ mới phải vào Phú
Xuân, giữ chức vụ Trung Thư Lĩnh và dạy dỗ vua Cảnh Thịnh mới lên
mười. Nguyễn Du và Nguyễn Ức được anh trao nhiệm vụ và tiền bạc về Tiên Điền xây dựng lại làng Tiên
Điền, từ đường họ Nguyễn, đình làng, chùa, cầu Tiên bị tướng Lê Văn Dụ đốt phá năm 1790 do cuộc
khởi nghĩa Nguyễn Quýnh chống Tây Sơn.
Nguyễn Du báo tin này cho Hồ Phi Mai và nàng viết bài : Tưởng
đáo nhân tình minh nhiên hạ lệ tẩu bút phụng trình. Hồ Xuân Hương tiễn đưa Nguyễn Du về Hồng
Lĩnh tại Thạch Đình, bến thuyền bên sông Vị Hoàng, Nam Định. nàng
viết bài Giang Nam phụ níp kiêm lưu biệt hữu nhân (Lưu biệt bạn khăn
gói sang sông Nam) trong cuộc tiễn đưa này Nguyễn Du viết bài Thạch
Đình tặng biệt, và Hồ Xuân Hương họa lại bài Họa Thanh Hiên nguyên
vận.
Nguyễn Du
về Tiên Điền dựng nhà tranh bên bến Giang Đình, sách vở thư viện không
kém gì thư viện Phúc Giang dòng họ Nguyễn Huy Trường Lưu, bị đốt
mười phần chỉ còn lại một hai
chất bốn vách, ngoài sân trồng khóm cúc vàng, nơi này tiếp nhận gỗ,
gạch chở bằng thuyền đến. Nguyễn Ức chỉ huy vẽ kiểu xây cất, Nguyễn
Ức thừa hưởng cái tài khéo léo xây cất của anh Nguyễn Khản, dinh
thự Chúa Trịnh đều do tay Nguyễn Khản, về sau Nguyễn Ức làm Thiêm Sự
Bộ Công, kinh thành Huế thời Gia Long đều do ông vẽ kiểu và chỉ huy
xây dựng, Lê Quý Thanh con Lê Quý Đôn coi phong thủy.
Thời gian
Nguyễn Du ở Tiên Điền, khi có dịp người đi về, Nguyễn Du và Hồ Xuân
Hương trao đổi thơ từ, ta có thể dễ dàng nhận ra những bài thơ đối
đáp qua những chữ dùng như thanh chiên, Tây phong, nhạn ảnh, hàn trùng,
giấc mộng, Tây Hồ.. được lập lại.
Hồ Xuân Hương gửi bài Nhân Tặng Nguyễn Du đáp lại bằng bài Ký Hữu
(Gửi bạn), nàng viết bài Thu dạ hữu hoài chàng trả lời bằng bài
Thu Dạ I, nàng lại đáp bằng bài Thu Vũ, khóc khi nghe tin Nguyễn Du
bệnh vào cuối năm. Nguyễn Du lại đáp bằng bài Thu Dạ II. Hồ Xuân
Hương đáp lại bằng bài Cố Kinh thu nhật dùng chữ thanh chiên, Nguyễn
Du đáp bằng bài Khai Song cũng dùng lại chữ thanh chiên, Xuân Hương
viết bài Thu Nhật tức sự cho biết Tây Sơn ra Bắc, Nguyễn Du cũng đáp
lại Thu nhật ký hứng, lập lại chữ Tây phong, cho biết Tây Sơn ra Bắc
nên chàng không ra Thăng Long được. Hồ Xuân Hương còn cho biết có người
đến ve vản nàng và mẹ thúc ép nàng nhận lời lấy chồng: “Thẩn thơ
trước viện nhà khoe gió, Đồng vọng bên tai địch thét đâu. Ướm hỏi
trăng già khe khắc lắm. Trêu nhau chi những sợi cơ cầu.” Nguyễn Du viết
bài Ký Mộng, mơ Xuân Hương về thăm mình: “Mộng đến ngọn đèn sáng,
Mộng đi gió lạnh lùng, Giai nhân nào thấy nữa, Lòng ta rối tơ vương.”.
Hồ Xuân Hương bài Cảm Cựu.. nhắc lại: “Giấc mộng rồi ra nửa khắc
không”.
Trở về
Hồng Lĩnh, Nguyễn Du làm Hồng Sơn liệp hộ, dẫn chó vàng đi săn, nhưng
thương xót loài nai, hoảng nên chỉ đến để nhìn dấu mùi nai còn thơm
trên cỏ ướt, không nỡ giết hại các loài, lòng chẳng cầu danh lợi,
nên chỉ “đi săn” được măng non và củ mài..
Năm 1796,
khi Nguyễn Ánh đánh tới thành Diên Khánh,
Nguyễn Du lại làm Nam Hải điếu đồ, đi câu cá và kiếm thuyền đi
về phương Nam. Nguyễn Du bị Quận
công Nguyễn Văn Thận trấn thủ Hà Tĩnh bắt giam mười tuần, chờ đến
ngày bạn là Nguyễn Nể đi sứ mừng lễ vua Càn Long truyền ngôi cho con
về thì thả ra. Nguyễn Du ra đến Thăng Long thì hay tin, trong lúc chàng
nằm tù, thì mẹ Hồ Xuân Hương đã gả nàng cho anh Lang, con Thầy Lang
xóm Tây làng Nghi Tàm. Nguyễn Du viết hai bài Chí Hiên tặng, oán
trách nàng tệ bạc, và “cảnh cáo” nàng : “Có mắt mà xem mặt nước
non “. Nguyễn Du được Nguyễn Nể đi
sứ về, mai mối cùng Đoàn Nguyễn Tuấn cưới cô em út họ Đoàn (sinh
trước năm 1775, năm cụ Đoàn Nguyễn Thục mất). Nguyễn Du về Quỳnh Hải,
Thái Bình sống cuộc đời hạnh phúc với vợ, chấm dứt cuộc đời “mười
năm gió bụi”. Điều này phản bác gia phả sách vở, cho rằng mười năm
gió bụi là thời gian Nguyễn Du sống nơi quê vợ, và ngược với câu thơ
Nguyễn Hành viết về chú: “Giang hồ, long miếu hai điều đủ. Thi họa
cầm thư bốn nghệ tinh”. Nguyễn Du
có cuộc đời giang hồ nghĩa là đi rong chơi trên các sông và các hồ
lớn Trung Quốc như Phạm Lãi, Lý
Bạch, khác nghĩa chữ “giang hồ” ngày nay. Thời gian từ 1786 đến 1796,
Nguyễn Du 20 đến 30 tuổi, là thời gian mười năm gió bụi, Nguyễn Du đi
rong chơi đây đó, từ Thái Nguyên đi Trung Quốc, lại về Thăng Long Tây Hồ
câu cá, về Hồng Lĩnh bị tù, nhà cửa dinh thự Bích Câu lẫn Tiên Điền
đều bị đốt cháy, làng Tiên Điền thành chiến địa bị làm cỏ, yêu
đương lại dang dỡ với Cô Cúc làng Trường Lưu, cô Xuân Hương làng Nghi
Tàm. Thu Cúc Xuân Lan thành mộng ảo. Từ năm 30 tuổi, (1796) sống hạnh
phúc bên vợ, Nguyễn Du dạy văn, dạy võ, cho đến khi Gia Long ra Bắc năm
1802. Nguyễn Du dẫn học trò, tráng đinh ngựa, bò lương thực dâng sớ
tiếp đón vua Gia Long, đến huyện Phù Dung thì gặp vua, nhà vua phong
ngay cho Nguyễn Du làm Tri huyện Phù Dung, trấn Sơn Nam. Sự kiện này
giống như Phi Tử thời Chiến Quốc dâng ngựa cho vua Chu Hiếu Vương, được
phong chức Phụ Dung, nên Nguyễn Du có danh hiệu là Phi Tử, Nguyễn Hành
nhắc đến trong bài Đi Săn.
Thơ Tốn
Phong viết: “Mai quả đã từng ba độ kết”, nghĩa là Hồ Xuân Hương ba
lần lấy chồng. Dựa vào thơ Lưu Hương Ký, Giáo sư Hoàng Xuân Hãn nhận
thấy có ba khoảng trống nàng vắng làm thơ: 1794-1798, 1802-1806 và
1810-1813. Tương truyền lần thứ nhất nàng lấy một thầy Lang, thầy
thuốc mất sớm, nàng viết bài Bà Lang khóc chồng, lần thứ hai lấy
Tổng Cóc, một viên chánh tổng tên Cóc, và lần thứ ba tri phủ Vĩnh
Tường. Gs Hoàng Xuân Hãn bác bỏ việc lấy tri phủ Vĩnh Tường, vì
trước năm 1822, phủ mang tên Tam Đái suốt thời Gia Long, năm 1821 đổi ra
Tam Đa, năm 1822 mới đổi thành Vĩnh Tường. Do đó bài thơ Khóc ông phủ
Vĩnh Tường chỉ là bài thơ do người đời sau viết, hay sửa đổi thơ Hồ
Xuân Hương khóc Trần Phúc Hiển.
Khi Nguyễn
Du bị tù, mẹ Hồ Xuân Hương đã gả nàng cho anh Lang con thầy Lang xóm
Tây làng Nghi Tầm, Thơ Phạm Đình Hổ bài Hoài Cổ trêu chọc Hồ Phi
Mai: “Năm xưa hoa đào nở, Em tôi học
cài trâm, Năm nay hoa đào nở, Mẹ gả xóm Tây gần.. Em nhìn hoa mà
khóc, Sầu vương nét mi cong”. Thầy thuốc ngày xưa đi chữa bệnh, bốc
thuốc cam thảo, trần bì.. anh Lang trẻ chưa có kinh nghiệm, không đọc
sách Vệ Sinh Toát Yếu của Hải Thượng Lãn Ông, nên gặp những bệnh lây
nhiểm như bệnh dịch, bệnh lao.. thì cũng đi đời như bệnh nhân, Hồ Xuân
Hương góa chồng sớm.
Một mối
tình ghi dấu trên thơ Lưu Hương Ký từ năm 1799 đến 1801, năm Hồ Xuân
Hương 27, 29 tuổi là mối tình với Mai Sơn Phủ. Mai Sơn là bút hiệu,
Phủ là tiếng sang trọng để xưng người đàn ông. Phạm Đình Hổ bút
hiệu là Tùng Niên (cây tùng lâu đời nhựa thành hổ phách), nên gọi là
Tùng Niên Phủ. Nguyễn Kính là Kính Phủ. (Nguyễn Kính thường cùng
Phạm Đình Hổ đi thăm chùa Kim Liên, năm 1807 làm Tri huyện Phù Dung nơi
Nguyễn Du từng trấn nhậm) Mai Sơn Phủ người Vịnh Phố, tức Vinh ngày
nay. Mai Sơn Phủ yêu nàng ngỏ ý xin cưới nàng hai người từng cắt tóc,
trích máu vào chung rượu thề nguyền, nếu phụ lòng nhau sẽ bị trừng
phạt bằng dao búa. “Dao búa nguyền xin lụy đến mình”. Mối tình Mai
Sơn Phủ đã để lại cho Hồ Xuân Hương những bài thơ tình nồng nàn thắm
thiết : Thuật ý khiêm trình hữu nhân Mai Sơn Phủ, Thu nguyệt hữu ức
Mai Sơn Phủ. Nguyệt dạ ca.. Bài Điệu ca Xuân Đình lan : “Tâm ở Vu Phong,
Hồn ở Vu Phong. Ân ái cuộc tao phùng”, Hồ Xuân Hương thổ lộ không dấu
diếm hai người đã ân ái với nhau. Mai Sơn Phủ tài thơ kém hơn Hồ Phi
Mai, nên bài Thu Tứ Ca mượn cả bốn câu thơ cổ nổi tiếng tương truyền
của một vị vua Trung Quốc: Thu phong
khởi hề bạch vân phi.. để rồi thề thốt:
Ta có rượu chừ không bạn uống, Ta có đàn chừ chẳng tri âm. Và
chàng thề không uống rượu và chẳng gảy đàn, chàng chỉ uống trà xanh
thôi để nhớ tới nàng.
Mai Sơn Phủ
từ biệt Xuân Hương, về quê làng Liên Cừ, Vịnh Phố, Phạm Đình Hổ trong
bài Tống Liên Cừ Mai Công phó Vị Hoàng, mùa hè xa cố đô, mà Hồ Phi
Mai khóc sướt mướt : Sơ mai hương
đậu Hoàng Giang vũ. Hoàng giang mưa điểm hương mai nở. Mùa hè làm gì
có mai nở, chỉ có Phi Mai khóc.
Mai Sơn Phủ
về đến quê nhà, có lẽ bị cha mẹ bắt gả vợ, chàng đã phụ lời thề
hay đã chết vì dao búa trong chiến tranh ? Tháng ba năm 1801. Nguyễn
Ánh chiếm Quảng Nam, sau đó thừa thắng tiến đánh Đà Nẵng, tháng năm
thủy quân đánh cửa bể Tư Dung, thừa thắng kéo vào kinh thành Phú
Xuân. Vua Quang Toản bỏ kinh thành chạy ra Bắc, trận chiến tiếp diễn
tại Nghệ An, Thanh Hoá, trấn thủ Nguyễn Văn Thận chạy ra Thanh Hoá bị
bắt giết. Tháng năm Nhâm Tuất 1802. Nguyễn Ánh lập đàn ở đồng An
Ninh, Phú Xuân tế trời đất lên ngôi đặt niên hiệu Gia Long. Trong lúc
đó Nguyễn Nể được lệnh triều Tây Sơn đưa La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp
về Phú Xuân, đang kẹt trong chiến trận thì được Gia Long cho gọi đến.
Gia Long tha cho Nguyễn Thiếp về quê quán, và đem theo Nguyễn Nể theo
hầu để hỏi chuyện đi sứ xin phong vương. Do đó người đi theo Gia Long
từ Phú Xuân ra Thăng Long không phải là Nguyễn Du như gia phả Nguyễn Tiên Điền viết mà là Nguyễn Nể.
Trong tình
hình đó Hồ Xuân Hương viết bài Tự Thán I, II “Nghĩ cùng thế sự lòng
như đốt, Trong suốt nhân tình dạ muốn say. Muôn kiếp biết là duyên
trọn vẹn, Một đời riêng mấy tiếng chua cay.”. Mối tình Mai Sơn Phủ
chấm dứt nơi đây, ta không biết được số phận Mai Sơn Phủ thế nào,
trong giai đoạn cuộc chiến dữ dội. Nhưng Hồ Xuân Hương thì đau điếng,
miệng lưỡi người đời chua cay dèm pha tình nàng với Mai Sơn Phủ. Trong
cơn túng quẩn, quán trà ế khách, trường thiếu học trò, chiến tranh
sắp xãy ra tại Thăng Long, bỗng có chàng Tổng Cóc Nguyễn Công Hoà,
học trò cũ của cha, đến ve vãn, rước nàng về dạy kèm cho con, đưa nàng
lánh nạn lên Vĩnh Phú nay thuộc Hưng Yên, năm đó nàng 29 tuổi, mở đầu
thời kỳ: Mười năm lận đận như ăn trộm bịt tai đi trộm chuông. Thập
tải phong trần quán nhỉ linh. (1801-1811)
Cóc tiếng
Việt ngày xưa có nghĩa là Biết. Cóc hay thân ảo (Phú Cư trần lạc
đạo của Vua Trần Nhân Tôn). Ba, bốn làng ngày xưa họp lại thành một
Tổng, làng có chế độ tự trị rộng rãi, phép vua thua lệ làng, Hội
đồng Hương chính do các người đàn ông thế lực trong làng cử ra. Quyền
hành triều đình chỉ đến cấp huyện, do triều đình bổ nhiệm một vị
Cử nhân hay Tiến sĩ trấn nhậm, Cai Tổng là một chức vị trung gian
không có thực quyền, chẳng có lương bổng, liên hệ giữa Hội đồng Hương
chính làng với quan Tri huyện, do đó các làng thường cử một người
giàu có ruộng đất làm công việc này.
Ông Cai Tổng chỉ vác ô đi ăn
đám giỗ. và nhận quà cáp dân chúng biếu xén dăm con cá rô, cá lóc
khi tát ao ruộng. Cai Tổng phải biết chữ nho để đọc các Sắc, Lệnh
của vua quan, hay Sớ trong các buổi lễ, do đó Tổng Cóc không phải là
người dốt.
Theo tài
liệu Nguyễn Hữu Nhàn trong bài Hồ Xuân Hương và Tổng Cóc. Hồ Xuân
Hương Thơ và Đời, Văn Học Hà Nội 1989, trang 218, tài liệu do cụ Dương
Văn Thâm cung cấp. Tổng Cóc người Tứ Xã tên thật là Nguyễn Bỉnh Kình, tự là Nguyễn Công
Hòa, dòng dõi Nguyễn Quang Thành, đỗ Tiến sĩ năm 1680. Tổng Cóc từng
là một nho sinh, từng lều chỏng đi thi nhưng không đỗ. Tổng Cóc tính
ăn chơi, chẳng bao lâu cửa nhà sa sút, vợ Cả ghen. Tổng Cóc bỏ đi
biệt sau khi Hồ Xuân Hưng có thai ba tháng.
Bài thơ
Gửi Tổng Cóc, câu thơ Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi, nói ngược
lại sự việc trên. Hồ Xuân Hương bỏ Tổng Cóc, chứ không phải Tổng Cóc
bỏ Hồ Xuân Hương, cũng không phải Tổng Cóc chết, Hồ Xuân Hương mắng
nhiếc, như Xuân Diệu và nhiều nhà bình thơ giải thích. Cóc ngày xưa
vào nền nhà bằng đất, cóc thường trốn vào gầm giường xó bếp, đánh
đuổi đi cóc cũng trở lại chỗ cũ, chỉ có bôi chút vôi ăn trầu vào
cóc là cóc bỏ đi mất tiêu. Do đó câu thơ có nghĩa là: Dù có cho tôi nghìn vàng, tôi cũng không
trở về với anh, như cóc đã bị bôi vôi.
Hồ Xuân
Hương, trở về Tây Hồ, theo tôi do nàng nhận được bài thơ Độc Tiểu
Thanh Ký của Nguyễn Du. Câu thơ “Bách tri tam bách dư niên hậu, Thiên hạ
hà nhân khấp tố như.” Có nghĩa là Không biết rồi đây ba trăm năm nữa,
Ai sẽ khóc người phẩm hạnh cao quý như nàng Tiểu Thanh. Hiểu “tố như” là Nguyễn Du là chuyện
phi lý, sáu câu đầu viết về nàng Tiểu Thanh bổng nhiên câu kết, tự
hỏi ai khóc mình, là thơ lạc đề. Nguyễn Du không thể làm thơ lạc đề,
Nguyễn Du không phải là phụ nữ, cũng không phải là kẻ đồng tính
luyến ái để sánh mình với phụ nữ. Ngày xưa nam nhi không ai sánh
mình với phụ nữ. Tố như chỉ xuất hiện duy nhất trong bài thơ này,
Tố theo Tự điển Thiều Chửu có
nghĩa là tơ trắng, là người (phụ nữ) phẩm hạnh cao quý, như là như
thế, như vậy. Không ai chứng minh được Nguyễn Du là phụ nữ hay một
người á nam á nữ, thì “tố như” chỉ là một sự lầm lẫn như người
viết Gia phả Tiên Điền đã lầm như
Lê Quý Kỷ Sự của Nguyễn Thu thành Nguyễn Du, hay Đoàn Nguyễn Tuấn
cùng Nguyễn Du chống Tây Sơn tại Quỳnh Hải, trong lúc Đoàn Nguyễn Tuấn
làm quan thị thần bên cạnh vua Quang Trung.. Hồ Xuân Hương trở về đáp
lại thơ Nguyễn Du :”Tây Hồ hoa uyển tận thành khư”, Tây Hồ vườn cảnh
đã hoang vu, bằng: “Tây Hồ phong
cảnh vẫn như xưa.” bài Chơi Tây Hồ nhớ bạn.
Việc Hồ
Xuân Hương, có thai và sinh con, được Tốn Phong xác nhận: “Chốn dời,
mai đã nẩy thêm cành”, tiếc thay con nàng mất sớm sau khi sinh.
Hồ Xuân
Hương trở về Thăng Long, mở quán sách khoảng năm 1804-1807, với sự
giúp đỡ của bạn bè như Phạm Đình Hổ cho mượn năm ba quan tiền, nàng
mở quán bán sách bút kế bên trường ông Nghè Phạm Quý Thích
(1760-1825), người bạn thân thiết của Nguyễn Du, mở ở Phố Nam thành
Thăng Long, thôn Tiên Thị, tổng Tiên Túc, huyện Thọ Xương, gần đền Lý
Quốc Sư Nguyễn Minh Không và chùa Báo Thiên (khu Nhà Thờ Lớn Hà Nội
ngày nay). Nhà Nguyễn Kính cũng ở gần nơi này. Quán sách không lời
vì những cậu học trò nhỏ như Phương Đình Nguyễn Văn Siêu (1799-1872)
lúc đó mới 8 tuổi, “Dê cỏn buồn sừng húc dậu thưa”, đến ngắm bà
chị 35 tuổi, sắc đẹp đổ nước nghiêng thành, các quan thị từ cung vua
Lê, chúa Trịnh, cung điện cháy chẳng còn nơi ở, thất nghiệp đến la
cà, hay anh chàng Cư Đình không nhà sống trong đình làng.. khách hàng
như thế thì chẳng mua bán được gì!.. Hồ Xuân Hương bán các sách
truyện: Nữ Tú, Phương Hoa, Tuyển Phu, Chinh Phụ, Bích Câu Kỳ Ngộ..
(bài Cô Hàng Sách) và dĩ nhiên các sách Giáo khoa Nho học đương thời:
Tam Tự Kinh, Sơ học vấn tâm, Ấu học ngữ ngôn thi, Minh Tâm bảo giám.
Minh đạo gia huấn. Tứ Thư, Ngũ Kinh.. Sách Toát Yếu, sách “học tủ”
để đi thi của cụ Nghè Bùi Huy Bích dạy học làng Thịnh Liệt, Thanh
Trì, và những sách do thương nhân Trung Quốc từ Quảng Đông đưa sang:
Xuân Thu Chiến Quốc, Tam Quốc Chí, Liêu Trai Chí Dị, Đào Nguyên ký, Nam
Hoa Kinh, Minh Sử, Tống Sử.. điều này chứng minh sau thời gian bán
sách thơ Hồ Xuân Hương dùng nhiều điển tích hay lạ khác với ngày
trước thơ ứng khẩu.
Thời kỳ
1807-1811. Hồ Xuân Hương xoay qua nghề đi buôn sách bút tại các nơi, thơ
nàng lưu dấu nhiều nơi : Đền Sầm
Nghi Đống, chùa Hương Tích ở Hà Đông, Đá ông Chồng Bà Chồng ở Tuyên
Quang, Kẽm Trống ở Ninh Bình, Đèo Ba Dội núi Tam Điệp, Quán Khánh ở
Thanh Hóa.. Hồ Xuân Hương bán cả sách bút cho cả các quan trấn nhậm,
đó là cơ hội nàng gặp gỡ Trần Quang Tĩnh Hiệp Trấn Sơn Nam Hạ (vùng
Nam Định), Trần Ngọc Quán Hiệp Trấn Sơn Nam Thượng tại Châu Cầu và
Trần Phúc Hiển, Tri phủ Tam Đái (Việt Trì). Các quan trấn nhậm, xa
quê quán, xa vợ con gặp một người đẹp sắc nước hương trời biết xướng
họa thơ, đến bán sách bút thì chắc nàng bán gì cũng mua hết. Tuy
nhiên tình hình loạn nông dân Đặng Đình Siêu và Võ Đình Lục từ 1810 đến 1822 làm tình
hình vùng Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ bất an, các phụ nữ xinh đẹp đi
buôn có khi mất cả vốn lẫn người. Năm 1811, người bạn thân Tử Minh
lại mất, để lại lớp học, vợ và hai con dại, Hồ Xuân Hương phải đảm nhận lớp học Cổ Nguyệt
Đường.
Lưu Hương
Ký từ đây lưu lại các mối tình xướng họa thơ văn với Tốn Phong, Trần
Ngọc Quán, Trần Quang Tĩnh và người chồng Trần Phúc Hiển.
Tốn Phong
cùng họ với Phan My Anh, người Hoan Châu huyện Thạch Hà, nơi chánh
quán. dòng họ Phan Huy Ích. Bài thơ số 10 Tốn Phong cho Hồ Xuân Hương
địa chỉ: Từ biệt trường đình nàng còn nhớ. Ghi lấy Hoan Nam, Thạch
Ẩn nhi. Tốn Phong họ Phan Huy tên
Huân hay Nam Sơn, Huân là Gió Nam, Phong còn có nghĩa là núi, Núi Nam
hiệu là Nham Giác Phu là người ẩn trong núi mà hiểu sự đời. Đến
Thăng Long, Tốn Phong ở cạnh hồ Kim Âu nơi Cửa Giám (Văn Miếu), Phan Huy Ích có mở nhà học
nơi này, có nhiều thầy dạy họ Phan, như Phan Mậu Hiên, có lẽ Tốn
Phong là một người dạy nơi này. Sau khi Gia Long lên ngôi, triều đình
Huế mở khoa thi đầu tiên năm 1807 đến năm 1813 mới mở khoa thi Hương thứ
hai. Tốn Phong đi thi trường Nghệ, nhưng cả hai khoa đều hỏng. Tốn Phong
đã có vợ nhưng tán tỉnh nàng “Lạ mặt dám quen cùng gió nước” tại
quán sách, chàng ví mình như như
anh thuyền chài lạc Vũ Lăng đến chốn Đào Nguyên, chàng ăn mặc áo xanh
lục bảnh bao, xức nước hoa xạ hương : Sương xoa áo lục nhồi hương xạ,
dáng đi thơn thớt: Gió lọt cành lê
lướt mặt hồ. Nhưng Hồ Xuân Hương trải qua bao kinh nghiệm tình ái
: Trong trần mấy kẻ tinh con mắt.
Biết ngọc mà trao mới kể cho, nhưng yêu
Tốn Phong thì không vì : Tơ nguyệt rày xe ba mối lại, Hỏi khách
đa tình nhẽ có hay. Năm canh hồn bướm thêm bơ bãi. Ông tơ bà nguyệt
không có tài se được ba mối tơ : chàng, vợ chàng và tôi vào một, Xuân
Hương sợ dấn thân vào cảnh khổ một anh đồ nghèo, sợ hãi như cánh
bướm bay bơ vơ bừa bãi nên từ chối. Năm 1814 gặp lại Xuân Hương, mối
tình si đã hết, Xuân Hương đưa tập thơ Lưu Hương Ký cho Tốn Phong đề
tựa, và kể chàng nghe những mối
tình, chàng cũng cầu chúc cho Xuân Hương
sớm hạnh phúc với Tham Hiệp Yên Quảng Trần Phúc Hiển. Chàng
trở về Hoan Châu với lời thề như Tư Mã Tương Như, không lập công danh
không trở lại qua cầu này, chàng đã thi hỏng, từ đó không còn trở
lại gặp Xuân Hương và bạn Cư Đình ở Thăng Long.
TÌNH BẠN
HỒ XUÂN HƯƠNG VÀ PHẠM ĐÌNH HỔ (1768-1839)
Phạm Đình
Hổ là một cây bút tài hoa, Vũ Trung Tùy Bút, chuyện viết lan man
trong ngày mưa, ông mô tả toàn cảnh xã hội Việt Nam, ngày nay muốn
tìm hiểu về xã hội Việt Nam thời Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương không thể
không đọc sách ông.
Phạm Đình
Hổ chánh quán xã Đan loan huyện Đường Hào tỉnh Hải Dương, mồ côi cha
sớm lúc 10 tuổi, năm Giáp Thìn (1784-1785), ông mới ra du học tại Thăng
Long, ông xin được vào Trường Quốc Tử Giám, theo dự các buổi
bình văn chưa kịp đi thi thì nhà Lê
mất. Ông tục gọi là Chiêu Hổ, chữ Chiêu do Chiêu Văn Quán đời vua Lê
Trang Tông (1533-1548) đổi Sùng Văn Quán lập từ đời vua Lê Thánh Tông,
nơi tòng học của con quan từ tam phẩm trở lên, tuy nhiên chế độ thụ
nghiệp ban hành năm 1492 bỏ lâu không giảng nữa, nhưng vẫn theo tục cũ
con quan từ ngũ phẩm trở lên được gọi Chiêu Văn Quán, con quan các hàm
cuối gọi là Tú Lâm Cục. Cậu Chiêu, Cậu Tú bắt đầu từ thời này.
Phạm Đình
Hổ cư ngụ tại Hàng Buồm, thân thiết với Nguyễn Án cư ngụ gần chùa
Lý Quốc Sư, ông dạy học tại thôn Khánh Vân, hạ lưu sông Tô Lịch (nay
là xã Khánh Hà). Bài thơ Quá Kim Liên trong Đông dã ngôn thi tập ông
cho biết : Bèo dạt làm thân khách cố kinh. Kim Liên qua lại đã bao lần.
Chùa Kim Liên bên cạnh Cổ Nguyệt Đường là nơi Phạm Đình Hổ và bạn
bè thường đến, có lẽ ông đã từng học với cụ Hồ Phi Diễn, Phạm
Đình Hổ có nhiều bài thơ tả một cô gái nhỏ tuổi hơn ông, yêu hoa mai
và biết làm thơ và thường đứng trước gương uốn éo như đứt ruột.
Cô gái ấy
là ai? Phạm Đình Hổ trêu cô có tình ý với anh chàng đang viết Đoạn
Trường Tân Thanh? Bài thơ Tống Liên Cừ Mai Công phó Vị Hoàng, ông còn
trêu mưa ướt cả hoa mai nở trong mùa hè. mùa hè làm gì có mai, chỉ
có Phi Mai khóc sướt mướt.
Khi vua Gia
Long lên ngôi, ông tham dự kỳ thi 1807 đỗ Tam Trường, Nguyễn Ḱính đỗ
Tứ Trường được bổ làm Tri huyện Phù Dung. Khoa thi 1813 Phạm Đình Hổ
thi hỏng, khoa 1919 đang thi thì bị bệnh phải bỏ ra về.
Năm 1821,
vua Minh Mệnh ra Bắc, lưu ý khuyến khích việc soạn sách, ông được vời
ra diện kiến, ông viết Hành tại diện đối tả cuộc gặp gỡ này, nhân
dịp này ông dâng sách được vua ban thưởng được bổ làm Hành Tẩu, một
tháng sau thăng Hàn Lâm Viện biên tu. Năm ấy Hồ Xuân Hương chồng đã bị
tử hình, trở về Cổ Nguyệt Đường làm
câu đối mừng : Mặc áo Giáp cài chữ Đinh, Mậu Kỷ Canh khoe mình
rằng Quý. Lấy những chữ trong thập can ý muốn chế giễu Phạm Đình
Hổ, không thi đỗ nhưng nhờ dâng sách, nên mặc áo nhà quan ra vẻ ta đây.
Chiêu Hổ nổi nóng đối đáp lại bằng lời mắng nặng nề: Là đỉ Càn. Tai đeo hạt Khảm, Tốn Ly
Đoài khéo nói rằng Khôn. Lấy những
chữ trong Bát quái mắng Hồ Xuân Hương là con đỉ càn dỡ lại còn tự
phụ cho rằng mình khôn. Những lời mắng nặng nề đó có lẽ chấm dứt
mối liên hệ giữa Xuân Hương và Chiêu Hổ. Hồ Phi Mai từng bị tai tiếng
là thèo đảnh, tai tiếng chua cay
trong mối tình Mai Sơn Phủ, nay bị mắng là đỉ càn.
HỒ XUÂN
HƯƠNG VÀ HIỆP TRẤN SƠN NAM HẠ TRẦN QUANG TĨNH
Trần Quang
Tĩnh vốn quê ở Gia Định mới ra Bắc Hà làm quan lần đầu. Hiệp Trấn
Sơn Nam Hạ gồm đất Thái Bình, Nam Định ngày nay. Được nghe tiếng Xuân
Hương đã đến thăm và tỏ tình qua lại nhiều lần. Tháng 3 năm Kỷ Tị
1809 nhân dịp lên Thăng Long cáo từ quan Tổng Trấn Bắc Thành đã ghé
thăm Xuân Hương. Xuân Hương làm tiệc tiễn chân. Trần Quang Tĩnh xướng và
Xuân Hương họa lại nàng muốn thoát xác như Sãnh Nương đi theo chàng.
Trần Quang
Tĩnh xướng : Nâng chén dưới đèn
tiệc tiễn chân. Tơ sầu dằng dặc lặng câm buồn. Cây lặng gió im chim
lặng tiếng, Ngoài rèm trăng xế khách kêu ồn, Ta thẹn không tài thơ
Bạch Tuyết. Khen bạn duyên cao sinh Cửa Son. Trùng phùng còn biết ngày
nao gặp, Ngơ ngẫn tình say vướng mộng hồn.
Xuân Hương
đã họa : Gặp gỡ bèo mây dưới
nguyệt tròn, Ngỗn ngang sầu vọng nói gì hơn. Phượng Cầu ai gảy đàn
đưa ý, Chim Khách kêu chi ngõ vắng buồn. Ai chuộc tiếng kèn về Hán
khuyết. Lòng ta luống thẹn biệt Hồ môn. Chia tay giữa tiệc tình lưu
luyến. Ngây ngất hồn say mộng Sãnh Nương.
Hai bài thơ
nguyên tác chữ Hán dùng điển tích thật khéo léo tài tình.
HỒ XUÂN
HƯƠNG VÀ HIỆP TRẤN SƠN NAM THƯỢNG TRẦN NGỌC QUÁN
Trần Ngọc
Quán người Quảng Bình, theo vua Gia Long, giỏi văn chương năm 1890 giữ
chức Hàn Lâm thị thư và được phong làm Cai Bạ doanh Quảng Đức,( Thừa
Thiên sau này). Bốn doanh đất kinh kỳ chức vị đứng đầu là quan Cai
Bạ, phụ tá có quan Ký Lục. (nhiều người lầm Nguyễn Du làm Cai Bạ
Quảng Bình là người coi địa bạ ruộng đất). Tháng ba năm Ất Hợi 1815
được bổ nhậm chức Hiệp Trấn Sơn Nam Thượng, đất này gồm hai tỉnh Hà
Nội và Hưng Yên về sau. Trị sở ở Châu Cầu, Phủ Lý.
Mối tình
Hồ Xuân Hương với Trần Ngọc Quán là mối tình đến muộn, vì nàng đã
yêu Tham Hiệp Trần Phúc Hiển. Trần Ngọc Quán nghe tiếng danh nàng từ
khi ở Phú Xuân, nên khi đến trấn nhậm Sơn Nam Thượng đã đến thăm nàng:
Tài cao
nhã phượng thế gian kinh, Nay đến Long Thành được thấy danh.
Trần Ngọc
Quán khuyến khích lập Tao Đàn tại Cổ Nguyệt Đường và được bầu làm
Thi Tướng. Hồ Xuân Hương mời thi nhân hội họp ngâm thơ, nhưng cũng có
người cười chê nàng là “thèo đảnh”, phụ nữ mà tụ họp nam giới uống
rượu ngâm thơ. (Thèo đảnh khen ai khéo đặt cho).
Rằm tháng
7 trung thu năm 1815, Hội Thơ được tổ chức tại phủ đường Châu Cầu, Hồ
Xuân Hương sợ bà Hiệp Trấn ghen, ngụ tại phủ đường bà sẽ đối xử
“mát mẻ”, ngụ tại quán khách lòng bà sẽ chẳng yên “băn khoăn”. Hồ
Xuân Hương làm bài Tặng Hiệp Trấn Sơn Nam Thượng, để từ chối, nói lên
một tâm sự tế nhị phức tạp thật
tuyệt tác:
Hẹn thu
hẹn nguyệt luống ăn năn, Cái kiếp phù sinh những nợ nần. Cửa viện
xuân về hoa mát mẻ, Đài trang nương náu nguyệt băn khoăn. Duềnh xanh
nước chảy tin lai láng, Lá thắm gieo thơ bút ngại ngần. Son phấn dám
đâu so ngọn bút, Mượn tay thi tướng nhắc
đồng cân.
Trần Ngọc
Quán mất năm 1818, trong thời điểm cuộc thanh trừng vây cánh Nguyễn Văn
Thành vì bài thơ Nguyễn Văn Thuyên. Phải chăng Nguyễn Văn Thuyên thường
ra Bắc Hà đã đến cư ngụ nơi Trần Ngọc Quán. Mối quan hệ với vị chỉ
huy toàn quân đội Nguyễn Văn Thành, khi làm Cai Bạ vùng đất kinh đô
Phú Xuân là điều bình thường, trở thành một mối lo âu khi Nguyễn Văn
Thành tự tử, trước áp lực của Tổng Trấn Bắc Thành Lê Chất, phe Lê
Văn Duyệt, tôi cho rằng điều này đã dẫn đến cái chết của Trần Ngọc
Quán. Thơ văn Tao Đàn Cổ Nguyệt Đường bị đốt, bị cất dấu do ảnh
hưởng việc này.
HỒ XUÂN
HƯƠNG VÀ TRẦN PHÚC HIỂN.
Trần Phúc
Hiển con Trần Phúc Nhàn, giữ chức tham mưu trong quân đội Nguyễn Ánh
trước khi chiếm được Phú Xuân, có lẽ tử trận, để đền công khi lên
ngôi Gia Long phong cho con là Phúc Hiển chức Hàn Lâm Thị Thư năm 1803,
sau đó được thăng dần đến chức Tri Phủ Tam Đái, Việt Trì ngày nay,
thuộc trấn Sơn Tây, tháng 12 năm 1813 được thăng chức Tham Hiệp trấn Yên
Quảng. Hồ Xuân Hương quen biết Trần Phúc Hiển từ khi còn là Tri Phủ
Tam Đái. Một bài thơ không tựa, ghi dấu sự kiện này: Trăm năm gặp gỡ là bao nã, Thắc mắc
sầu riêng khó gỡ ra.
Phép trị
gia ngày xưa vợ cả không theo chồng tại chức mà ở lại quê chăm sóc
gia trang, Phúc Hiển rời phủ Tam Đái dòng thuyền qua Thăng Long để đi
Yên Quảng nhậm chức mới, để rủ bạn tình cùng đi, đến gần trấn lỵ
sông Bạch Đằng, Phúc Hiển để bạn tình trở lại Thăng Long và hẹn sẽ
rước nàng về làm vợ, nhưng mẹ Xuân Hương mất trong thời gian này, Xuân
Hương phải cư tang, nên năm 1816, Trần Phúc Hiển mới trở lại cưới Hồ
Xuân Hương, về Hạ Long nàng tham dự
việc quan cùng chồng, thời gian này Xuân Hương viết các bài thơ vịnh
cảnh Hạ Long, cảnh Đồ Sơn, Sầm Sơn bằng chữ Hán. Năm 1818 nhân việc
ruộng Châu Vạn Ninh bị bỏ hoang nhiều, do dân bỏ đi làm nghề chài
lưới được nhiều lợi hơn, Quan Tham Hiệp ép dân trở về cày ruộng, dân
không chịu. Viên Án Thủ Dung vốn có tị hiềm xui dân kiện Phúc Hiển
đòi ăn hối lộ 700 quan tiền, Phúc Hiển bị bắt. Vua Gia Long phê án
“Tham nhũng như thế mà không giết thì lấy gì khuyến liêm” và bảo quan
Bắc Thành trị tội. Phúc Hiển bị giam một năm đến tháng 5 năm 1819
thì bị tử hình.
Cùng một
thời kỳ, xãy ra các vụ án bài thơ của Nguyễn Văn Thuyên, vì có câu :
“Giúp nhau thay đổi hội cơ này”. Thuyên bị án chém, cha là Trung Quân
Nguyễn Văn Thành, thống lĩnh toàn quân đội phải tự tử, Thầy dạy là
Vũ Trinh, anh rể Nguyễn Du làm quan Hữu Tham Tri Bộ Hình bị án giảo,
được giảm án đày đi Quảng Nam năm 1828 mới được ân xá. Thượng Thư Bộ
Binh Đặng Trần Thường bị xử thắt cổ (án giảo), Nguyễn Gia Cát Tham
Tri Bộ Lễ, Vũ Quý Đĩnh Thiêm Sự Bộ Lễ cũng bị án giảo. Hiệp Trấn
Sơn Nam Thượng Trần Ngọc Quán cũng chết có lẽ tự tử.. Các vụ án mang
nhiều nghi vấn một cuộc thanh trừng phe phái với phe Tả Quân Lê Văn
Duyệt, Lê Chất, Án Thủ Dung và phe
Trung Quân Quân Nguyễn Văn Thành. Vua Gia Long khi về già, lo sợ uy
quyền các công thần lấn lướt, nên
hành xử theo lối “được chim bẻ ná, hết thỏ thịt chó săn”,
việc này thường xãy ra trong các triều đại Trung Quốc và Việt Nam.
Phúc Hiển là người được Nguyễn Văn Thành che chở. Xuân Hương có mặt
trong vụ xử tử chồng. Trong một bản văn Nôm cổ bài Khóc chồng có hai
câu : Hạt sương dưới chiếu chau mày khóc. Giọt máu trên tay mĩm miệng
cười. Xuân Hương đã khóc cười điên dại bên xác chồng.
Khi Trần
Phúc Hiển bị nạn lúc đó Trần Quang Tĩnh trở ra làm Tào Binh Bắc
Thành, Tham Tri Bộ Binh, Hồ Xuân Hương có đến cầu cứu, nhưng quan Tham
Tri lánh mặt. Bài Bán Chẩm Thư Hoài Hồ Xuân Hương viết: “ Ngâm khách
thế thần đâu sắc tướng. Tình ma không sức đuổi sầu binh”. Người bạn tình từng ngâm thơ đã lánh
mặt, và nàng bị lính hầu xua đuổi.
Tương
truyền sau khi chồng mất, Hồ Xuân Hương có vào chùa Giải Oan núi Yên
Tử, nhưng rồi không hợp cảnh thiền môn, nàng trở về làng Nghi Tàm
vài năm sau năm 1822 thì mất, hưởng dương 51 tuổi. Mộ được chôn tại
nghĩa địa Đồng Táo trước chùa Kim Liên.
Hai mươi năm
sau năm 1842, Miên Thẩm Tùng Thiện Vương theo anh vua Thiệu Trị ra Hà
Nội tiếp sứ sang phong vương. Vương thăm Hồ Tây có viết 14 bài thơ tứ
tuyệt thể liên hoàn Long Biên Trúc Chi từ trong Thương Sơn thi tập có
đoạn viết về mộ Hồ Xuân Hương.
Đầy hồ
rực rỡ hoa sen nở, Sai đứa hoa nô hái cúng dường. Chớ trèo qua mộ
Xuân Hương nhé, Suối vàng nàng vẫn xót xa duyên. Phấn rữa hoa tàn trơ
một nấm, Xuân Hương đã khuất cỏ mồ xanh, U hồn say mãi nay chưa tỉnh,
Xuân qua mấy độ gió vô tình.
Năm 1869,
Tam Nguyên Vị Xuyên Trần Bích San (1840-1878) viết Xuân Đường Đàm Thoại,
một thể văn hư cấu tạo nên hai nhân vật Hùng Lĩnh Xuân Mai và Hoa
Đường Ngọc Như tượng trưng cho Nguyễn Du và Phạm Quý Thích, mỗi người
làm một bài phú tán tụng Hồ Xuân Hương. (Đặng Trần Côn trong Tùng
Bách thuyết thoại và Đoàn Thị Điểm trong Hải Khẩu linh từ, từng
viết thể văn hư cấu này).Trần Bích San đã nói tới mối tình Hồ Xuân
Hương và Nguyễn Du, qua Hùng Lĩnh Xuân Mai: “Xuân Hương là một nữ lưu
phù hoa, vẻ mặt như hoa đào, nhan sắc như nước mùa thu. Tôi lúc trẻ
đã có một dạo giao du. Nào đàn, nào cờ, nào rượu, nào thơ, có thể
viết nên một thiên “Phong tình tân lục”.
Về sau khi
đắp đường Cổ Ngư, mực nước Hồ Tây lên cao, ngôi mộ Xuân Hương tại
nghĩa địa Đồng Táo xây bằng đá vôi, chìm xuống lòng nước khoảng một
thước. Khi Cuba xây dựng khách sạn
Thắng Lợi dưới nước còn ngỗn ngang mồ mã. Nhiều người đi câu làng Nghi Tàm còn cho
biết họ từng đứng trên các ngôi mộ đá vôi. Việc hạ lại mực nước Hồ
Tây, xuống trở lại mực nước cũ không phải là chuyện khó khăn ngày
nay.
Kỷ niệm
250 Hồ Xuân Hương, không gì quí bằng đề án xây dựng lại Cổ Nguyệt
Đường gần chùa Kim Liên thành một
viện bảo tàng, sưu tập thơ văn Hồ Xuân Hương được phổ biến trên thế
giới, với một công viên cây cảnh như Tốn Phong viết trong thơ và đưa mộ
Hồ Xuân Hương ra khỏi lòng nước Hồ Tây và dựng lại ngôi Gác Tía cạnh
đình làng Nghi Tàm nơi Nguyễn Du từng ở ba năm tình với Xuân Hương.
Thành phố Hà Nội có thêm một di tích văn hóa quí báu cho khách du
lịch bốn phương trời đến thăm và tưởng nhớ hai thi hào lớn của dân
tộc từng sinh sống tại kinh đô Thăng Long nghìn năm văn hóa.
-------------
TÀI
LIỆU THAM KHẢO TÓM LƯỢC
BÙI
HẠNH CẨN. Hồ Xuân Hương Thơ chữ Hán, chữ Nôm và giai thoại. Nxb Văn
Hóa Thông Tin, Hà Nội 1995.
DURAND MAURICE .
L ́ Oeuvre de la poétesse vietnamienne, Hồ Xuân Hương. Eds EFEO Paris
1968.
HOÀNG
XUÂN HÃN. Hồ Xuân Hương với Vịnh Hạ Long. Về Tình sử và thơ văn Hồ
Xuân Hương. Tạp chí Khoa Học Xã Hội
Số 10 và 11 tháng 12-1983.
NGUYỄN
DU. Thơ chữ Hán. Văn Học Hà Nội 1965,
NGUYỄN
VĂN HANH. Hồ Xuân Hương tác phẩm,
thân thế và văn tài. Ipr Aspar. Sài Gòn 1937.
PHẠM
ĐÌNH HỔ. NGUYỄN ÁN . Tang Thương Ngẫu lục. TTHL Saigon 1971
PHẠM
ĐÌNH HỔ. Vũ Trung Tùy Bút. Bản dịch Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến. Đông
Nam Á Paris tái bản.
PHẠM
TRỌNG CHÁNH. Hồ Xuân Hương , Nàng
là ai ? Eds Khuê Văn. Paris. 2001
TRẦN
THANH MẠI. Bản Lưu Hương Ký và lai lịch phát hiện nó, TCVH.11-1964
tr69-78.
XUÂN
DIỆU Các nhà thơ cổ điển Việt Nam. Tập II Hồ Xuân Hương nxb Văn Học.1982.
*
PHẠM TRỌNG
CHÁNH
Tiến sĩ Khoa
Học Giáo Dục
Địa chỉ: Viện Đại Học Paris V Sorbonne.
Email: phamtrongchanh@free.fr
.............................................................................................................
Cập
nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 02.12.2021.
-
Ảnh dùng minh họa cho bài viết được sưu tầm từ nguồn: internet.
-
Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
-
Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
Cám ơn tác giả vì bài viết hữu ích với bạn đọc
Trả lờiXóa