BỆNH
THÀNH TÍCH, HƯ DANH
VÀ
THAM NHŨNG TỪ ĐÂU MÀ RA
*
Vũ Thị Hương Mai giới thiệu
(Cập nhật từ email: huongmai8081@yahoo.com.vn
Ảnh minh họa sưu tầm từ nguồn: internet
Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả)
Tác
giả: Trương Quang Đệ
THAM NHŨNG, BỆNH
THÀNH TÍCH, HƯ DANH DO ĐÂU MÀ RA
Hiện nay những tật xấu nói trên
đã thành mãn tính, làm xói mòn niềm tin của dân chúng về đội ngũ cán bộ quản
lý, cán bộ chuyên môn. Hình như mọi nơi mọi cấp đều thấy tham nhũng, thành tích
dỏm, tiến sĩ cầu lông, giáo sư nửa chữ không thông.
Về bề mặt, những tật xấu này xuất
hiện ở những khâu yếu kém về cơ chế quản lý, giám sát, về công tác nhân sự;
thiếu vắng dư luận xã hội. Về chiều sâu những tật xấu ấy sản sinh từ một nền
giáo dục không đủ tầm nhân bản.
Có một thời, tuy sống dưới chế độ
thực dân phong kiến, học sinh các cấp vẫn được học trong sách Quốc văn giáo
khoa thư những bài về ứng xử cao đẹp của con người, rồi đọc thêm bên ngoài
những sách như “Cổ học tinh hoa”, “Những tấm lòng cao cả”, v.v. Ngày nay nói
chung tài liệu học tập các cấp không đủ tầm nhân bản mà thiên về kiến thức khoa
học cao siêu, chẳng hạn dạy đánh vần theo âm vị, âm tiết trong sách Tiếng Việt.
Không biết chuyện tôi sưu tầm sau đây có thầy cô nào quan tâm dạy cho trẻ
không?
“Một cậu bé ngồi chơi bên đường
bắt được một con bướm. Vừa lúc ấy một nhà sư đi ngang qua, mang nặng trên vai
một bó củi thu lượm trong một khu rừng gần đó. Cậu bé ra hiệu cho nhà sư dừng
lại, đặt bó củi xuống đất rồi nói:
- Trong tay cháu có một con bướm,
đố sư ông biết nó sống hay chết? Nếu sư ông nói sai, bó củi thuộc về cháu đó.
Sư ông mỉm cười, không chút do
dự, nói ngay:
- Nó chết rồi!
Cậu bé cười đắc thắng, xòe tay
ra, con bướm sống bay vút lên không.
- Sư ông thua rồi!
Sư ông mỉm cười chấp nhận thua
rồi lững thững đi tay không về chùa.
Về đến nhà, cậu bé thích thú kể
cho cha nghe chuyện con bướm và bó củi. Nghe xong người cha hoảng hốt, vác bó
củi và dắt cậu bé đi đến chùa gặp nhà sư. Người cha trả lại củi cho nhà sư, nói
ngắn gọn lời xin lỗi thay cho con. Nhà sư chỉ mỉm cười xoa đầu cậu bé rồi trao
đổi vài lời với người cha về thời tiết, về công việc đồng áng. Hai cha con từ
biệt nhà sư ra về. Dọc đường cậu bé thắc mắc hỏi cha:
- Nhà sư thua con mà, sao cha lại
trả bó củi?
Người cha giải thích:
- Nhà sư biết con bướm còn sống,
nhưng sợ rằng nếu ông nói đúng, con sẽ bóp chết con bướm. Vì vậy nhà sư cố nói
sai để cứu sinh mạng con bướm. Con biết không? Đó là lòng từ bi của nhà sư. Con
nhớ lấy chuyện này để tâm niệm cả đời làm việc thiện, tránh làm điều ác”.
Muốn có một nền giáo dục nhân bản
phải có một tầng lớp tinh hoa trong xã hội làm nền tảng. Tiếc thay hiện nay
tầng lớp đó bị xóa bỏ. Ngày trước “Đã là con nhà thì không làm điều sai trái”,
đã là nhà giáo, sinh viên thì dân chúng tin tưởng tuyệt đối về phẩm hạnh.
Ngoài nhà trường ra, dư luận xã
hội cũng là môi trường giáo dục. Một thứ “chế tài” hiệu quả đối với những kẻ
xấu là bạn bè xa lánh.
Nhưng trong xã hội vẫn có thể lưu
truyền những điều tai hại ẩn náu dưới dạng những kinh nghiệm sống. Tôi ngán
nhất là thường nghe ai đó nói một cách chắc nịch:
- Tham nhũng là chuyện phổ biến
không riêng gì ở nước ta mà khắp mọi quốc gia trên thế giới.
- Không ai làm việc tốt một cách
vô tư cả, ai cũng có động cơ về lợi ích cá nhân.
- Thương trường là chiến trường.
...
Đó là những điều ngụy biện nhằm
thanh minh cho nạn tham nhũng, những cách làm ăn chụp giựt, những lối cạnh
tranh không lành mạnh, những việc thiếu trách nhiệm trong quản lý.
Nói tham nhũng là tật chung cho
mọi quốc gia thì coi như bỏ cùng một rọ nhà nước dân chủ với nhà nước chuyên
chế. Trong một nhà nước dân chủ, hệ thống luật pháp và việc tự do ngôn luận
luôn nhanh chóng phát hiện các hiện tượng tham nhũng và xử lý kịp thời. Trong
một nhà nước chuyên chế, việc chống tham những rất khó vì không ai dám nói gì,
do đó nó chỉ được bó hẹp vào nhóm nắm quyền lực cao nhất, mọi việc vì vậy mà
thường chậm trễ và hiệu quả thấp.
Nói không ai làm việc tốt mà
không có động cơ cá nhân là phủ nhận biết bao người vô tư, trung thực, thiện
chí; coi ai cũng xấu, xấu nhiều xấu ít mà thôi. Quả là một nhận định thê thảm
cho loài người. Còn câu “thương trường là chiến trường” chỉ đúng cho các nền
kinh tế thị trường sơ khai, hoang dã, chưa có thói quen làm ăn chính đáng, chưa
biết cách hợp tác trong kinh doanh.
Bệnh thành tích và thói hư danh
là sản phẩm của các xã hội không lấy thực chất con ngườì làm trọng mà chỉ dựa
vào các con số thống kê, dựa vào những nhãn mác hình thức như bằng cấp, chức
danh, học hàm học vị. Ở các nước tiên tiến người ta tuyển dụng nhân sự bằng các
cuộc phỏng vấn, những ngày thử việc, chứ không dựa vào một mớ giấy tờ hỗn độn
như các cấp quản lý ở các nước chậm tiến.
Tác
giả: Nguyễn Duy Khang
GIÁO VIÊN DẠY GIỎI
- CÁI NGHIỆP, HƯ DANH VÀ BỆNH THÀNH TÍCH
Danh hiệu giáo viên giỏi đang dần
trở thành cái nghiệp hay nỗi sợ hãi. Nhóm cấp tiến nhận định các cuộc thi giáo viên
dạy giỏi sẽ giúp giáo viên trao đổi được kinh nghiệm giảng dạy
và vượt qua giới hạn của bản thân để thực hiện nhiệm vụ giáo dục thành công
hơn.
Nhóm phê phán cũng có không ít lý
do hợp lý như thời gian để tham gia cuộc thi để đạt một danh hiệu quá ngắn,
giỏi là một quá trình, là năng lực, thứ mà không thể dễ dàng đánh giá một cách
đầy đủ.
Bởi, việc có danh hiệu hay không
có danh hiệu thì cũng không thực sự giúp người giáo viên phát triển vượt bậc
trong nghề nghiệp khi việc tham gia kỳ thi là thiếu tự nguyện, đối phó, và vì
một bảng thành tích nào đó.
Tôi cũng có không ít trăn trở khi
tham gia và khi góp ý về vấn đề tổ chức hội thi giáo viên dạy giỏi tại nơi tôi
công tác.
Tôi chỉ nhận ra điều duy nhất
giúp giáo viên phát triển đó là khi họ có quyền tự do học thuật.
Qua đó, họ có thể tự nguyện chia
sẻ kinh nghiệm
giảng dạy của mình vì mục đích học hỏi lẫn nhau, được đồng
nghiệp chuyên môn góp ý để phát triển chứ không vì thành tích của một cuộc thi
nào đó.
Giáo viên phải có quyền quyết
định khi nào và việc gì nên làm cho nghề nghiệp của họ với quyền được tiếp cận
thông tin minh bạch.
Giáo viên nên có các sự lựa chọn
đa dạng về con đường phát triển nghề nghiệp phù hợp với chính khả năng, điều
kiện và đam mê của họ.
Bên cạnh nhóm cấp tiến, nhóm phê
phán, nhóm quản lý và nhóm luôn lo lắng chưa tìm được tiếng nói chung, tôi xin
phép thông qua bài viết này giới thiệu một quan điểm về người giáo viên với các
định hướng mà nếu được thực hiện tốt đồng nghĩa giáo viên đó giỏi và trở thành
khuôn mẫu cho ngành giáo dục.
Quan điểm tôi cho là phù hợp với
tôi với tư cách là một người giáo viên có thể được tóm tắt như sau:
Một người giáo viên phải biết rõ
về người học của mình, tạo điều kiện cho quá trình học thành công, cung cấp các
trợ giúp cần thiết và hiệu quả trong và sau bài giảng với lòng yêu nghề, kỹ
năng giảng dạy, sự truyền cảm hứng, và kiến thức.
Người giáo viên phải có khả năng
tự học và thay đổi vì sự nghiệp và mục tiêu giáo dục. Để đạt các mục tiêu học
tập quan trọng và có nghĩa cho người học, người giáo viên phải sở hữu các định
hướng sau:
(1) Định hướng giao tiếp/ phương
pháp trao đổi thông tin, (2) định hướng chuyên môn, (3) định hướng theo đối
tượng người học, (4) định hướng giảng dạy, (5) định hướng chuyên nghiệp và (6)
định hướng nhân phẩm.
Các định hướng này này được rút
ra từ một nghiên cứu thiết lập lý thuyết nền tảng (grounded theory) sau khi
thực hiện một nghiên cứu case study về các định hướng giảng dạy hiệu quả của
một người giáo viên (the teacher’s orientations).
Kết quả nghiên cứu được kiểm
chứng từ một loạt các nghiên cứu sư phạm tại Ba Lan trong thời gian 3 năm với
các phương pháp định tính bao gồm nghiên cứu kinh nghiệm (empirical study)
và sáng kiến
kinh nghiệm (action research).
Nghiên cứu nhằm tìm ra cách thức
giáo viên giỏi ở Ba Lan tạo điều kiện để sinh viên thực học như thế nào.
Các nghiên cứu này tiếp cận thông
tin đánh giá chung về các định hướng của một giáo viên từ nhiều nguồn thông tin
và dữ liệu khác nhau thông qua 102 tiết dự giờ, phỏng vấn sâu 3 giáo viên và 8
sinh viên quốc tế, thu thập mẫu với 45 ý kiến về mong muốn đối với việc học và
96 phản hồi từ người học.
Cụ thể các định hướng như sau:
Định
hướng giao tiếp/ phương pháp trao đổi thông tin
Đây là một định hướng quan trọng
vì nó phản ánh tác phong và năng lực giao tiếp, trao đổi thông tin của giáo
viên với người học.
Định hướng này được thực hiện nếu
người giáo viên tin rằng giáo dục cần sự trao đổi giữa người dạy và người học
vì mục tiêu tạo ra các hoạt động học tập, rèn luyện, suy nghĩ, phân tích, phản
biện và đánh giá những gì được học và thực hành trong cả quá trình.
Giáo viên cần làm tốt vai trò của
người nghe chứ không phải người truyền đạt như mỗi giáo viên điều được học và
cố gắng làm tốt.
Các đối tượng nghiên cứu là sinh viên
chỉ ra rằng giáo viên họ giỏi vì người học được lắng nghe.
Giáo viên chú ý đến vấn đề giao
tiếp với người học để tăng cơ hội nghe, hiểu, hành động và thay đổi để đáp ứng
nhiều hơn nhu cầu đa dạng của cá nhân người học.
Khi giáo viên quan tâm nhiều hơn
đến người học với từng nhu cầu cá nhân riêng biệt tùy điều kiện, năng lực, sở
thích, phong cách học tập khác nhau, so với nội dung truyền đạt, thành tích…
thì người giáo viên chắc chắn sẽ thực hiện được định hướng này một cách hiệu
quả khi quan tâm đúng đắn đến thông tin mà người học phản hồi hoặc cung cấp.
Việc sở hữu định hướng giao tiếp
được xem là lý do chính các giáo viên trong nghiên cứu này thành công với mô
hình tương tác của họ.
Trong các mô hình tương tác, giáo
viên cũng tận dụng mọi phương tiện giao tiếp kể cả ngôn ngữ ký hiệu và các ký
tín hiệu phổ biến trong giảng dạy để tăng cường trao đổi thông tin với người
học.
Tóm lại, sở hữu định hướng này sẽ
giúp giáo viên dễ dàng tạo điều kiện cho người học được học tập thực sự.
Người giáo viên vì người học và
việc học sẽ luôn lắng nghe và học hỏi, và ngược lại điều này giúp họ phát triển
nghề nghiệp một cách thực chất hơn so với việc bị đánh giá năng lực giảng dạy
qua các cuộc thi và thói quen quan tâm đến nội dung truyền đạt theo khu chương
trình và thành tích trong giảng dạy.
Định
hướng chuyên môn
Đây là định hướng bắt buộc cho
chất lượng của người làm công tác giảng dạy. Định hướng này liên quan đến gốc
rễ, động lực và con đường chuyên môn của từng giáo viên bởi vì nó liên quan đến
quá trình hoàn thiện chuyên môn không bao giờ đến đích.
Khi bạn cảm thấy hài lòng với kỹ
năng và kiến thức của mình, điều này đồng nghĩa bạn không phải là một giáo viên
thực sự với chất lượng chưa kiểm chứng, thiếu trách nhiệm và vô tâm.
Định hướng này bao hàm không chỉ
các trình độ chuyên môn một người giáo viên có được do có bằng cấp theo qui
định hay kỹ năng mà người giáo viên tích lũy được từ quá trình học, kiến tập và
thực tập;
Mà còn là quá trình phát triển
chuyên môn không ngừng kể từ khi bước chân vào môi trường học thuật của giới sư
phạm.
Điều đặc biệt từ các giáo viên
trong nghiên cứu này chính là họ chưa từng ngừng thay đổi, suy luận và cập nhật
kỹ năng nhận thức, kỹ năng sư phạm, kỹ năng nghiên cứu và kỹ năng chia sẻ để
học hỏi được nhiều hơn từ cộng đồng sư phạm một cách tự do (không có nghĩa như
ở nước ta là chia sẻ tự do để sao chép, nhân bản công trình của người khác hoặc
để nhầm thành tên của mình).
Tự do học thuật ở đây là giáo
viên nào cũng có quyền phát triển chuyên môn, được lắng nghe khi họ có khó
khăn, và được giúp đỡ khi họ cần.
Họ đặt sự thay đổi để phát triển
chuyên môn là ưu tiên của người giáo viên vì xã hội phát triển không ngừng,
công nghệ luôn được nâng cấp và đổi mới và người học có trình độ nhận thức ngày
càng tiến bộ hơn.
Chính thái độ và mong muốn thay
đổi làm cho giáo viên trong bối cảnh nghiên cứu luôn không ngừng sáng tạo trong
tổ chức lớp học các hoạt động giảng dạy ngày càng phù hợp hơn với nhu cầu của
người học.
Càng thay đổi, họ càng làm giàu
thêm cho kinh nghiệm giảng dạy và qua đó trình độ chuyên môn phát triển như một
điều tất yếu.
Định hướng này cũng chỉ ra là
giáo viên rất tự tin với khả năng tạo môi trường học tập năng động cho người
học, ứng biến, sáng tạo và xử lý được mọi tình huống chuyên môn đặt ra trong
quá trình trình giảng.
Nói chung, người giáo viên ngoài
kỹ năng được học với bằng cấp thật thì kinh nghiệm, con đường vào nghề, khả
năng nhận thức, tư duy thay đổi, quá trình rèn luyện và phát triển chuyên môn
chính là tất yếu của chất lượng và tiêu chuẩn theo định hướng này.
Định
hướng theo đối tượng người học
Nếu người học là đối tượng quan
trọng nhất mà cả xã hội đã phải cùng ngành giáo dục, nhà trường rồi đến giáo
viên phải quan tâm, tại sao người học không được đa dạng quyền của mình và được
quyết định sẽ học điều gì là cần thiết thực sự.
Họ phải có sự lựa chọn với khả
năng lý luận và nhận thức được những gì phải học là cần thiết thực sự.
Người học không chỉ học (theo
nghĩa đi đến lớp, ngồi nghe…) mà phải được tạo điều kiện để rèn luyện kỹ năng
phản biện, tư duy phản biện, phải biết những gì phải học có lỗi thời, phải có
quyền trao đổi và ý kiến của người học phải được tôn trọng như là ưu tiên số
một của ngành giáo dục.
Nghiên cứu này đã tìm ra vai trò
quan trọng của việc hiểu người học nhằm mục đích giúp cho quá trình học tập
diễn ra hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, định hướng này đòi hỏi
người giáo viên phải quan tâm đến nhu cầu của người học, mục tiêu học tập và
các yếu tố khác, kể cả tính hợp lý và bất hợp lý của môn học mình đang dạy để
kích hoạt, truyền cảm hứng và hướng tới tự do trong tư tưởng để học tập thực
sự.
Điều đặc biệt ở các giáo viên
trong nghiên cứu là họ có định hướng người học nhằm nhận ra nhận thức, kỹ năng
và kiến thức đã có của người học để điều chỉnh bài giảng và hoạt động cho phù
hợp với quá trình học tập.
Khi người học muốn được chú ý và
tầm quan trọng của họ trong bất kỳ môi trường giáo dục nào ở các nước tiên
tiến, định hướng theo đối tượng người học rất cần cho người giáo viên để rèn
luyện để đáp ứng nhu cần học tập của đối tượng người học có thể có trình độ
nhận thức rất cao.
Bởi vì, khi người học nhận ra
rằng họ bị chèn ép, đè nén cảm xúc, áp đặt tư duy, quyền tự do trong học tập bị
kiểm soát quá lâu, đó chính là thời điểm khủng hoảng giáo dục và xã hội của
chúng ta đạt mức trầm trọng nhất.
Ngoài ra, nhu cầu có mối quan hệ
gần gũi trong học tập giữa người học với người dạy được đề cập rất nhiều nhưng
có lẽ sẽ rất khó cho bối cảnh chúng ta với cái bóng quyền lực quá lớn của hình
ảnh người thầy theo quan niệm Nho giáo ngày xưa.
Tóm lại, mỗi cá nhân người học
luôn có giá trị riêng của mình. Định hướng này dù chưa thật quan trọng ở nước
ta, việc người giáo viên có thêm tư duy và sự hiểu biết về người học nhằm phục
vụ tốt hơn quá trình giúp họ học tập thực sự và phát triển trí tuệ, logic và mọi
kỹ năng xã hội và học thuật cần thiết hoặc chí ít phải liên quan đến môn mình
dạy.
Định
hướng giảng dạy
Định hướng này thực ra tồn tại
trong năng lực của từng giáo viên nhưng tôi đề cập ở đây với mong muốn kêu gọi
giáo viên quan tâm hơn đến sự cân bằng giữa lý thuyết và thực hành, nhận thức,
niềm tin về giảng dạy, nhu cầu thực sự của người học từ chính bài giảng và
những hoạt động giảng dạy.
Khi giảng dạy bất kỳ môn gì, điều
cần thiết là giáo viên phải trả lời được các câu hỏi đơn giản như:
- Những gì bạn sắp dạy có mới
không, nếu không thì giá trị có bị thay đổi không? Bạn có thể làm mới nó không?
Hoạt động học tập có khác hơn được không?
- Những gì bạn sắp dạy có quá
nhiều lý thuyết hay thực hành không và có thể làm gì cho nó gắn với thực tế,
ứng dụng?
Dù là môn học chỉ thiên về lý
thuyết thì người học cũng cần phải được rèn luyện tư duy phản
biện từ những gì phải học.
- Những gì bạn sắp dạy có thật sự
cần thiết cho quá trình học tập, suy luận, rèn luyện, tư duy, và phản biện của
người học không?
Định hướng này cần người giáo
viên phải có khả năng nhận thức về người học, những gì sẽ dạy, các hoạt động,
các giá trị của bài học, khả năng vận dụng, sự cân đối giữa lý thuyết và thực
tế, thực hành…
Theo nghiên cứu, điều làm cho
định hướng này quan trọng vì giáo viên trong bối cảnh nghiên cứu cho rằng người
học không cần đến lớp để nghe thông tin hoặc thu nhận thông tin từ người giáo viên
bởi vì có quá nhiều nguồn thông tin lớn hơn trong thực tế cuộc sống mà người
học có thể dễ dàng tiếp cận mà không cần giáo viên nói cho họ biết.
Do đó, định hướng giảng dạy đề
nghị người dạy phải thực sự quan tâm kỹ năng giảng dạy để người học có thể học
thực sự theo ý nghĩa là được tạo môi trường để rèn luyện tư duy, suy nghĩ, phản
biện, sáng tạo và duy trì sự phát triển đam mê khám phá kiến thức mới.
Điều quan trọng là giáo viên nên
luôn xem giảng dạy như là thách thức và cũng là nghệ thuật. Người giáo viên cần
luôn sẳn sàng cập nhật cái mới dù có “được” cấp trên yêu cầu hay không.
Một thực tế trái ngược là khi
việc giảng dạy quá tải, lương thấp và các điều kiện nghiên cứu thực sự, tham
gia các diễn đàn, hội thảo để phát triển chuyên môn đều hạn chế, chính là
nguyên nhân giáo dục ngày càng đi chệch hướng so với mong muốn của xã
hội.
Nếu ai đó nghĩ giảng dạy chỉ đơn
giản là mang kiến thức bạn biết rồi đến lớp giảng bài là giảng dạy thì xin hãy
thay đổi hoặc dừng lại.
Có rất nhiều phương pháp, triết lý
giảng dạy đã ra đời và được chứng minh là phản giáo dục, do đó nếu giảng dạy
chỉ là kỹ năng mà không kèm đam mê, sự thách thức, sự tò mò khám phá kiến thức
kinh nghiệm mới, và rèn luyện chuyên môn để sở hữu hết sáu định hướng thuộc
nghề giáo thì đó có thể chưa là người giáo viên thực thụ.
Ngoài ra, khi giảng dạy cũng
không nên quá đề cao vẻ tôn nghiêm của người giáo viên cũng như sự hiểu biết
của họ hoặc áp đặt suy nghĩ của người dạy lên người học;
Điều này ngăn chặn hoặc làm giảm
tư duy phản biện của người học đặc biệt khi người giáo viên chưa đủ kỹ năng
truyền cảm hứng và thiếu tư duy cởi mở đối với các quan niệm đúng sai trong
nhận thức của người học.
Giáo viên rất cần tính linh hoạt
khi giảng dạy, kỹ năng nghiên cứu thông qua quan sát, nhận diện vấn đề giảng
dạy và thay đổi cho phù hợp hơn với việc học.
Định
hướng chuyên nghiệp
Định hướng này của giáo viên
chính là khả năng chuyên nghiệp trong công việc khi giảng dạy và khi đưa ra các
yêu cầu chuyên môn cho người học.
Tính chuyên nghiệp tập trung vào
cách thức người giáo viên trở nên chuyên nghiệp và kích thích người học để họ
học và trở thành người học giỏi.
Nghiên cứu đã tìm ra đặc điểm này
từ các giáo viên tham gia nghiên cứu. Thật vậy, họ luôn có tác phong làm việc
chuyên nghiệp trong trách nhiệm thường ngày và các hoạt động ở trường
học.
Họ chú ý đến môi trường làm việc
và nhận diện bản thân họ ở nơi làm việc để đảm bảo các mức cư xử phù hợp kể cả
khi sự vụ cần xử lý nằm ngoài trách nhiệm của người giáo viên.
Nghiên cứu tìm ra các khuôn mẫu chung
cho định hướng này của giáo viên thuộc về (1) các giao thức giải quyết vấn đề
chuyên nghiệp, (2) linh động trong sử dụng thời gian miễn có lợi cho người học
và chuyên môn bản thân, (3) nhận thức về khoảng cách công việc phù hợp giữa
người dạy và người học.
Ngoài ra, tính chuyên nghiệp cũng
tồn tại từ chính quyền tự chủ của người giáo viên, điều này cho phép họ có
quyền quyết định sẽ trở thành một giáo viên như thế nào, suy nghĩ thế nào, khi
nào thì đến trường nếu không có lớp dạy, thái độ làm việc và cả quyền tự quyết
về những gì họ muốn đề xuất và sẽ giảng dạy.
Điểm đặc biệt là giáo viên trong
nghiên cứu đề cập đến yếu tố tự do học thuật có sự liên hệ mật thiết với mức độ
hài lòng về công việc cũng như sự không hài lòng về những cản trở đối với khả năng
phát triển của giáo viên.
Dù điều kiện giảng dạy, quyền tự
do học thuật, quyền tự quyết của giáo viên tồn tại rõ ràng trong môi trường nơi
nghiên cứu diễn ra nhưng các giáo viên này chưa hoàn toàn hài lòng với những gì
họ được cung cấp.
Họ cần sự đảm bảo cao hơn để trở
nên chuyên nghiệp hơn nữa với các phong các làm việc đa dạng, quan niệm về nghề
nghiệp và sự hài lòng trong môi trường học thuật.
Định
hướng nhân phẩm
Nếu chúng ta tự kiểm lại xem
những gì ta nhớ về những giáo viên dạy mình từ xưa đến giờ, chúng ta sẽ không
nhớ nhiều về kiến thức được học, mà đó sẽ là những đặc điểm thuộc về nhân cách
của người thầy.
Trong định hướng cuối cùng này,
khi mỗi giáo viên đều là một cá nhân khác biệt, có những đặc điểm khác nhau,
thì những người giáo viên dạy giỏi tại nơi nghiên cứu lại có rất nhiều điểm
tương đồng mà trong đó họ không xem chính họ hoặc kỹ năng giảng dạy chính là
tiêu chí của định hướng nhân phẩm.
Những giáo viên này mô tả quan
điểm giảng dạy, mô tả cách thay đổi để người học học tốt hơn…
Đặc biệt khi được hỏi có phải là
giáo viên giỏi không, các giáo viên này không mô tả chính họ với những đặc
trưng mà người học mong muốn (như phải hiểu biết sâu rộng, đừng quá khó, cần
gần gũi thân thiện hơn với người học…), mà mô tả những hiểu biết của họ về
phương pháp để tiếp cận được mong muốn học tập và kiến thức người học thật sự
cần và mang tính thực tế.
Khi quan tâm đến người học, chất
lượng giảng dạy, thay đổi để tốt hơn và lòng yêu nghề thì chính họ đã khẳng
định được danh hiệu giáo viên dạy giỏi mà không cần phải chạy theo bất kỳ thành
tích nào.
Chính nhân phẩm của người dạy học
mang lại giá trị cho người thầy trong mắt học trò chứ không phải điểm số, sự áp
bức, sự cao ngạo của những ai nghĩ mình làm chủ kiến thức của nhân loại.
Thay
lời kết, quan điểm của cá nhân tôi là
nếu giáo viên làm tốt nhiệm vụ thực sự của người thầy cô giáo thì chúng ta
không cần hư danh.
Các kỳ thi giáo viên dạy giỏi là
cần thiết nhưng khi thực hiện không qua áp lực chỉ tiêu, thành tích thì mới
thực sự mang lại hiệu quả đột phá trong giáo dục.
Trong nghiên cứu của tôi, những
giáo viên được phỏng vấn và tham gia làm đối tượng nghiên cứu đều là giáo viên
giỏi không phải từ bất kỳ thành tích hay cuộc thi nào mà qua các sản phẩm khoa
học họ hợp tác trong giới sư phạm và đồng nghiệp trên toàn thế giới, các báo
cáo và xuất bản của họ không những khẳng định vai trò giáo viên mà còn là nhà
khoa học.
Vai trò giáo viên giỏi của họ
được đánh giá từ chính người học, những người được họ truyền cảm hứng để tìm
đến tự do học thuật chân chính.
Khi tôi tìm hiểu sâu hơn thì
không ai trong họ hài lòng với danh hiệu mình là người giáo viên hoàn hảo vì họ
nghĩ họ phải còn học tập rất nhiều để đảm bảo mục đích giáo dục thật sự do
người học làm chủ.
Tất cả các định hướng để phát
triển chuyên môn của một người giáo viên là rất cần thiết, khi không ngừng học
tập, nghiên cứu, sáng tạo và giữ vững lòng yêu nghề, và đừng nhận thức rằng
mình đã hiểu biết đủ những thứ cần thiết cho nghề giáo thì bất kỳ người giáo
viên nào cũng là giáo viên giỏi.
Bí mật là đừng bao giờ dừng bước
trên con đường phát triển và đừng bao giờ hài lòng với công việc chuyên môn
cũng như kỹ năng giảng dạy vì xã hội và công nghệ đang thay đổi từng
ngày.
Nếu quan tâm thật sự đến sự thay
đổi giáo dục tích cực cho chính con em chúng ta thì hãy giúp chúng tôi lên
tiếng yêu cầu tăng lương cho giáo viên, giảm các cuộc thi mang tính hình thức
từ các cấp các ngành và đề nghị giảm sĩ số lớp học ở các cấp thấp để giáo viên
có thể chăm lo đầy đủ hơn cho học sinh.
Hãy giúp ngành giáo dục xây dựng
niềm tin từ việc thay đổi tư duy xã hội và của chính những người làm giáo dục
để tiếng nói của người học và giáo viên được lắng nghe.
Nói một cách khác, ý kiến người
học và giáo viên phải được quan tâm đúng mức bởi họ là đối tượng trực tiếp nhất
trong quá trình giáo dục đào tạo.
Họ phải có quyền tự chủ trong
việc hiện thực hóa việc dạy và học chứ không phải từ sự áp đặt đôi khi vô lý và
thiếu khoa học từ các cấp quản lý giáo dục.
Nên
hãy nhớ rằng, trong thời đại ngày
nay, khi vẫn còn đặt nặng việc truyền đạt kiến thức thì hoạt động giảng dạy chỉ
giới hạn ở mức thầy dạy trò học và đôi khi trò có thể không biết tại sao mình
lại cần học những kiến thức đấy, không có khả năng phản biện theo suy nghĩ của
mình khi những gì được học trái với các nguồn thông tin rộng rãi khác ngoài xã
hội.
Môi trường chúng ta chưa thực sự
khuyến khích học sinh phản biện với giáo viên, còn giáo viên thì chưa đạt hiệu
quả trong phản biện đối với các cấp quản lý giáo dục và đào tạo.
Xu thế ngày nay là cần chúng ta
quan trọng việc học của người học, của chính giáo viên và tiếng nói của họ đối
với ngành, với xã hội và các cấp quản lý chứ không phải là việc dạy như chúng
ta từng hiểu được.
Tác
giả: Anh Thảo
TRIỆT TIÊU BỆNH HƯ
DANH TRONG GIÁO DỤC
Bệnh thành tích, hình thức, hư
danh đáng ra không nên có trong môi trường giáo dục, bởi đây là cái nôi nuôi
dưỡng, vun trồng, bồi đắp, xây dựng phẩm chất, nhân cách con người. Trên thực
tế, những căn bệnh này đã nhiều lần được “vạch mặt chỉ tên”, song nó vẫn là một
trong những vấn đề nhức nhối trong hoạt động giáo dục.
Thực trạng và giải pháp nâng cao
chất lượng giáo dục phổ thông, giáo dục đại học là một trong 3 nhóm vấn đề
“nóng” được nhiều đại biểu Quốc hội chất vấn Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
Phùng Xuân Nhạ tại Kỳ họp thứ năm, Quốc hội khóa XIV.
Tại sao chất lượng giáo dục
phổ thông được đưa ra chất vấn tại kỳ họp lần này? Bởi chất lượng giáo
dục phổ thông không chỉ phản ánh bức tranh giáo dục của một đất nước, mà
còn là cơ sở, tiền đề để nâng cao chất lượng giáo dục đại học. Những năm qua,
tuy giáo dục phổ thông đã có sự đổi mới đáng kể, song vẫn chưa đáp
ứng được mục tiêu, yêu cầu đặt ra. Chính lãnh đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo đã
thừa nhận, chất lượng giáo dục mới chỉ được quan tâm ở kết quả tiếp thu kiến
thức, mà chưa chú trọng đến kết quả phát triển phẩm chất và năng lực học sinh;
việc kiểm tra, đánh giá học sinh vẫn nặng về điểm số, làm cho bệnh thành tích
trong giáo dục chưa được ngăn chặn triệt để.
Nhận định của lãnh đạo
ngành giáo dục có vẻ nhẹ hơn so với cách đây 5 năm, khi Trung ương
Đảng khóa XI ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW chỉ rõ một trong những nguyên nhân
khiến chất lượng giáo dục phổ thông hạn chế là do “bệnh hình thức, hư
danh… chậm được khắc phục, có mặt còn nghiêm trọng hơn”.
Bệnh thành tích, hình thức, hư
danh đáng ra không nên có trong môi trường giáo dục, bởi đây là cái nôi nuôi
dưỡng, vun trồng, bồi đắp, xây dựng phẩm chất, nhân cách con người. Trên thực
tế, những căn bệnh này đã nhiều lần được “vạch mặt chỉ tên”, song nó vẫn là một
trong những vấn nạn nhức nhối trong hoạt động giáo dục. Điều này thấy rõ nhất
trong việc xếp loại học sinh giỏi cuối năm ở các trường. Thống kê gần đây của
Bộ Giáo dục và Đào tạo cho thấy, tỷ lệ học sinh giỏi cuối năm ở nhiều địa
phương năm sau thường cao hơn năm trước. Ví như tại 5 thành phố trực thuộc
Trung ương (Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh và Cần Thơ), số
lượng học sinh giỏi toàn cấp có năm lên đến 400.000 em, chiếm tỷ lệ hơn 40%,
thậm chí Hà Nội, Hải Phòng có năm có gần 50% học sinh xếp loại học lực giỏi
trong toàn cấp. Được biết năm học 2017-2018 vừa qua, các trường Trung học Cơ sở
ở quận Cầu Giấy (Hà Nội) có hơn 66% học sinh Trung học Cơ sở có học lực giỏi,
hơn 71% học sinh Trung học Cơ sở được công nhận tốt nghiệp loại giỏi...
Nhiều chuyên gia giáo dục từng
trăn trở: Có phải bây giờ con em chúng ta giỏi hơn các thế hệ cha anh trước
đây? Xét về xu hướng phát triển, thế hệ sau thông minh, giỏi giang hơn thế hệ
trước là điều bình thường, hợp quy luật và đó cũng là cái may, cái phúc của
nước nhà. Nhưng thực ra cái sự “giỏi” nhanh của một bộ phận học sinh chỉ được
định lượng bằng những điểm số học tập cao bất thường do nhiều trường, nhiều
lớp, nhiều giáo viên chạy theo thành tích để “đánh bóng” tên tuổi của mình. Cái
sự “giỏi” đó không phản ánh thực chất khả năng, trình độ học sinh cũng như làm
sai lệch bản chất của mục tiêu giáo dục toàn diện.
Mục tiêu lớn nhất, bao trùm nhất
của đổi mới giáo dục hiện nay là chuyển mạnh quá trình giáo dục từ trang bị
kiến thức sang phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực người học. Do đó, mấu
chốt của vấn đề là không chỉ đổi mới nội dung chương trình và phương pháp dạy
học, mà còn phải đổi mới hình thức, cách thức kiểm tra, đánh giá kết quả của
học sinh và đánh giá thực lực của các cơ sở giáo dục. Nếu còn quá coi trọng về
điểm số của học sinh hay xếp loại mức độ hoàn thành nhiệm vụ của thầy, cô giáo
và đánh giá năng lực trường, lớp chỉ đơn thuần bằng những kết quả học sinh
giỏi, học sinh lên lớp… thì căn bệnh thành tích, hư danh trong giáo dục không
được triệt tiêu tận gốc. Đây cũng là nguy cơ làm chậm lộ trình đổi mới căn bản,
toàn diện nền giáo dục nước nhà và vì thế, giáo dục Việt Nam khó có thể hội
nhập, bắt nhịp với xu thế giáo dục quốc tế./.
Tác
giả: Thiều Trang - Tường Vân
NÊN BỎ NGAY KỲ THI
HỌC SINH GIỎI
Nhiều ý kiến cho rằng, hiện nay
vẫn còn nhiều nơi chạy theo thành tích trong thi cử, trong đó chạy đua theo kỳ
thi học sinh giỏi là
minh chứng điển hình. Vì vậy, nên bỏ kỳ thi học sinh giỏi các cấp để tránh
“di căn” sang chương trình giáo dục mới đang triển khai hiện nay.
Thi
học sinh giỏi là tác nhân gây bệnh thành tích
Nhiều chuyên gia đã thẳng thắn
chỉ ra một trong những bất cập của nền giáo dục nước nhà là học sinh bậc phổ
thông vẫn còn tình trạng học nhồi nhét kiến thức, chạy theo thi cử, thành tích
dẫn đến học lệch, học chuyên sâu một môn học khi còn quá sớm. Điển hình cho mặt
trái đó chính là nỗ lực ôn luyện để tham gia kỳ thi học sinh giỏi các cấp.
Trao đổi với Lao Động về vấn đề
này, Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Tất Dong - nguyên Phó Chủ tịch Hội Khuyến
học Việt Nam - cho rằng, cách thi đơn môn, học lệch, học tủ sẽ không đánh
giá được con người toàn diện, trong khi đó mục tiêu giáo dục phổ thông mới là
phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực người học. Theo Giáo sư Dong, học
sinh phổ thông học thực chất giỏi là tốt, nhưng phải gắn giỏi với thực tiễn,
gắn vào lao động sản xuất chứ không dừng lại học để thi.
“Việc thi cử đã thành nếp nên khó
sửa. Báo cáo hằng năm có bao nhiêu học sinh giỏi cấp tỉnh, bao nhiêu cấp huyện
nhưng thực chất những giải thưởng đó không giải quyết được vấn đề gì. Thi học
sinh giỏi chính là một tác nhân gây bệnh thành tích, đang "gặm nhấm"
giáo dục.
Vì muốn thi giải cao thì phải
luyện gà nòi, muốn có học sinh giỏi thì phải chọn học sinh, tổ chức lớp, chọn
giáo viên, luyện thi tốn rất nhiều thời gian và công sức. Chưa kể, khi mang về
danh hiệu học sinh giỏi các cấp, học sinh có lao động giỏi, có thành chuyên gia
thực thụ ở các lĩnh vực không hay chỉ học để phục vụ một kỳ thi?" - Giáo
sư Dong nêu quan điểm.
Nên bỏ
ngay kỳ thi học sinh giỏi
Nguyên Phó Chủ tịch
Hội Khuyến học Việt Nam Phạm Tất Dong cho rằng, muốn duy trì danh
hiệu học sinh giỏi phải có tiêu chuẩn và tiêu chuẩn đó cần gắn liền với đời
sống, không chỉ giỏi trên giấy tờ.
"Học phải đi đôi với hành.
Học chỉ để đi thi lấy giải thì đó là hư danh, không giải quyết được vấn đề
gì"- Giáo sư Dong nói.
Trước thực trạng nhiều giáo viên,
học sinh không còn mặn mà với việc thi học sinh giỏi, thậm chí xem đó là gánh
nặng và chuyển hóa thành áp lực dai dẳng, thầy Nguyễn Xuân Khang - Hiệu trưởng
trường Marie Curie (Hà Nội) cho rằng, nên bỏ kỳ thi học sinh giỏi các cấp càng
sớm càng tốt để khỏi “di căn” sang chương trình giáo dục mới đang triển khai
hiện nay.
Đặc biệt, trong bối cảnh hiện
nay, học sinh học trực tuyến đến 2/3 năm học, việc thi học sinh giỏi chắc chắn
không đạt chất lượng cao, gây áp lực cho giáo viên, học sinh và phụ huynh.
"Thời điểm này chỉ cần các
trường tập trung cho hoạt động dạy và học chính khóa, nếu tiếp tục tổ chức kỳ
thi học sinh giỏi rất áp lực, vất vả cho thầy và trò" - thầy Khang nói.
Có
nhiều cách để khuyến khích, động viên học sinh
Trước ý kiến cho rằng, cuộc thi
học sinh giỏi là động lực để học sinh phấn đấu, Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Tất
Dong - nguyên Phó Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam - cho hay, có rất
nhiều hình thức để cổ vũ, tạo động lực cho học sinh phấn đấu, gắn "học đi
đôi với hành". Ví dụ, tài trợ các gói học bổng cho học sinh đạt kết quả
xuất sắc, giải thưởng lớn cho học sinh có nhiều sáng kiến, đóng góp cho xã hội.
"Hội Khuyến học hiện nay
cũng đang triển khai. Nếu học sinh học tập tốt, lao động tốt, được công nhận là
học sinh tích cực trong các phong trào của học sinh, Hội Khuyến học sẽ có phần
thưởng rất lớn. Đây có thể là hình thức thay thế cho danh hiệu giỏi cấp huyện,
cấp tỉnh.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp có
thể ưu tiên những học sinh có nhiều thành tích trong học tập và tu dưỡng đạo
đức, sau khi tốt nghiệp lớp 12 sẽ được đưa vào đào tạo và giữ lại làm việc, đó
cũng là chính sách thúc đẩy học sinh học tập và rèn luyện, gắn học với hành,
xóa bỏ tư tưởng học để đi thi" - Giáo sư Dong nhấn mạnh.
Mời nghe Khề Khà Truyện đọc truyện ngắn
CHUYỆN CỦA GÃ KHỜ của Đặng Xuân Xuyến:
0 comments:
Đăng nhận xét