NGHĨ
VỀ THƠ BIỂU CẢM
VÀ
THƠ BIỆN LUẬN
Tập
thơ “Thắp Tình” của Thành Tôn do “Ngưỡng Cửa” xuất bản vào tháng 7 năm 1969,
trong đó có hai bài thơ tình-cờ ở cạnh nhau (trang 67/68 và 69/70), nhưng tính
chất thì lại gần như khác hẳn nhau, một nghiêng về biện luận và một nghiêng về
biểu cảm. Chúng gợi hứng cho người viết bài này đề cập đến, vì đây là vấn đề
người viết cũng đã từng bàn qua nơi bài “Sự giải thích trong thơ” (Trong Dòng
Cảm Thức Văn Học Miền Nam, sách xb năm 2006, từ trang 15). Nhưng trước
hết, xin đề cập đến những câu thơ rất đạt của nhà thơ Thành Tôn trong thi phẩm.
Bốn câu thơ lục bát dưới đây của Thành Tôn thật hay, chắc hẳn ai đọc tới cũng
thấy cách dùng chữ tài tình. Những chữ khá mới trong thơ, nhưng cách-dùng-chữ
không phải chưa ai có. Nổi bật trong những người khởi xướng cách dùng chữ và
dùng thi-ảnh tân kỳ là Cung Trầm Tưởng. Thành Tôn sáng tác thơ trong thời kỳ
manh nha thơ tân kỳ của Tạp chí Sáng Tạo (tân kỳ về đảo ngữ, tạo từ ngữ lạ, và
tân kỳ trong thi ảnh), cho nên mặc dù từ ngữ khá mới riêng của Thành Tôn, nhưng
cách-dùng thì có lẽ đã chịu ảnh hưởng từ người khác. Riêng mà chưa khác biệt,
cũng như điệu tango riêng, điệu valse riêng, nhưng cách thức một nam một nữ gắn
bó biểu diễn trên sân khấu thì vẫn giống nhau; thật khác biệt lối khiêu vũ đi
hàng một của người Tây Nguyên Việt Nam hay lối khiêu vũ tập thể đi theo hàng
chữ chi và tự do sáng tạọ bước đi của từng loài thú, trong điệu múa người da đỏ
Mỹ Châu…. Nói có dẫn chứng, những câu thơ hay của nhà thơ Thành Tôn dưới đây có
chút phảng phất từ các câu thơ “Cổ cao áo kín đi về buồn-tôi” và
“Buông đôi tay, rỗng sọ đầu/ Mi xuôi mắt ngủ giấc sầu cô miên” của Cung
Trầm Tưởng. Một chút ảnh hưởng từ khí-hậu-sáng-tạo chung của giới trẻ Miền Nam
lúc đó, do vậy thơ Thành Tôn tuy xuất sắc với “gió võng mưa dù” mà từ
lâu không được nêu ra làm điển hình cho các trích dẫn thơ lục bát tân kỳ:
Tay không vòng giáp thân gù
Cõi này gió võng mưa dù mộ ôi
Kiếp nào thẩm thấu khuya tôi
Má nheo mật lệ xẻ bồi tượng khô.
(Trong
bài Tội Đồ)
Về đây nấm đất hoang đường
Nằm nghe hơi thở côn trùng phân thây.
(Trong
bài Vào Lòng Đất)
Cung
Trâm Tưởng sáng tạo từ ngữ “buồn-tôi” đã được giới yêu chuộng thơ thời Văn Học
Miền Nam tán thưởng và sau này được nhiều nhắc nhở. Thành Tôn với
“khuya-tôi” và “một-ta” cũng là những điển hình cho lục bát tân kỳ, cho dù sáng
tạo của anh không phải là sáng-tạo-chủ-xướng. Ở trong vòng ảnh hưởng không hẳn
là điều làm hạ giá. Có ảnh hưởng của một phong trào làm thành dòng lớn (như
phong trào làm thơ mới thời Tiền chiến 1932-1945), có phong trào chỉ rải rác
vài người (như phong trào làm thơ toàn từ ngữ huyền ảo khó hiểu kiểu Xuân Thu
Nhã Tập). Phong trào làm thơ lục bát tân kỳ là dòng-thơ-đáng-kể (không rầm rộ, cũng
không lẻ tẻ). Nếu xét kỹ, ta thấy phong trào lớn của lục bát là
lục-bát-tập-trung (nghĩa là trong các bài thơ lục bát ngắn, sau các câu thơ
khởi đầu bình thường hay một chút khác thường, thi sĩ tập trung vào
hai câu cuối làm sao cho thật ấn tượng). Ấn tượng ấy có khi hết sức lạ lẫm; có
khi biền ngẫu đối xứng; có khi bàng bạc; có khi vang vọng; có khi thật trái
khuấy với tiên liệu của ta… Thật ra lục bát tập trung cho thật hay ở hai câu
cuối không đích thực là phong trào, mà chính là cách thức gần như quy ước chung
khi sáng tác. Nhưng cũng có nhà thơ tránh không muốn chỉ tập trung vào hai câu
cuối mà đặt các câu thơ ấn tượng ở vị trí giữa bài thơ. Thành Tôn là một người
trong số đó. Các câu thơ hay trích dẫn dưới đây đều nằm ở giữa bài:
Máu hồng mạch sẻ lần qua
Bàn chân vĩa phố một ta kẻ chờ.
……….
Đi, về bóng lạ bàn chân
Dòng sông nghiệp dĩ tiếp dần biển khơi
Quanh co nghĩ rộng đất trời
Cái tôi hiện hữu một thời vong nô.
(Trong
bài Ranh Giới).
“Thắp Tình”, nội dung tiềm tàng qua nhan đề
thi phẩm có nghĩa là làm sáng lại tình người, làm ấm lại đời, mà trong bài thơ
đầu tiên “Nói Với Con Gái” được trình bày như một thông điệp gửi cho thời buổi
khổ đau kéo dài quá lâu trên đất nước: “Con thức dậy với đôi mắt dịu dàng của
tuổi thơ cha không có. Đôi má mủn mỉm của ấu thời mẹ đánh rơi…”. Thắp lại
tình người thì biết bao nhiêu thứ tình, nên có vẻ trừu tượng bao quát, nhưng
đau khổ do chiến tranh thì cụ thể rõ ràng trong bài thơ “Thư Cho Mẹ”: Trên
xứ sở xanh xao từng tiếng súng/ Trong hồn người dấu đạn đã chia phe. Lúc
sáng tác tập thơ này, tác giả mới 25 hay 26 tuổi, tuy ở vào lứa tuổi đã trưởng
thành nhưng làm sao “thắp tình” nỗi cả một thời đại nhiễu nhương nằm vào “một
phần tư thế kỷ 20” thuộc lịch sử Việt Nam, nên một mặt thì muốn thắp tình, một
mặt thì cũng ý thức mình chỉ là một phần tử quay trong vòng xoáy:
Tôi chóng mặt đi theo chiều trôn ốc
……….
Thử đứng lại nhưng dòng sông vẫn chảy
……….
Tôi xa lạ như tháng ngày cuốn hút
……….
Tôi lấy trớn để thăng bằng lại.
(Trong
bài Cuộc Đuổi Bắt)
Những
ý tưởng và từ ngữ nhà thơ Thành Tôn đã sáng tác trong thi ca thể hiện như trên,
đã xác nhận nhà thơ có khuynh hưóng làm thơ tân kỳ, và nội dung hơi cao vọng
muốn thắp tình thời thế. Nhưng đọc bài thơ dưới đây, có thể nói đó là một trong
vài bài thơ hiếm hoi nghiêng về “chân quê” hay “chơn chất”. Có lẽ tác giả muốn
sáng tác thơ khác màu sắc một chút, nên đôi bài có vẻ như không đứng chung dòng
thơ trong cả thi phẩm, nhưng nhờ vậy ta lại khám phá thấy tính chất nhân văn
xuyên suốt cả chiều dài đất nước qua từ ngữ (cách đặt tên người và nơi chốn):
Đợt khói lam chiều tương tư mái rạ
Anh có thấy gì trong đó hay không?
……….
Sáng ra đồng những bác Tư cày cuốc
Trong trường làng những thằng Út ê a
Vọng từ ruộng dâu tiếng hò quen thuộc
Giọng những cô Lài trầm bổng gần xa
……….
Trống sớm làng Trung, chuông chiều xóm Thượng
Tiếng quê hương vang vọng tháng năm dài…
(Trong
bài Hương Đồng Phấn Nội)
Đến
đây, xin bắt đầu đề cập đến thơ biểu cảm và thơ biện luận mà ta thấy hiện diện
trong hai bài thơ tình cờ đứng cạnh nhau trong thi phẩm Thắp Tình của Thành
Tôn, bài “Giả Dụ Cho Một Người” và bài “Tinh Thể”. Nói một cách cường điệu thì
thơ biểu cảm là “Thơ Đoạt Hồn” và thơ thiên về biện luận là “Thơ Đoạt Trí”.
Nghiêng về biện luận mà thôi, ta không khẳng định tác giả hoàn toàn biện luận,
vì đã là thơ thì phải dùng hình ảnh, phải có nhạc tính, không phải toàn từ ngữ
trừu tượng. Nhưng khi đọc bài thơ thiên về biện luận, dù là đầy ấp hình ảnh, dù
là điều hòa âm điệu, ta vẫn bận trí, cần đọc đi đọc lại vài lần để nắm bắt điều
tác giả muốn diễn tả. Bận trí như vậy, ta cường điệu là thơ đoạt trí. Còn khi
đọc được bài thơ biểu cảm, ta thấy lâng lâng cảm khoái hoặc chìm vào mơ hồ
huyền ảo, ta không cần trí tìm hiểu điều gì cả, mà chỉ thích thú hoặc tự nhiên
buồn buồn qua lời thơ, có khi chưa rõ tác giả nói cái gì. Chưa rõ điều gì tác
giả muốn diễn tả mà lại rung cảm, ta cường điệu nói đó là “thơ đoạt hồn”. Ví dụ
cụ thể như khi ta đọc thơ của Nguyễn Xuân Sanh trong nhóm Xuân Thu Nhã Tập thời
tiền chiến 1932-1945, ta rơi vào ảo diệu của từ ngữ đầy tính thi ca, không rõ
tác giả nói điều gì: “Quỳnh hoa chiều đọng nhạc trầm mi/ Hồn xanh ngát chở dấu
xiêm y… Lên mùa xuân khách vút xe hương/ Vai nghiêng suối trái lạnh hồn
đường”. Có dư luận nói tác giả làm thơ như vậy chỉ là lựa chọn một số từ
ngữ huyền ảo cùng vần bằng, cùng vần trắc, cho vào từng hộp riêng; cứ lấy ra đủ
7 từ cho một câu và cũng theo thứ tự niêm luật hoặc đôi khi ít tuân theo niêm
luật cho có vẻ phóng khoáng, rồi ráp lại một cách luân phiên tình cờ. Nhờ vậy
ta có bài thơ huyền ảo, có nhạc tính do niêm luật, nhưng khó hiểu. Nếu như vậy
thì đây là “thơ ảo thuật”, và ảo thuật đã làm ta quên sự đòi hỏi sáng sủa của
trí hiểu. Nói như thế thì những câu thơ sau đây không thể liệt vào ảo thuật mà
phải liệt vào nghệ thuật vì tính chất tuyệt vời, cũng của Nguyễn Xuân Sanh: “Tỳ
bà sương cũ đựng rừng xa/ Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà… Nghe mạch hương, mùa khua
trái giữ/Tay nao sương đất hạt lầu đời”. Có bài thơ không làm ta quên hẳn
trí, mà chỉ như yêu cầu tạm gác qua sự tìm hiểu, ngay lúc “chạm trán” với bài
thơ. Thoạt tiên ta “chìm vào” tịch lặng trước đã, sau đó “hồi tỉnh” mà tìm hiểu
sau. Nói tóm, thơ “đoạt trí” thì phần “logic” chặn ta trước cửa khi bước vào
căn nhà thơ, “thơ đoạt hồn” (không phải là thơ ảo thuật) thì mở toang cửa cho
ta vào ngay, sau đó phơi bày cho ta biết đã qua cửa nhờ vào đâu, nghĩa là nó
vẫn tiềm tàng “logic” nếu ta muốn biết. Ta thử đọc bài thơ “Ao cũ” của Thiền sư
Basho để minh thị phần “logic” đi sau phần hồn cảm: “Ao cũ/ Con ếch nhảy vào/ Vang
tiếng nước xao.” (Nhật Chiêu dịch, kèm theo lời bàn như sau: Một con
ếch đã đánh thức vũ trụ bằng bước nhảy của mình, giống như một tiếng gõ cửa có
thể mở cả vũ trũ… Ta là chiếc ao cũ, và là tiếng vang của chính ta, là tiếng
vang của vũ trũ. Sau phần hồn cảm mà tác giả Nhật Chiêu đã đại diện cho ta
mà phát biểu như trên, dĩ nhiên ta cũng “hồn cảm” như vậy (nên mới nói Nhật
Chiêu là đại diện). Và sau đó là phần “logic” ta xét thấy như sau: Những
sự kiện trong bài thơ tiềm ẩn lời giải thích về liên hệ nhân quả; có con ếch
nhảy vào thì mới có nước xao; có hoàn toàn vắng ngắt chung quanh thì mới có
vang dội vào tâm hồn; có trong vườn cũ 500/600 năm thì mới nhận ra thời gian và
không gian đã thuộc về vũ trụ thăm thẳm. Bây giờ ta đọc đoạn thơ dưới đây
của Thành Tôn, ta chạm trán với những “giả dụ hình tượng”, chúng bắt trí ta
phải tìm hiểu tác giả muốn liên hệ điều gì mà hình tượng đó có thể là đại diện,
có khi đại diện cho hai điều chứ không phải một. Hai điều làm con người không
biết điều nào là đúng, hoặc cả hai đều đúng. Tương tự như trong lời hát nói về
một nhạc sĩ tấu nhạc quá hay làm cho người đẹp rơi vào tình trường, và nhạc sĩ
phân vân: “Nàng yêu tôi hay yêu đàn?” Thành Tôn cũng bắt trí ta phân vân
như vậy, cái nào cũng đúng, và có khi cả hai đều đúng:
Giả dụ tôi, hình nhân canh ruộng lúa
Áo quần mang, mũ đội, đứng dang tay
Chim chóc sợ tôi hay thằng người giả
……….
Giả dụ tôi, tượng trưng bày triển lãm
Để bị nhìn, thay vì được hỏi han
Người ca tụng tôi, hay thiên tài nghệ thuật
………
Giả dụ tôi, ngai thờ ngôi linh tượng
Ý tưởng người, hay tôi hiển linh.
(Trong
bài Giả Dụ Cho Một Người)
Còn
vài giả dụ hình tượng nữa trong bài thơ, xin nêu ra luôn cho dễ nhận ra sự “nghiêng
về trí” của bài thơ, như tác giả hỏi khi khấn vái phù thủy là do sự thành
ý của người sùng bái hay chỉ nói ra lời giả dối của thầy cúng. Thơ nghiêng về
trí, nên nó có thể mang tính đa dạng do trí ta săm soi, lắm khi làm ta diễn sai
ý tác giả, vì ta không trực cảm gần kề với đồng điệu cùng tác giả như khi đọc
thơ biểu cảm. Trường hợp “giả dụ tôi là phù thủy” trình bày như trên,
nhưng không chắc ý tác giả muốn nói như vậy. Và “giả dụ tôi là tượng trưng
bày triển lãm”, ta có thể đoán tác giả muốn phát biểu về tính phức tạp
trong tình cảm người khi yêu thích pho tượng. Họ ca tụng điêu khắc gia hay đúng
ra là ngợi khen kiệt tác nghệ thuật mà không kể gì đến người tạo ra? Hay là họ
chỉ trầm trồ thiên tài nghệ thuật (một giới siêu đẳng nói chung chứ không phải
cụ thể con người tôi). Đến giả dụ thứ năm, giả dụ sau hết của bài thơ:
“Giả dụ tôi là anh chẳng hạn” thì thật khó hiểu ý tác giả muốn nói gì với những
câu tiếp theo “Thử rờ xem mặt mũi tay chân/ Có phải chúng ta là dụng
cụ”. Ta nghĩ tác giả nói về thời thế phân tranh tận dụng con người vào
cuộc chiến; hoặc nghĩ tác giả nói về triết lý siêu hình ta nhìn tha nhân như
một đồ vật chứ không phải như một hiện sinh. Cả hai đều có thể đúng vì lúc tác
giả xuất bản tập thơ ở vào thời chiến tại Miền Nam Việt Nam; và ở vào thời
triết lý hiện sinh của Sartre (phổ biến trong giới văn nghệ Miền Nam) nói
về cái nhìn làm người khác bị nhốt trong thức giác của kẻ nhìn. Nghĩ xa nghĩ
gần, có khi theo thời thượng triết lý, ta cứ loanh quanh tra tìm ý, vì thơ bắt
độc giả bận trí.
Bây
giờ đến lượt ta đọc thơ nghiêng về biểu cảm của nhà thơ Thành Tôn trong bài
“Tinh Thể”. Cũng vậy, chỉ thiên về mà thôi, không hẳn hoàn toàn biểu cảm, vì
cũng có một chút biện giải ở trong thơ. Nhưng chạm trán đến bài thơ này, ta
hứng thú trong dòng hình tượng, trong dòng nhạc tính, trong dòng tình cảm nỗi
niềm trôi giạt của thân phận con người (về Địa Ngục hay Thiên Đường đều ngoài
tầm biết rõ của ta, thiếu Đức Tin làm ta phân vân). Hình, nhạc, tình, ba thứ
hòa quyện vào nhau làm ta thấy hay. Nhạc tính quen thuộc của lục bát, nhạc tính
do từng đôi biền ngẫu nhưng từ ngữ khá mới nên làm mất đi tính khuôn khổ cổ
điển. Khi đọc bài thơ, ta trôi theo lời thơ nên chưa kịp bận trí, sau đó mới
bận trí hỏi tác giả tại sao “lên cao” thì tan tành, và tại sao “xuống sâu” thì
không nỡ. Phải chăng lúc ấy (thập niên 1960) nhà thơ muốn nói đến kiến thức
khoa học du hành không gian (bay bằng tốc độ quá cao, nếu không có
trang phục phi hành thì không thể chịu nổi áp lực khi tàu vũ trụ vượt sức hút
trọng lực của Trái Đất). Và phải chăng “xuống sâu không nỡ” là do từ những kiến
thức triết lý phổ biến thời ấy (như Hữu-Tại-Thế của Heidegger, Hiện-Sinh-Phi-Lý
của Sartre). Ta trôi trong những hình tượng thi ca nhuốm màu Phật Giáo
“cát bụi trùng trùng diệt sinh”, và sau khi qua phút rung cảm ta mới bận
trí hỏi nhà thơ Thành Tôn có phải ý tứ trong bài cũng nhuốm màu sắc Thiên Chúa
Giáo (quỹ dữ, thần linh, bay bổng, trì lôi):
Quẩn quanh tháng tận năm cùng
Hai vai cát bụi trùng trùng diệt sinh
Về đâu quỹ dữ thần linh
Nửa thân bay bổng nửa mình trì lôi
Dấn thân lại muốn thu hồi
Đã nghe cát lở sông bồi loanh quanh
Lên cao nghĩ sẽ tan tành
Xuống sâu không nỡ thôi đành ở đây…
(Trong
bài Tinh Thể)
Mời
nhấp chuột đọc thêm:
- Các bài phê bình,
cảm nhận thơ0
- Đặng Xuân Xuyến -
Cảm nhận thơ văn 1l
- Đặng Xuân Xuyến -
Cảm nhận thơ văn 2l
Mời nghe Đặng Xuân Xuyến đọc bài thơ
BỎ YÊU, thơ của Đặng Xuân Xuyến:
*.
TRẦN VĂN NAM
Địa chỉ: Walnut, California,
Hợp Chủng
Quốc Hoa Kỳ.
.................................................................................................
- Cập nhật từ email: thaiquocmuu1@aol.com, ngày 06.07.2021.
- Ảnh minh họa cho bài viết được sưu tầm từ nguồn:
internet.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng
Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
0 comments:
Đăng nhận xét