MẸ
VÀ QUÊ HƯƠNG
Một
danh ngôn mà chúng ta thường nghe “thế
giới có rất nhiều kỳ quan, nhưng kỳ quan tuyệt vời và vĩ đại nhất vẫn là trái
tim người mẹ”.Thật vậy, bao nhiêu thơ viết về mẹ cũng không đủ, bao nhiêu
nhạc hát về mẹ cũng không vừa. Biển Thái Bình bao la, nước sông Hằng cuồn cuộn
nhưng không sao có thể so sánh được với tấm lòng của mẹ. Bản nhạc nào viết về
mẹ cũng hay, bài thơ nào viết về mẹ cũng cảm động bởi vì ngôn ngữ dành cho mẹ
là ngôn ngữ của trái tim.
Mẹ
là biểu tượng trọn vẹn và tuyệt đối của tinh thần Chân Thiện Mỹ. Nếu có một
người để chúng ta có thể san sẻ những điều thầm kín, riêng tư nhất, thì người
đó phải là mẹ. Nếu có một người có thể tha thứ cho chúng ta dù phạm phải bất cứ
một lỗi lầm gì, người đó sẽ là người mẹ. Tôi tin, nếu chúng ta biết dành ý nghĩ
đầu tiên của một ngày, thay vì để nghĩ đến chuyện hơn thua, danh lợi nhưng là
để nghĩ về mẹ, nghĩ về khuôn mặt của mẹ, tiếng cười của mẹ, lời dặn dò của mẹ
hay thậm chí chỉ để gọi tiếng mẹ thôi, chúng ta sẽ có một ngày an lành và hạnh
phúc.
Mẹ
là người mang ta đến cuộc đời, và cũng là nơi ta trở về. Người đàn bà chân mang
đôi dép ngược, khoác chiếc mền rách như trong một câu chuyện thiền mà chúng ta
có thể đã từng nghe kể, dù bao mùa mưa nắng vẫn không than van, không oán
trách, vẫn chờ đợi ngày về của đứa con mải mê trên đường đi tìm chân lý. Nếu
chân lý mà chàng trai trẻ kia đi tìm là tình thương và sự thật thì chân lý sẽ
không ở đâu xa mà trái lại vô cùng gần gũi. Trong tấm thân gầy yếu nhỏ nhoi của
người mẹ chứa đựng cả một đại dương của hy vọng, tình yêu, sự thật và lòng vị
tha sâu thẳm.
Hơn
mười năm trước, tôi có viết một bài thơ về mẹ, trong đó có hai câu đã trở thành
quen thuộc:
Ví mà tôi đổi thời gian được
Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười.
Bài
thơ ra đời trong một đêm mưa, sau lần điện thoại đầu tiên với mẹ tôi từ Việt
Nam. Giọng của mẹ như vọng lại từ một thế giới khác xa xôi. Tôi viết rất nhanh,
nhanh hơn khi viết những bài thơ khác nhiều. Những dòng chữ, những câu thơ đúng
ra là từ mơ ước, thao thức đã ấp ủ trong tâm thức tôi từ lâu lắm, chỉ chờ dịp
để tuôn ra. Tôi không làm thơ, tôi chỉ chép như có một người nào đang nhắc nhở
bên tai mình. Nguyên văn bài thơ như thế này:
Nhấc chiếc phone lên bỗng lặng người
Tiếng ai như tiếng lá thu rơi
Mười năm mẹ nhỉ, mười năm lẻ
Chỉ biết âm thầm thương nhớ thôi
Buổi ấy con đi chẳng hẹn thề
Ngựa rừng xưa lạc dấu sơn khê
Mười năm tóc mẹ màu tang trắng
Trắng cả lòng con lúc nghĩ về
Mẹ vẫn ngồi đan một nỗi buồn
Bên đời gió tạt với mưa tuôn
Con đi góp lá nghìn phương lại
Đốt lửa cho đời tan khói sương
Tiếng mẹ nghe như tiếng nghẹn ngào
Tiếng Người hay chỉ tiếng chiêm bao
Mẹ xa xôi quá làm sao vói
Biết đến bao giờ trông thấy nhau
Đừng khóc mẹ ơi hãy ráng chờ
Ngậm ngùi con sẽ giấu trong thơ
Đau thương con viết vào trong lá
Hơi ấm con tìm trong giấc mơ
Nhấc chiếc phone lên bỗng lặng người
Giọng buồn hơn cả tiếng mưa rơi
Ví mà tôi đổi thời gian được
Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười.
Bài
thơ đơn giản và dễ hiểu, không có gì phải cần bình giải. Tất cả chỉ để nói lên
tâm trạng của một người con xa mẹ, bay đi như chiếc lá xa cành, mười năm chưa
về lại cội. Năm tôi viết bài thơ, mẹ tôi, đã ngoài 60 tuổi và đang sống trong
căn nhà tôn nghèo nàn ở Hòa Hưng Sài Gòn. Căn nhà nhỏ có giàn hoa giấy đỏ đó là
nơi tôi đã sống tám năm.
Nhớ
lại đêm cuối cùng ở Sài Gòn, tôi đón xe xích-lô từ cửa sông về chào mẹ. Trời
mưa lớn. Nhưng khi gặp mẹ, với tâm trí ngàn ngập những lo âu, hồi hộp cho
chuyến đi, tôi không kịp nói một câu cho trọn vẹn ngoài ba tiếng “Con đi nghe”.
Và như thế tôi đi, đi không ngoảnh lại, đi như chạy trốn. Để rồi hai ngày sau,
khi chiếc ghe nhỏ của chúng tôi được hải quân Mỹ cứu vớt trên biển Đông vào
khuya ngày 13 tháng 6 năm 1981, đứng trên boong chiến hạm USS White Plains nhìn
về phía Nam, tôi biết quê hương và mẹ đã ngoài tầm tay vói của mình. Đời tôi từ
nay sẽ như chiếc lá, bay đi, bay đi, chưa biết ngày nào hay cơ hội nào trở về
nguồn cội.
Nếu
có một quốc gia mà những người dân của quốc gia đó đã phải từ chối chính đất
nước mình, từ chối nơi đã chôn nhau cắt rốn của mình, tôi nghĩ, đất nước đó
không còn bao nhiêu hy vọng. Việt Nam sau 1975 là một đất nước sống trong tuyệt
vọng như thế. Dân tộc Việt Nam những năm sau 1975 là một dân tộc sống trong tâm
trạng những kẻ sắp ra đi. Sài Gòn giống như một sân ga. Chào nhau như chào nhau
lần cuối và mỗi ngày là một cuộc chia ly. Bắt tay một người quen, ai cũng muốn
giữ lâu hơn một chút vì biết có còn dịp bắt tay nhau lần nữa hay không. Gặp
người thân nào cũng chỉ để hỏi “Bao giờ
anh đi, bao giờ chị đi”, và lời chúc nhau quen thuộc nhất mà chúng thường
nghe trong những ngày đó vẫn là “Lên
đường bình an nhé.”
Đất
nước tuy đã hòa bình rồi, quê hương đã không còn tiếng súng nhưng lòng người
còn ly tán hơn cả trong thời chiến tranh. Đêm cuối ở Sài Gòn lòng tôi ngổn
ngang khi nghĩ đến ngày mai. Ngày mai sẽ ra sao? Nếu bị bắt tôi sẽ ở tù như lần
trước nhưng nếu đi được thì sẽ trôi dạt về đâu?
Suốt
sáu năm ở lại Sài Gòn, tôi chỉ nghĩ đến việc duy nhất là ra đi. Khi chiếc ghe
nhỏ bị mắc cạn trong một con lạch ở Hải Sơn buổi sáng ngày 11 tháng 6 năm 1981,
trời đã sáng, nhiều người, kể cả một trong hai người chủ ghe, cũng bỏ ra về
nhưng tôi thì không. Tôi phải đi dù đi giữa ban ngày. Tôi phải tìm cho được tự
do dù phải bị bắt và ngay cả phải trả giá bằng cái chết. Tự do đầu tiên, biết
đâu cũng sẽ là cuối cùng và vĩnh viễn. Nhưng hai ngày sau, khi đứng trên boong
tàu Mỹ, tôi biết mình vừa mất một cái gì còn lớn hơn ngay cả mạng sống của
mình. Đó là đất nước, quê hương, bè bạn, con đường, tà áo, cơn mưa chiều, cơn
nắng sớm, và trên tất cả, hình ảnh mẹ. Không phải những người ra đi là những
người quên đất nước hay người ở lại bám lấy quê hương mới chính là người yêu
nước. Không. Càng đi xa, càng nhớ thương đất nước, càng thấm thía được ý nghĩa
của hai chữ quê hương. Không ai hiểu được tâm trạng người ra đi nếu không chính
mình là kẻ ra đi.
Nói
như thế không có nghĩa là tôi hối hận cho việc ra đi. Không, tôi phải đi. Nhưng
chọn lựa nào mà chẳng kèm theo những hy sinh đau đớn. Bài hát Sài Gòn Vĩnh
Biệt, tôi thỉnh thoảng nghe trên đài VOA khi còn ở Việt Nam như những mũi kim
đâm sâu vào tâm thức. Bao nhiêu điều hai ngày trước tôi không hề nghĩ đến đã
bừng bừng sống dậy. Bao nhiêu kỷ niệm tưởng đã chìm sâu trong ký ức đã lần lượt
trở về. Tự do, vâng, tôi cuối cùng đã tìm được tự do nhưng đó chỉ là tự do cho
chính bản thân mình. Những gì tôi đánh mất còn lớn hơn thế nữa.
Nhớ
lại đêm thứ hai trên biển, khi biết chiếc ghe chiều dài vỏn vẹn mười mét rưỡi
nhưng chứa đến 82 người của chúng tôi vừa cập vào thành tàu chiến của Mỹ thay
vì Ba-Lan hay Liên-Xô như mọi người trên ghe lo sợ, ai cũng hân hoan mừng rỡ.
Đám bạn tôi, có đứa thậm chí còn hô lớn “USA, USA” và ôm chầm lấy những người
lính hải quân Mỹ đang dang tay đỡ từng người bước lên khỏi chiếc cầu dây đang
đong đưa trên sóng.
Tôi
cũng vui mừng, biết ơn và cảm động nhưng không ôm chầm hay hô lớn. Lòng tôi,
trái lại, chợt dâng lên niềm tủi thẹn của một người tị nạn. Chiếc cầu dây mong
manh tôi bám để leo lên chiến hạm, trở thành chiếc cầu biên giới, không chỉ
cách ngăn giữa độc tài và tự do, của quá khứ và tương lai, mà còn giữa có quê
hương và thiếu quê hương. Tôi nghĩ thầm, cuối cùng, tôi cũng như nhiều người
Việt Nam khác, lần lượt bỏ đất nước ra đi mà thôi. Dù biện minh bằng bất cứ lý
do gì, tôi cũng là người có lỗi với quê hương.
Tôi
nhớ đến mẹ, người mẹ Hòa Hưng vất vả nuôi nấng bảy đứa con, trong đó tôi là con
lớn nhất, trong một hoàn cảnh hết sức khó khăn. Mẹ tôi bán bánh bèo ở đầu đường
để nuôi chúng tôi ăn học. Mẹ tôi tình nguyện đi kinh tế mới ở Sông Bé để các em
tôi còn được phép ở lại Sài Gòn học hết bậc phổ thông. Mẹ tôi đi mót lúa, mót
khoai gởi về nuôi nấng chúng tôi trong những ngày đói khổ.
Trong
tâm trí tôi, hình ảnh bà mẹ Hòa Hưng, đêm đầu tiên trong căn nhà không vách
trên vùng Kinh Tế Mới, khoảng 20 cây số phía nam thị trấn Đồng Xoài vào năm 1976.
Cánh rừng vừa được khai hoang vội vã này không ai nghĩ một ngày sẽ được gọi
bằng một cái tên rất đẹp, khu Kinh Tế Mới. Kinh Tế Mới là những căn nhà lá mỗi
chiều chỉ hơn mười mét do những bàn tay học trò của thanh niên xung phong dựng
lên, nối nhau chạy dọc theo cánh rừng hoang.
Tôi
kính yêu mẹ. Mẹ Hòa Hưng là người săn sóc tôi trong những tháng ngày khó khăn
nhất của tôi và người đã thôi thúc tôi viết nên bài thơ Đổi Cả Thiên Thu Tiếng
Mẹ Cười trong đêm mưa hơn mười năm trước. Tuy nhiên, mẹ của Đổi Cả Thiên Thu
Tiếng Mẹ Cười không phải là người đã mang tôi vào cuộc đời này.
Người
mẹ sinh ra tôi đã chết khi tôi còn rất nhỏ. Nhỏ đến nỗi tôi gần như không biết
mặt mẹ mình. Trong tuần hoàn của vũ trụ, giọt nước còn biết mẹ mình là mây,
chiếc lá còn biết mẹ mình là cây, còn tôi thì không. Tôi là đứa bé cô độc, một
con người cô độc, không anh em, không chị em. Tôi lớn lên một mình với cha tôi
trong cảnh gà trống nuôi con trong căn nhà tranh nhỏ ở làng Mã Châu, quận Duy
Xuyên. Đêm đêm nằm nghe cha kể chuyện thời trai trẻ buồn nhiều hơn vui của đời
ông. Những ngày tản cư lên vùng núi Quế Sơn. Những ngày sống trong túp lều
tranh dưới hàng tre Nghi Hạ. Và dưới hàng tre Nghi Hạ nắng hanh vàng đó, cha mẹ
tôi đã gặp nhau, đã chia nhau ly nước vối chua chua thay cho chén rượu tân hôn
nồng thắm. Dù sao, bên khung cửi vải, bên lò ươm tơ, họ đã cùng nhau dệt một
ngày mai đầy hy vọng. Mặt trời rồi sẽ mọc bên kia rặng tre già, mặt trăng rồi
sẽ tròn bên kia dòng sông Thu, những ngày chiến tranh, tản cư cực khổ sẽ qua đi
nhường bước cho hòa bình sẽ đến.
Nhưng
rồi chiến tranh như một định nghiệp, đeo đuổi theo số phận của đất nước chúng
ta, đeo đuổi theo số phận của đời tôi. Năm tôi 13 tuổi, chiến tranh đã cướp đi
cha tôi, người thân yêu cuối cùng của tôi. Chiến tranh lan tràn đến làng Mã
Châu, đẩy tôi ra khỏi xóm lụa vàng thân quen để làm người du mục trên quê hương
đổ nát của mình. Từ đó tôi ra đi. Từ chặng đường đầu tiên trên căn gác hẹp
trong con hẻm 220 Hùng Vương Đà Nẵng, đến chùa Viên Giác Hội An, xóm nghèo Hòa
Hưng, trại tị nạn Palawan và hôm nay trên nước Mỹ, nơi cách chặng đầu tiên
trong hành trình tị nạn của tôi hàng vạn dặm.
Hình
ảnh duy nhất của tôi về mẹ là ngôi mộ đầy cỏ mọc dưới rặng tre già ở làng Mã
Châu. Ngày tôi còn nhỏ, mỗi buổi chiều khi tan trường tiểu học, trên đường về
tôi thường ghé thăm mộ mẹ. Nhổ những bụi cỏ hoang, trồng thêm những chùm hoa
vạn thọ. Tôi ưu tư về cuộc đời và về thân phận của mình ngay từ thuở chỉ vừa
năm, bảy tuổi. Tại sao tôi chỉ có một mình? Tại sao mọi người đều lần lượt bỏ
tôi đi? Nếu mai mốt ba tôi cũng đi thì tôi sẽ sống với ai? Lớn lên tôi sẽ làm
gì? Tại sao đất nước tôi lại có chiến tranh? Những người du kích bên kia sông
là ai? Và ở đó những buổi chiều vàng, bên ngôi mộ nhỏ của mẹ, tôi để lòng tuôn
chảy những suy tư, dằn vặt đang bắt đầu tích tụ. Từ khi năm bảy tuổi tôi đã
linh cảm cuộc đời tôi sẽ là những ngày đầy biến cố. Tôi đã nghĩ đến chuyện một
ngày nào đó tôi sẽ đi xa khỏi rặng tre già, khỏi ngôi làng tơ lụa Mã Châu dường
như thôn làng nhỏ bé này sẽ không đủ lớn để chứa hết những buồn đau, u uất của
tôi. Nếu tuổi thơ là tuổi hồn nhiên với những cánh diều bay, với những con bướm
vàng thơ mộng thì tôi đã không có tuổi thơ. Tuổi thơ tôi là một chuỗi ngày ưu
tư và chờ đợi một điều gì sắp đến.
Mẹ
tôi qua đời vì bịnh trong một xóm nhà quê nghèo khó nên không có ngay cả một
tấm hình để lại cho tôi. Cha tôi thường bảo, tôi giống cha nhiều hơn giống mẹ.
Tôi cũng chẳng có cậu hay dì nên tôi lại càng không thể tìm đâu ra được một nét
nào của mẹ trong những người thân còn sống. Vì không biết mẹ, nên mẹ trở thành
tuyệt đối. Khi nhìn ánh trăng tròn trong ngày rằm tháng Bảy, tôi nghĩ đó là
khuôn mặt dịu dàng của mẹ, nhìn nước chảy ra từ dòng suối mát tôi nghĩ đến dòng
sữa mẹ, nhìn áng mây trắng bay trên nền trời tôi nghĩ đến bàn tay mẹ, nhìn những
vì sao trên dải thiên hà tôi nghĩ đến đôi mắt mẹ. Nói chung, hình ảnh nào đẹp
nhất, tinh khiết nhất, thiêng liêng nhất, đều được tôi nhân cách hóa nên hình
ảnh mẹ. Vẻ đẹp của mẹ tôi là vẻ đẹp không những tuyệt vời mà còn tuyệt đối.
Tôi
về thăm mộ mẹ lần cuối vào năm 1980 trước ngày vượt biển. Ngôi mộ đầy cỏ mọc
hoang vu. Sau 1975, ngay cả người sống cũng không ai chăm nom đừng nói gì
chuyện chăm nom cho người đã chết. Hôm đó, tôi ngồi nơi tôi đã từng ngồi trong
thời thơ ấu và kể cho mẹ nghe đoạn đời chìm nổi của mình. Tôi nói với mẹ rằng
tôi sẽ ra đi khỏi nước và hứa sẽ về dù biết nói như thế chỉ để an ủi hương hồn
mẹ mà thôi. Tôi cầu mong mẹ phù hộ cho đứa con duy nhất của mẹ được bình an
trong những ngày sóng gió sắp xảy ra.
Ôi đời mẹ như một vầng trăng khuyết
Vẫn nghìn năm le lói ở đầu sông.
Vâng,
vầng trăng bên dòng sông Thu Bồn từ đó không còn tròn như trước nữa.
Ai
cũng có một cuộc đời để sống. Nỗi bất hạnh nào rồi cũng nguôi ngoai. Vết thương
nào cũng lành đi với thời gian. Tuy nhiên có một nỗi bất hạnh sau bao nhiêu năm
dài vẫn còn, đó là bất hạnh của dân tộc Việt Nam. Điều làm tôi đau xót nhiều
hơn cả, không phải vì tôi mất mẹ, không phải vì tôi xa mẹ nhưng chính là sự
chịu đựng của hàng triệu bà mẹ Việt Nam triền miên suốt mấy chục năm qua, từ chiến
tranh sang đến cả hòa bình.
Trên
thế giới này, bà mẹ Nga, mẹ Ý cũng thương con như một bà mẹ Việt Nam. Trong lúc
tình yêu của một bà mẹ ở quốc gia nào cũng bao la, cũng rộng lượng, cũng vô bờ
bến, tôi vẫn tin một bà mẹ Việt Nam thì khác hơn nhiều. Bà mẹ Việt Nam, ngoài
là biểu tượng cho tất cả những nét đẹp của quê hương, đất nước, tình thương,
còn là những hình ảnh đầy thương tích, tủi buồn nói lên sự chịu đựng, gian nan,
khổ cực không thể nào đo lường hết được. Hình ảnh bà mẹ giăng tấm vải dầu trên
một góc đường Trần Hưng Đạo để che nắng che mưa cho bầy con thơ dại đang đói
khát. Hình ảnh bà mẹ chết đói sau khi ghe của mẹ đi lạc nhiều tuần trên biển.
Hình ảnh bà mẹ chết trong mỏi mòn tuyệt vọng dưới gốc me già trên góc phố Sài
Gòn vào một ngày mưa bão. Hình ảnh bà mẹ chết cô đơn trong chiếc thuyền chài
nghèo nàn. Tất cả hình ảnh đau thương đó đã trở thành mối ám ảnh thường xuyên
trong tâm trí tôi. Ám ảnh nhiều đến nỗi dù viết về bất cứ chủ đề gì, thể loại
gì, văn hay thơ, cuối cùng tôi cũng trở về với hình ảnh mẹ. Mỗi bước chân tôi
đi trên đường đời mấy chục năm qua vẫn còn nghe vọng lại tiếng khóc của những
người phụ nữ Việt Nam bất hạnh, đã khóc trong chiến tranh, khóc trong hòa bình,
khóc trong bàn tay hải tặc giữa biển Đông và khóc trên xứ người hiu quạnh.
Mơ
ước lớn nhất của tôi, vì thế, không phải cho tôi mà cho những người mẹ đang
chịu đựng, để các mẹ có cơ hội được sống trong một đất nước không còn hận thù,
rẽ chia, ganh ghét, một đất nước chan chứa tình đồng bào, một đất nước thật sự
tự do, ấm no, hạnh phúc. “Đổi cả thiên
thu tiếng mẹ cười” trong một ý nghĩa rộng hơn là ước mơ của tôi, của anh
chị, của cô chú và của tất cả những ai còn nghĩ đến sinh mệnh của dân tộc, về
một ngày đẹp trời cho đất nước mình.
Quá
nhiều máu và nước mắt đã đổ trên mảnh đất linh thiêng và thống khổ Việt Nam.
Mỗi người Việt Nam, hơn bao giờ hết hãy trở về với mẹ như trở về với chính cội
nguồn uyên nguyên của dân tộc mình. Trong đêm rằm tháng Bảy này, xin hãy cùng
nhau thắp lên những ngọn nến, dù nhỏ, dù đơn sơ nhưng được làm bằng chất liệu
dân tộc, nhân bản và khai phóng đã được tổ tiên chúng ta hun đúc sau hơn bốn
ngàn năm lịch sử.
Đời
tôi là những cơn mưa dài. Mưa khi tôi rời làng Mã Châu, mưa trong đêm đầu tiên
trong căn gác trên đường Hùng Vương Đà Nẵng, mưa dưới gốc đa già ở Chùa Viên
Giác, mưa khi tôi vừa đặt chân đến Sài Gòn lần đầu tiên và mưa lớn trong đêm
tôi rời đất nước ra đi. Nhưng tôi chưa bao giờ tuyệt vọng, chưa bao giờ cảm
thấy cuộc đời là hố thẳm. Tôi không sống trong hôm qua, trái lại mỗi ngày là
một chặng đường mới của đời mình. Tôi bình tĩnh đến độ hồn nhiên khi đón nhận
những khắc nghiệt đến với đời tôi và tôi rất lạc quan trong khả năng chuyển hóa
hoàn cảnh của chính mình.
Trong
cuộc đời này, tôi đã nhiều lần vấp ngã nhưng nhiều người cũng đã giúp vực tôi
dậy, lau khô những vết thương trên thân thể và trong cả tâm hồn. Tôi mang ơn xã
hội nhiều đến nỗi biết mình sẽ không bao giờ trả hết. Tôi biết ơn những người
đã che chở cho tôi và cũng cám ơn cả những người đã dạy tôi hiểu giá trị của
gian lao, thử thách. Cám ơn đất nước đã cho tôi được làm người Việt Nam, cám ơn
mẹ Duy Xuyên mang tôi đến thế gian này, cám ơn mẹ Hòa Hưng nuôi nấng tôi trong
những ngày bà con thân thuộc đã ruồng bỏ tôi, cám ơn cây đa già chùa Viên Giác
che mát cho tôi suốt năm năm dài mưa nắng.
Nếu
một mai tôi ra đi không kịp viết điều gì, thì đây, những kỷ niệm của một lần
ghé lại.
Mời
nhấp chuột đọc thêm:
- Các bài phê bình,
cảm nhận thơ0
- Đặng Xuân Xuyến -
Cảm nhận thơ văn 1l
- Đặng Xuân Xuyến -
Cảm nhận thơ văn 2l
Mời nghe Đặng Xuân Xuyến đọc bài thơ
QUÊ NGHÈO, thơ của Đặng Xuân Xuyến:
*.
TRẦN TRUNG
ĐẠO
Địa chỉ: Braintree, Massachusetts, Hoa Kỳ.
Email:
trantrungdao@gmail.com
.................................................................................................
- Cập nhật từ email: ngocthai1948@gmail.com, ngày 12.05.2021.
- Ảnh minh họa cho bài viết được sưu tầm từ nguồn:
internet.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng
Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
0 comments:
Đăng nhận xét