PHAN
KHÔI VÀ SĨ KHÍ
NGƯỜI
CẦM BÚT
Trong bài viết của nhà văn Xuân Đỗ: “Nhìn lại các danh sĩ, danh nhân Quảng Nam mà đặc biệt là “Tứ Kiệt Quảng Nam” (Phan Châu Trinh, Trần Quí Cáp, Trần
Cao Vân, Huỳnh Thúc Kháng), thì Phan Khôi có khuôn mặt đặc thù mang nhiều nét
ưu tư khắc khổ... Một kẻ sĩ khí tiết, nghèo không than, bại không nản, bị coi
thường không giận, bị xử oan không oán, bị chèn ép không bi phẫn, sống an nhiên
tự tại, quyết không khuất phục uy quyền, không đầu hàng trước cái ác, không về
phe cái xấu, không thích chốn quan trường, chẳng bon chen nơi thị tứ, mà chỉ
đem sở trường, sở học chăm làm cái gì đó làm di sản cho lớp hậu sinh”.
Những lời bày tỏ của anh Xuân Đỗ cũng giống như cái nhìn
của nhiều kẻ hậu sinh trên mảnh đất “cày lên sỏi đá” nhưng tự hào, hãnh diện
với về các bậc tiền bối đã để lại tấm gương cao đẹp cho quê hương.
*
Sông Vu Gia bắt nguồn từ vùng núi ở phía Tây Nam của tỉnh
Quảng Nam. Phần thượng nguồn ở Phước Sơn được gọi là Đăk Mi, sông chảy theo
hướng Nam lên Bắc. Khi qua địa bàn phía Đông huyện Nam Giang, sông được gọi là
sông Cái. Tại đây, nó nhận một chi lưu lớn ở phía Tây (tả ngạn), đó là sông
Giằng. Bắt đầu khi chảy sang huyện Đại Lộc, sông được gọi là Vu Gia và có dòng
chảy theo hướng Đông Tây. Sông Vu Gia chảy đến địa phận xã Đại Hòa ở phía Tây
Đại Lộc thì tách ra làm hai dòng, một là sông Yên chảy lên phía Bắc hội lưu với
sông Cầu Đỏ, một đi về phía Nam hội lưu với sông Thu Bồn.
Gò Nổi được bao bọc bởi sông Thu Bồn và sông Vu Gia gặp
nhau rồi tách làm hai nhánh sông tạo thành vùng đất bồi phì nhiêu, trước kia
thuộc tổng Đa Hòa, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, nay thuộc xã Điện Quang, huyện
Điện Bàn. Gò Nổi rộng khoảng vài chục cây số vuông, gồm có các làng Tư Phú, Bảo
An, La Kham, Xuân Đài, Trường Giang, Đông Bàn, Phú Bông. Đây là vùng đất đã
mang lại niềm tự hào cho quê hương Quảng Nam vì đã sản sinh ra những nhân vật
gắn liền với lịch sử dân tộc như Hoàng Diệu, Trần Cao Vân, Phạm Phú Thứ, Phan
Thành Tài, Lê Đình Dương... cùng nhiều vị khoa bảng nổi tiếng.
Nơi chốn đó, Phan Khôi, bút hiệu Chương Dân đã dấn thân
vào nghề báo từ tuổi thanh xuân cho đến tuổi thất thập, ông vẫn giữ được hào
khí của người cầm bút trong vụ án Nhân Văn – Giai Phẩm. Ông còn là nhà văn, nhà
lý luận sâu sắc và đóng góp trong phong trào thơ mới, điển hình với bài Tình
Già vào đầu thập niên 30. Ngoài ra, ông còn có bút hiệu Tú Sơn (Tout Seul) qua
dòng thơ trào phúng trên Phụ Nữ Thời Đàm; bút hiệu Thông Reo, ban đầu ký chung
với Đào Trinh Nhất và Diệp Văn Ký trên tờ Thần Chung, sau đó ông giữ luôn mục
“Câu Chuyện Hàng Ngày” nầy.
* Dòng Đời
Phan Khôi sinh năm 1887 tại làng Bảo An, huyện Điện Bàn,
tỉnh Quảng Nam, thân sinh ra ông là Phan Trân (1862-1935), đỗ phó bảng năm
1891, làm Tri Phủ ở Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Khi làm quan, là nhà nho yêu
nước, thấy hình ảnh lộng hành của Công Sứ Pháp nên ông từ quan về dạy học ở quê
nhà. Thân mẫu của Phan Khôi là con gái Hoàng Diệu, nguyên Tổng Đốc Hà Nội, quê
ở Xuân Đài. Tổng Đốc Hoàng Diệu anh dũng tuẩn tiết khi thành Hà Nội bị lọt vào
tay Henri Riviere năm 1882.
Theo dòng thời gian, cuộc đời của Phan Khôi từ nhỏ đến
khi lui về quy ẩn ở quê nhà, trước đây, có vài điều nhầm lẫn vì ông vừa là học
sinh, vừa là thầy giáo cùng một thời điểm. Trong quyển Nhớ Cha Tôi - Phan Khôi,
nhà xuất bản Đà Nẵng, 2001 của bà Phan Thị Mỹ Khanh, trích dẫn lại đôi dòng tóm
lược về ông:
“Sinh ra trong một
gia đình khoa bảng, nề nếp, bên nội cũng như bên ngoại, mặc dầu mồ côi mẹ và là
con một, cha tôi không ham chơi bời như một số cậu ấm cùng trang lứa, mà chỉ lo
chí thú học hành. Từ ngày mới lên năm, sáu tuổi, cha tôi tỏ ra thông minh, học
đâu nhớ đó...
Năm cha tôi được bảy tuổi thì chẳng may bà
nội tôi lâm bệnh rồi qua đời, ông nội tôi phần vì buồn phiền, phần thì phải lo
toan thu xếp việc nhà, không còn tâm trí kềm cập cha tôi thường xuyên như trước
dược. Tuy nhiên với tấm lòng ham học sẵn có, cha tôi vẫn ôn lại bài vở cũ và
mày mò tự học thêm, gặp chữ nào khó thì xin ông nội giảng giải.
Ngày ông tôi phải vào Diên Khánh nhậm chức
Tri Huyện, gia đình lại thiếu vắng bà nội nên lâm vào cảnh đơn chiếc. Ông tôi
bèn thu xếp gởi cha tôi về bên ngoại ở Xuân Đài... Nhưng chỉ được thời gian độ
một năm, bảy tháng, cha tôi không thấy thích thú gì việc học hành ở nhà cậu
nữa... Sẵn dịp ông tôi từ Diên Khánh về thăm nhà, cha tôi xin ông chuyển cho
mình học nơi khác. Sau khi cân nhắc kỹ, ông tôi quyết định đưa cha tôi về thôn
Thái La, làng Bất Nhị, gởi gấm cho cụ tú Trần Quý Cáp đang mở trường học tại
nhà...
Cha tôi chịu ảnh hưởng nhiều của cụ Trần về
mặt tư tưởng. Về học tập, do được cụ Trần hết lòng dạy dỗ trong một thời gian
khá dài nên cha tôi tiến bộ rõ rệt. Đến năm 15, 16 tuổi, khi chuyển qua cac
trường Huấn, trường Đốc, kỳ sát hạch nào của ông cũng chiếm hàng đầu, được
tiếng là sĩ tử thông minh của đất Gò Nổi...
Học giỏi như vậy, nhưng năm Bính Ngọ (1906)
ông 19 tuổi, lều chõng ra kinh đô Huế dự thi khoa thi Hương do Nam triều tổ
chức, ông chỉ đỗ tú tài...
... Năm 1907, cha tôi được phong trào Duy Tân
Quảng Nam giới thiệu đi học tiếng Pháp tại trường Đông Kinh Nghĩa Thục Hà
Nội... Đến Hà Nội, cha tôi được nhà trường nhận vào học một lớp tiếng Pháp do
ông Nguyễn Bá Học phụ trách... Nhà trường còn bố trí cho cha tôi dạy một số giờ
chữ Hán những buổi không có lớp tiếng Pháp. Ngoài ra, ông còn viết bài, sửa bài
cho tờ Đăng Cổ Tùng Báo.
Công việc dạy và học đương yên ổn thì trường
Đông Kinh Nghĩa Thục và tờ Đăng Cổ Tùng Báo bị nhà cầm quyền Pháp đóng cửa,
những vị sáng lập bị mật thám xét hỏi. Ông Nguyễn Bá Học rủ cha tôi chạy về Nam
Định, tạm lánh nhà ông để tiếp tục học tiếng Pháp đang dở dang. Nhưng ở đây vẫn
không yên, ông Nguyễn Bá Học bị mật thám Nam Định theo dõi, gọi tới gọi lui
thẩm vấn nhiều lần. Cha tôi buộc phải rời nhà ông Học, tìm đường quay về Quảng
Nam...
Vào khoảng năm 1909, cha tôi ra Huế xin vào
lớp nhì trường Pellerin để tiếp tục học tiếng Pháp... Ban giám hiệu thấy cha
tôi đã 22 tuổi mà ham học nên nhận đơn, nhưng buộc phải qua cuộc sát hạchmới
cho vào lớp nhì, học chung với học trò trên 10 tuổi. Hai tháng đầu, ông bị xếp
hạng bét lớp, nhưng từ tháng thứ ba trở đi, ông vượt lên đứng đầu trước sự ngạc
nhiên của thầy giáo và đám bạn nhỏ. Nhưng chưa kết thúc năm học thì ông phải về
quê thọ tang bà cố tôi, sau đó ở nhà luôn...
Thời gian nầy (1910) thực dân Pháp và Nam
triều mở một đợt vây bắt bớ vì chúng thấy phong trào Duy Tân vẫn còn âm ỉ, và
hơn nữa, Đảng Việt Nam Quang Phụcï Hộicủa cụ Phan Bội Châu đang bắt đầu nhen
nhóm. Một hôm, cha tôi nhận được trát của phủ Điện Bàn đòi xuống hầu, nhưng ông
vừa tới nơi thì bị tống giam vào nhà lao tỉnh, sau vài hôm lại bị giải giao về
nhà tù Hội An, giam chung với các cụ Huỳnh Thúc Kháng, Phan Thúc Duyên và nhiều
nhân sĩ đã bị bắt trước đó vài hôm...
... Năm 1913, mãn hạn tù. Ông nội tôi hối
thúc việc cưới vợ, coi đó là biện pháp giữ chân con trai tốt nhất... Cưới vợ
rồi, cha tôi mở lớp dạy chữ Hán và chữ Quốc Ngữ tại nhà, được học trò xa gần
đến học rất đông, vì ông có cải tiến lối giảng dạy dễ hiểu hơn so với các thầy
đồ xưa...
... Vào khoảng giữa năm 1916, cha tôi ra Hà
Nội lần thứ hai với một quyết tâm cao hơn bao giờ hết, để thực hiện cho nguyện
vọng ấp ủ bấy lâu là làm báo, viết văn, dù cho khó khăn đến mấy cũng phải vượt
qua... Lên Hà Nội, cha tôi gặp Nguyễn Bá Trạc là người cùng quê và là bạn học
cũ quen biết. Ông Nguyễn đã từng tham gia phong trào Đông Du, qua Nhật rồi trở
về, được Pháp sử dụng, sau bổ nhiệm làm Tổng Đốc Thanh Hóa. Nguyễn Bá Trạc giới
thiệu cha tôi vào làm báo Nam Phong do Phạm Quỳnh chủ bút....
Nhưng dần dần, ông nhận ra rằng báo Nam Phong
chỉ là công cụ mị dân do người Pháp chủ trương... ông lại vào Sài Gòn viết cho
tờ Lục Tỉnh Tân Văn.
Năm 1920, ông trở ra Hà Nội viết cho tờ Thực
Nghiệp Dân Báo và tạp chí Hữu Thanh... Năm 1922, cha tôi lại trở vào Sài Gòn do
vài bạn đồng nghiệp nhắn gọi, nhưng vào đó, ông chỉ viết bài gởi đăng báo như
một cộng tác viên, chứ không có chủ báo nào nhận ông làm... Rồi nhân có một vụ
việc gì đó xảy ra ở thành phố, ông bị mật thám tình nghi, đe dọa, phải chạy xuống
Cà Mau tạm trú tại nhà một người quen thân làm chủ đồn điền tại đây.
Thời gian ở ẩn ăn không ngồi rồi này khá lâu,
mất đến gần 3 năm, nhưng cha tôi biết tận dụng nó để làm việc có ích là tiếp
tục học tiếng Pháp bằng cách trao đổi thư từ, bài tập qua đường bưu điện với
một nhà báo Pháp Dejiean de la Bâtrie...
Đầu năm 1925, hết đợt lận đận, cha tôi trở
lên Sài Gòn cộng tác cùng một lúc với ba tờ báo lớn là Thần Chung, Đông Pháp
Thời Báo, đồng thời gởi bài cho Đông Tây Tuần Báo, văn học tạp chí ở Hà Nội.
Từ năm 1925 đến 1928, trong ba năm ấy, ông
viết liên tục, rất sung túc... Giới trí thức tư sản Sài Gòn thì tới lui tìm gặp
ông để bàn việc ra báo... Trong số những người đến tiếp xúc mời ông cộng tác,
ông thấy bà Nguyễn Đức Nhuận là người có thật tâm nhất nên nhận lời... tuần báo
lấy tên là Phụ Nữ Tân Văn... Bà đứng tên người sáng lập, cha tôi làm chủ bút...
sau đó, vào hạ tuần tháng 5 năm 1933, chúng rút giấy phép, ra lệnh đóng cửa tòa
soạn. Tờ Phụ Nữ Tân Văn cuối cùng chia tay với bạn đọc cũng là kỷ niệm ngày
báo được tròn 4 tuổi...
... Cha tôi ở nhà khoảng một tuần, lại trở ra
Hà Nội, nhận làm chủ bút báo Phụ Nữ Thời Đàm của ông Nguyễn Văn Đa. Ông nầy ra
tuần báo Phụ Nữ Thời Đàm với ý đồ thay chân cho Phụ Nữ Tân Văn vừa bị đóng cửa,
nhưng do tài chánh eo hẹp, tờ báo kém về hình thức lẫn nội dung, chỉ tồn tại
được một năm phải đình bản.
Thôi làm cho Phụ Nữ Thời Đàm, ông quay về
Huế, làm chủ bút báo Tràng An của ông Bùi Huy Tín, chủ nhà in Đắc Lập. Trên mặt
báo Tràng An, thỉnh thoảng có đăng bài động đến chính quyền cai trị... nên bị
Chánh mật thám Trung Kỳ Sogny nhiều lần hạch sách, đe dọa. Cuối cùng hắn dùng
thủ đoạn thu hồi giấy nhập khẩu giấy in báo của nhà in Đắc Lập, tờ Tràng An
không còn giấy để in, đành phải tự động đóng cửa.
Cha tôi lại mất việc. Ông tạm thời dạy Việt
văn cho trường Trung học tư thục Hồ Đắc Hàm ở Huế, đồng thời viết bài cho Hà
Nội Báo và xuất bản cuốn Chương Dân Thi Thoại vào đầu năm 1936...
Vào giữa năm 1936, cha tôi xin giấy phép đứng
tên sáng lập tờ Sông Hương tại Huế... Tòa soạn do ông đảm đương là chính, cộng
với sự trợ giúp của hai anh tôi và một vài nguời bà con. Tuần báo nầy chỉ sống
được 8, 9 tháng thì phải tự đóng cửa do tài chánh mất cân đối, vốn dự bị lại
cạn kiệt.
Cuối năm 1927, cha tôi vào Sài Gòn dạy Việt
văn và Hán văn cho trường Trung học tư thục Chấn Thanh của ông Phan Bá Lân,
đồng thời cộng tác với báo Tao Đàn. Thời gian nầy ông sáng tác tiểu thuyết đầu
tay Trở Vỏ Lửa Ra và bán bản quyền cho nhà xuất bản Phổ Thông (1939)...
Cuối năm 1941, do thời cuộc, trường Chấn Thanh
đóng cửa và dời về Đà Nẵng với quy mô nhỏ hơn, và báo chí cũng hết thời thịnh
vượng, cha tôi quyết định trở về quê... Năm 1942, ông đã góp phần cùng mẹ và
anh tôi sữa lại cái nhà ngang bằng tranh hư hỏng và dột nát...”
Thời gian từ 1941 đến 1945, Phan Khôi tạm gác bút.
Dòng họ Phan là một trong các dòng họ nổi tiếng ở Quảng
Nam. Năm 1913, Phan Khôi lập gia đình với con gái ông cử Lương Thúc Ký
(1873-1947), đỗ cử nhân cùng thời với Huỳnh Thúc Kháng, Phan Châu Trinh, Nguyễn
Đình Tuyến... từng làm Hậu Bổ tỉnh Bình Thuận, Tri Huyện ở Tuy Phong, Giáo Thọ
ở Tuy An, tác giả quyển Quốc Ngạn...
Ông bà Phan Khôi có sáu người con (hai trai, bốn gái),
con cả là Phan Thao (1915-1960), cán bộ cao cấp trong Ủy Ban Trung Bộ, đại biểu
Quốc Hội tỉnh Quảng Nam năm 1946, Chủ Nhiệm báo Cứu Quốc và bốn người con gái
là Hựu Khanh, Bang Khanh, Mỹ Khanh, Tiểu Khanh. (Giữa Phan Khôi & Phan Thao
đã bất đồng chính kiến quan điểm chính trị. Trong bài viết của Lại Nguyên Aân:
“Theo lời kể lại, người con trai của ông khi đó là một cán bộ đảng, đã không
dám đến dự đám tang cha mà chỉ cải trang làm một người tình cờ, dắt xe đạp đi
trên vỉa hè trong lúc đám tang đi dưới lòng đường”.
Năm 1936, thời gian làm tờ Tràng An ở Huế, ông lấy thêm
bà vợ hai người Hà Nội, có với nhau ba mặt con. Rời Huế, ông đưa người vợ kế về
Quảng Nam, hai bà sống với nhau rất hòa thuận ở quê nhà, năm 1955 ông đưa vợ
con ra đoàn tụ cùng ông tại Hà Nội.
Về quan hệ thân tộc, em gái ông là vợ nhà văn Sở Cuồng Lê
Dư. Ông bà Lê Dư có các người con gái: bà Hằng Huân (vợ tướng Nguyễn Sơn), bà
Hằng Phấn (vợ nhà văn Hoàng Văn Chí, tác giả Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc), bà
Hằng Phương (vợ nhà văn Vũ Ngọc Phan). Em họ là Phan Bôi Hoàng Hữu Nam
(1911-1949), Thứ Trưởng bộ Nội Vụ trong Chính Phủ Liên Hiệp. Ông Biện Chín, tên
thật là Phan Định, chú ruột Phan Khôi, có hai người con là Phan Bôi, Phan Thanh
(1908-1939). Phan Thanh cũng hoạt động trong Hội Truyền Bá Quốc Ngữ cùng với
Đặng Thái Mai và Võ Nguyên Giáp.
* Nhân Văn - Giai Phẩm
Phan Khôi được hấp thụ tinh thần yêu nước của các vị thầy
từ nhỏ, ông ghét chính sách cai trị của thực dân Pháp nên tham gia vào phong
trào Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân... Đứng trước hoàn cảnh ly loạn của đất
nước, ông đã tham gia trong phong trào kháng Pháp của Việt Minh nhưng tính
cương trực, dũng cảm của bậc sĩ phu yêu nước, ông đã mạnh dạn lên án những sai
lầm dù nguy hiểm cho bản thân.
Trong quyển Văn Thi Sĩ Tiền Chiến, Nguyễn Vỹ đã
viết về ông:
“Năm 1945, Việt
Minh nắm chính quyền. Ngay buổi đầu, ông đã bực tức về những hành động quá tàn
bạo của chính quyền địa phương đối với nhân dân trong tỉnh. Đến khi họ định đập
phá nhà thờ cụ Hoàng Diệu thì Phan Khôi phản đối quyết liệt. Nếu lúc bấy giờ
không có thân thế mạnh mẽ thì có lẽ Phan Khôi đã bị thủ tiêu rồi, như trường
hợp của những nhà văn có tinh thần quốc gia và yêu chuộng tự do, công lý như
Khái hưng, Lan Khai...
... Phan Khôi lén nhờ người cầm thư ra Hà
Nội, định che chở cho cụ. Nhưng ở Hà Nội, Phan Khôi vẫn bị công an Việt Minh
theo dõi từng bước và họ giao ông cho chính em họ của ông là Phan Bôi, tức
Hoàng Hữu Nam, ThứTrưởng bộ Nội Vụ, quản thúc.
Vì tính cương trực, không muốn để mất tự do
hành động của mình, ông không chịu ở nhà Phan Bôi, mà tự ý đến nhà Khái Hưng,
tại trụ sở Việt Nam Quốc Dân Đảng, phố Quan Thánh. Việt Minh đến bắt Khái Hưng
tại nơi đây, và bắt luôn Phan Khôi. Khái Hưng thì họ đưa về làng quê quán để
rồi cán bộ địa phương thủ tiêu trong một đêm tối trên một bờ đê trong làng. Còn
Phan Khôi thì bị đưa lên chiến khu Việt Bắc... và được giao công tác phiên dịch
sách chữ Hán.
Suốt chín năm kháng chiến ở Việt Bắc, Phan
Khôi, một nhà văn độc lập, không đảng phái, không quỵ lụy ai, không phục tùng
sức mạnh nào, chỉ phụng sự cho công lý, tự do, dân chủ. Phan Khôi vẫn công kích
chế độ Cộng Sản, mặc dầu ông triệt để ủng hộ cuộc kháng chiến của toàn dân
chống Pháp”.
Công tác phiên dịch Hán văn và Pháp văn sang tiếng Việt
cũng nhẹ nhàng, vì tuổi cao và có thân thế, Phan Khôi được ưu đãi hơn các văn
nghệ sĩ khác nhưng ông không dựa vào đó để tiếm chức, lạm quyền mà dần đà khám
phá ra nhiều hành vi độc đoán nên bất mãn. Năm 1951 ông làm bài thơ ví cuộc
kháng chiến như hoa hồng và ví Việt Minh như gai. Ông nói lên tâm trạng của
người vì yêu kháng chiến mà phải chấp nhận đi theo con đường phục vụ cho Việt
Minh.
Bài thơ “Hồng Gai” như sau:
“Hồng nào hồng chẳng có gai
Miễn đừng là thứ hồng dài không hoa,
Là hồng thì phải có hoa,
Không hoa chỉ có gai mà ai chơi?
Ta yêu hồng lắm hồng ơi!
Có gai mà cũng có mùi hương thơm”.
Sống lâu ngày nơi núi rừng Việt Bắc, dù khổ cực, bất mãn
nhưng không có ai dám thổ lộ tâm sự bi đát đó, chỉ có Phan Khôi bộc lộ những
dòng thơ vào năm 1952:
“Tuổi già thêm bệnh hoạn
Kháng chiến thấy thừa ta
Mối sầu như tóc bạc
Cứ cắt lại dài ra”.
Cuối năm 1954, Phan Khôi trở về Hà Nội cùng với đa số các
văn nghệ sĩ khác. Vì không có nhà cửa ở Hà Nội nên Hội Văn Nghệ dành cho ông
căn phòng ở tầng ba của trụ sở của Hội, ông vẫn tiếp tục công việc phiên dịch.
Năm 1956, sau khi Giai Phẩm Mùa Xuân ra đời, bài thơ Nhất
Định Thắng của Trần Dần dài gần 400 câu như quả bom tung ra trong làng
báo Hà Nội. Ngày 29-8-1956, Giai Phẩm Mùa Thu xuất hiện. Theo
Hoàng Văn Chí trong Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc: “Trong tập nầy cụ Phan Khôi giáng một chùy trí mạng vào đầu giai cấp
lãnh đạo. Bài của cụ nhan đề là Phê Bình Lãnh Đạo Văn Nghệ. Bài nầy đã làm nhân
dân Hà Nội xôn xao. Có người viết trên báo Thời Mới, ví bài của cụ Phan như một
“quả bom tạ” thả ngay giữa Hà Nội. Có người thốt lên rằng chín mười năm nay mới
nghe thấy một tiếng nói “sang sảng” của cụ Phan...”
Vì nhận thấy “giai phẩm” có tính cách văn học nên Phan
Khôi
đứng ra làm Chủ Nhiệm tờ Nhân Văn cùng Nguyễn
Hữu Đang, Trần Duy... muốn quảng bá rộng rãi hơn tiếng vọng của tờ báo, tạo
ngọn lửa đấu tranh giữa thủ đô Hà Nội.
Ngày 15-9-1956, tờ Nhân Văn ra đời, nhà thơ Phan Khôi,
chủ nhiệm chủ bút, giới sinh viên hưởng ứng tiếng nói đấu tranh với tờ Đất Mới
và tuần báo Trăm Hoa của Nguyễn Bính cũng nhập cuộc, và tờ Văn cũng thay đổi
thái độ cho đến bài Ông Năm Chuột của Phan Khôi xuất hiện, Đảng bắt Hội Văn Nghệ
đình bản tờ Văn.
Đảng và giới lãnh đạo văn nghệ ra tay đàn áp tạo thành vụ
án Nhân Văn - Giai Phẩm, đày đọa giới trí thức và những
người cầm bút đối kháng vào chốn lao tù và sống cuộc đời lầm than trải dài qua
vài thập niên.
Theo họa sĩ Trần Duy, thư ký tòa soạn báo Nhân Văn cho
biết: “Nếu muốn nhìn lại thì theo tôi,
cần nhìn lại từ những ngày đầu tháng 3 năm 1955, thời gian mà Trần Dần, Hoàng
Cầm, Tử Phác, Hoàng Yến ở Phòng Văn Nghệ Quân Đội chủ trương phê bình tập thơ
Việt Bắc của Tố Hữu. Trong lúc ấy thì Xuân Trường trên báo Nhân Dân, Xuân Diệu
trong hai số báo Văn Nghệ (Tháng 2, 1955) lại tung hô hết lời khen tập thơ này.
Ông Phan Khôi nói với tôi: “Không ai cấm người làm thơ dở. Nhưng cái không may
là người làm thơ dở lại làm người lãnh đạo!”
Nắng Chiều của Phan Khôi là tác phẩm cuối đời, thể hiện
hào khí bất khuất của người cầm bút, đấu tranh cho tự do và lẽ phải.
Sáng ngày 16 tháng Giêng năm 1959, Phan Khôi vĩnh biệt
cõi trần tại căn nhà ở phố Thuốc Bắc, Hà Nội, hưởng thọ 73 tuổi.
Đám tang của ông thật lặng lẽ, u buồn vì không khí ngột
ngạt của vụ án Nhân Văn - Giai Phẩm còn bủa vây trên bầu trời Hà Nội.
*
Về văn, trong Nhà Văn Hiện Đại của Vũ Ngọc Phan ra
đời năm 1942 đã viết về Phan Khôi ở phần đầu: “Phan Khôi là một trong những nhà văn xuất sắc nhất trong phái nho học”.
Và kết luận: “Trong văn giới Việt Nam, dù
thuộc về phái già hay phái trẻ, tuy có nhiều người không đồng ý kiến với Phan
Khôi, nhưng ai ai cũng phải công nhận ông là một tay kiện tướng”.
Về báo, trong quyển Nghề Viết Báo của Tế Xuyên đã nhận
định:
“Léon Daudet, cây
bút sắc bén của tờ báo hữu khuynh L’ Action Francaise đã nói rằng: Kẻ viết báo
tài tình là những người bút chiến giỏi.
Phan Khôi xứng đáng là nhà bút chiến giỏi như
lời Léon Daudet đã nói. Ông còn để lại trong lịch sử lịch sử báo chí nước nhà
lắm trận bút chiến náo động”.
Phan Khôi đã tham gia trong thời kỳ kháng chiến chống
Pháp, với tài năng, tuổi già và có thân nhân trong guồng máy lãnh đạo, ông được
ưu đãi nhưng khí phách, nhân cách của nhà văn, nhà báo ý thức trách nhiệm với
quê hương, dân tộc, không thể cam chịu trước cảnh độc tài và bất công, nên dấn
thân đấu tranh đến cùng. Hình ảnh kiện tướng Phan Khôi, một lần nữa, được đi
vào trong lịch sử báo chí và văn học Việt Nam.
Sự nghiệp cầm bút của Phan Khôi nổi bật về báo chí và các
bài lý luận sắc bén. Tác Phẩm tiêu biểu: - Bàn Về Tế Giao (1918) - Tình Già
(thơ mới - 1932) - Chương Dân Thi Thoại (chuyện thơ, 1936) – Trở Vỏ Lửa Ra
(tiểu thuyết, 1939) – Tìm Tòi Trong Tiếng Việt (1950) - Việt Ngữ Nghiên Cứu
(1955) - Dịch Lỗ Tấn (từ 1955 đến 1957) - Ngẫu Cảm (thơ chữ Hán) - Viếng Mộ
Oâng Lê Chất (thơ chữ Hán) - Ông Năm chuột (truyện ngắn)
Truyện ngắn bằng Hán văn: Mộng Trung Mộng, Hoạn Hải Ba
Đào.
Ngoài ra, bản dịch Kinh Thánh năm 1925 cho Giáo Hội Tin
Lành của ông cũng được đánh giá rất cao trong thời kỳ phát triển văn chương
Việt Nam.
*
Trải qua bao thăng trầm trong suốt quãng đời phiêu
bạt, bút chiến, đụng độ với nhau... và nhất là thời điểm “tranh tối tranh sáng”
sau ngày Cộng sản thống trị miền Bắc, Phan Khôi đả kích chế độ Cộng sản, những
tên bồi bút tìm mọi thủ đoạn để triệt hạ. Rất nhiều giai thoại về Phan Khôi.
Bài viết của Giáo sư Trần Gia Phụng đã ghi lại nhiều giai thoại ngay khi ông
còn sống. Những câu chuyện thực trong cuộc đời ông, vừa táo bạo, vừa dí dỏm,
nên được truyền miệng nhiều lần thành những giai thọai dân gian. Sống dưới chế
độ Cộng sản, Phan Khôi cũng ưa “cãi lý” mà không sợ bị Cộng sản trù dập. Tượng
trưng cho lối “cãi lý” Phan Khôi.
Nhìn lại hiện tình đất nước hiện tại, nhờ hệ thống
internet được phổ biến rộng rãi, những cây bút trẻ, những bloggers... yêu
chuộng tự do, bình đẳng; bất bình trước sự “hèn với giặc, ác với dân” đang xảy
ra đã dũng cảm gióng lên tiếng nói mà Phan Khôi dấn thân vào 6 thập niên về
trước. Hình ảnh Phan Khôi & sĩ khí người cầm bút như ngọn đuốc soi đường.
Mời
nhấp chuột đọc thêm:
- Các bài phê bình,
cảm nhận thơ0
- Đặng Xuân Xuyến -
Cảm nhận thơ văn 1l
- Đặng Xuân Xuyến -
Cảm nhận thơ văn 2l
Mời nghe Đặng Xuân Xuyến đọc bài thơ QUÊ NGHÈO:
*.
VƯƠNG
TRÙNG DƯƠNG
Địa chỉ: Little Saigon, Nam California, Hoa Kỳ.
Email: vuongtrungduong20@gmail.com.
……………………………………………………………………..
- Cập nhật từ messenger facebook Trần Hải Sơn ngày 22.12.2021.
- Ảnh dùng minh họa cho bài viết được sưu tầm từ
nguồn: internet.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng
Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
0 comments:
Đăng nhận xét