Về nhà thơ
HỮU LOAN
*
Đặng Xuân Xuyến giới thiệu
Ảnh minh họa sưu tầm từ nguồn: internet
Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.
Tác
giả: Đỗ Trường
HỮU LOAN: TÀI NĂNG
VÀ MÂU THUẪN
TRONG TƯ TƯỞNG CŨNG
NHƯ THI CA
Thế hệ
tôi ở miền Bắc trước 1975, dường như rất ít người biết đến nhà thơ Hữu Loan.
Bởi, thơ ông không được in ấn, nhắc nhở đến. Nếu không có văn học, âm nhạc miền
Nam, và sự cởi trói cho các văn nghệ sỹ vào những năm cuối của thập niên tám
mươi, thì thơ văn, cũng như con người Hữu Loan vẫn còn nằm đó, hóa thạch với
thời gian. Hữu Loan viết không nhiều. Và cùng Trần Dần, Lê Đạt… ông là người
tiên phong trong việc cách tân thơ Việt ngay từ những ngày đầu kháng chiến. Do
vậy, tính mộc mạc, dân dã trong thơ Hữu Loan đã được mọi tầng lớp người đọc yêu
mến, đón nhận. Song giống như các nhà thơ cùng thời, không phải bài thơ nào
của Hữu Loan cũng đạt được những điều mong muốn. Tuy nhiên có thể
nói, Hữu Loan là một trong những linh hồn và nhà thơ có sức sống lâu dài nhất
của thi ca kháng chiến (ở giai đoạn 1946- 1954).
Đi sâu
vào nghiên cứu, ta có thể thấy, Đèo Cả và Màu Tím Hoa Sim
là hai bài thơ hay, và tiêu biểu nhất cho sự nghiệp sáng tạo của Hữu Loan. Cùng
tính chân thực, nhưng nếu Đèo Cả đậm chất hào sảng, phóng khoáng,
thì Màu Tím Hoa Sim mang nặng chất trữ tình, bi thương của người
lính. Ngoài ra, sự mâu thuẫn trong tư tưởng, trong thi ca của ông cũng là những
vấn đề được đặt ra.
Lật
lại văn học sử kháng chiến, thấy một điều lý thú. Bởi, cùng năm 1946, hai tú
tài, người Thanh Hóa, ở mặt trận Tuy Hòa, chung một cảm xúc, đã cho ra đời hai
thi phẩm rất mới lạ về cả nội dung, lẫn thi pháp nghệ thuật. Nó như một luồng
gió mới, thổi vào thơ ca gà gật của ngày đầu kháng chiến vậy. Đó là Trần Mai
Ninh với Nhớ Máu, và Hữu Loan với Đèo Cả. Tuy
nhiên, hai bài thơ có số phận hoàn toàn khác nhau. Nếu “Nhớ Máu”
lạnh tanh, với những câu thơ ằng ặc máu, đọc lên phải dựng tóc gáy, được đưa
vào giảng dạy nơi học đường, thì Đèo Cả kể từ sau 1956 đã hóa đá
cùng Hữu Loan.
Có thể
nói, Hữu Loan đến với thi ca khá muộn, bằng bài thơ đầu tay Đèo Cả,
ở cái tuổi ba mươi. Ngay từ bài thơ đầu, ông đã bộc rõ tài năng với lối cách
tân độc đáo, và đã mở ra một con đường thơ riêng của mình. Cùng giọng điệu
mới, với từ ngữ dân dã, (khẩu ngữ) những câu thơ bậc thang, Hữu Loan đã làm cho
nhịp thơ dứt khoát, nhất là khi miêu tả, bộc lộ cảm xúc, rung động có tính đa
chiều. Vâng, và cái cảm hứng lãng mạn, với khuynh hướng sử thi ấy, làm cho Đèo
Cả mang đậm nét bi tráng, nhưng cũng rất đỗi tĩnh tại:
“Biệt nhau
rừng
hoang canh gà
Râu ngược
chào
nhau
bên
vách núi…
Sau mỗi lần thắng
Những người trấn Đèo Cả
Về bên suối
Đánh cờ
Người hái cam rừng
Ăn nheo mắt
Người vá áo
Thiếu kim
Mài sắt
Người đập mảnh chai
Vểnh cằm
Cạo râu....” .
Dù
viết về chiến tranh, nhưng tính nhân bản, tình đồng đội xuyên suốt trang thơ
Hữu Loan. Cái hào sảng, can trường của người lính trong Đèo Cả,
đọc lên tưởng chừng đâu đó phảng phất bóng hình, hồn vía của những tráng sĩ,
người lính trong dân ca, ca dao, hay trong Chinh phụ ngâm của
Đặng Trần Côn vậy. Có thể nói, cùng với đoàn quân, người lính không mọc tóc
trong Tây Tiến của Quang Dũng, người lính tóc râu trùm vai rộng
trong Đèo Cả của Hữu Loan là hình tượng độc đáo nhất của văn học
sử Việt Nam. Và nó cũng là những bài thơ hay nhất, hào khí, và bi tráng
nhất về người lính của thi ca kháng chiến (1946-1954):
“Dưới cây bên suối độc
cheo leo chòi canh
như biên cương
tóc
râu trùm
vai rộng
Không nhận ra người làng
rau khe
cơm vắt
áo phai màu chiến trường
ngày
thâu
vượn
hú
đêm canh gặp hùm
lang
thang
Gian nguy
lòng
không nhụt”
Núi
bia cao ngất, mù sương, một khung cảnh chết, song chỉ với hình ảnh một cái
quán, hay một chòi nghỉ chân dọc đường, tác giả điểm lên đó một sự sống, một
câu thơ sống. Nó như một bức tranh ký họa sinh động, giàu hình tượng (khái
quát) về sự rùng rợn, và khốc liệt ở nơi chiến trường vậy:
“Đèo cả!
Đèo cả!
núi cao ngất
mây trời Ai Lao
sầu đại dương
dặm về
heo hút
Đá bia mù sương
Bên quán Hồng Quân
người
ngựa
mỏi
nhìn dốc
ngồi than
thương
ai
lên
đường!...”
Phải
nói, Màu tím hoa sim là một trong những bài thơ được nhiều người
yêu mến nhất, bởi cái tính chân thật. Cả bài thơ như một lời tự sự, hay một
tiếng bi ai về cái chết của người vợ trẻ hậu phương của người lính nơi trận
tiền. Không phải chỉ có Màu tím hoa sim, mà sau này, những Khúc Thụy Du của Du
Tử Lê, hay Khúc Tình Buồn, Cô Bắc Ky Nho Nhỏ của Nguyễn Tất Nhiên, đều được
viết ra từ cảm xúc về những mối tình thực của mình. Do vậy, nó gây nhiều hứng
cảm đi sâu vào lòng người đọc một cách sâu sắc. Từ cảm xúc chân thực như vậy,
cùng khẩu ngữ giàu nhạc tính rất dễ lay động người nhạc sỹ khi chuyển thành ca
khúc. Thật vậy, những câu chuyện tình sử ấy, đều trở thành những giai thoại
dưới nét nhạc của Phạm Duy, Anh Bằng, hay Duy Khánh… khắc sâu trong lòng người
vậy.
Tuy
nhiên, với tôi, Màu tím hoa sim không phải là bài thơ hay nhất
của Hữu Loan. Nhưng nó là một trong những bài thơ tình bi đát hay, và chân thật
nhất của người lính, kể từ khi có thơ mới cho đến nay:
“…Từ
chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Nhỡ khi mình không về
thì thương
người vợ chờ
bé bỏng chiều quê...
Nhưng không chết
người trai khói lửa
Mà chết
người gái nhỏ hậu phương
----
Một chiều rừng mưa
Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc
Được tin em gái mất
trước tin em lấy chồng
----
Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim
những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt…”
Đi sâu
vào đọc, và nghiên cứu, ta có thể thấy, Hữu Loan có sự mâu thuẫn khá sâu sắc về
tư tưởng cũng như trong thơ văn. Bởi, trước khi về quê thồ đá, ông có đến
ít nhất là ba bài tụng ca, được viết vào khoảng những năm 1955- 1956. Một
thứ đại kỵ với thơ ca đích thực. Nó hoàn toàn trái ngược với nhân cách, con người
cũng như thơ ca Hữu Loan trước và sau đó. Với tôi, cái sự mâu thuẫn này của ông
quả thực khó lý giải. Được biết, ở thời gian đó Hữu Loan có tham gia đội Cải
cách ruộng đất. Chắc chắn ông là người chứng kiến và hiểu rất rõ về nó. Nhưng
bài Chờ Đội Về, không những ông đã viết ngược lại với những hiện
thực ấy, mà còn cổ xúy cho cuộc chiếm đoạt, đấu tố long trời lở đất này.
Bài tụng ca này, được Hữu Loan viết và in vào tháng 2-1956 trên báo Văn.
Vâng, đọc nó ta có thể hiểu thêm rằng, dù cách tân hay với hình thức nghệ thuật
nào đi chăng nữa, dạng những bài này của tác giả “Màu Tím Hoa Sim”
chỉ dừng lại ở mức vè không vần mà thôi:
“--
Ai đã về quê tôi?
Nước sông Hồng
Quanh năm
Chảy mật
Ruộng hai mùa
Mông mênh biển vàng
Nhưng bần cố nông
Vẫn là những kẻ
Mất thiên đường
Lang thang
Trong hỏa ngục.
Vải ấm Đảng cho
Bần cố nông
Không được mặc
Gạo no Đảng cho
Bần cố nông
Không được ăn
Địa chủ
và tay chân
Đem bán chia nhau.... “
Khó
hiểu, và bất ngờ hơn nữa, trong cùng một thời điểm Hữu Loan viết bài ngợi ca: Chế
Độ Ta, khác hẳn với sự châm biếm, đả kích ở bài: Cũng Những Thằng
Nịnh Hót. Sự mâu thuẫn, nhức nhối này, làm cho người đọc một cảm giác
“Cây gỗ vuông chành chạnh” Hữu Loan, dường như còn một khuôn mặt khác nữa:
“…Chế
độ ta
Đến đâu
Mặt trời theo
Đến đấy
Chế độ ta
Đã dạy
Cho mặt trời
Công bình…
Chế độ ta
Không còn hành khất
Không còn người ăn sương
Nhân loại cần lao
Lớp lớp
Lên đường
Mặc áo muôn màu
Hát muôn thứ tiếng
Tay nắm tay thân mến
“Ta giữ hòa bình
Cho chế độ ta đây…”
Có thể
nói, Hữu Loan có cái nhìn méo mó về Hà Nội và Saigon, cũng như cuộc di cư của
hơn một triệu đồng bào miền Bắc (sau1954), khi ông viết bài Đêm vào
tháng 5/1956. Qủa thực, dưới cái tư tưởng, quan điểm phiến diện như vậy của Hữu
Loan, Hà Nội trước kia, và Saigon hôm nay (1956), hiện lên trong thơ như một
thứ ung nhọt, giang mai cùng mã tấu. Sự đĩ điếm, bỉ ổi ấy, càng rõ nét hơn dưới
phép so sánh của ông: “Đêm Hà Nội/ Ngày nay/ Như em nhỏ nằm tròn/ Ru trong
nôi chế độ”. Cái khía cạnh này, trong thơ Hữu Loan, dường như ít được các nhà
nghiên cứu, và phê bình nhắc đến:
“…Hốt hoảng gọi nhau
Không kịp vớ áo quần
Những đêm Hà Nội ngày xưa
Lõa lồ
Mình đầy ung độc
Đã xuống tàu đêm
Vào Sài Gòn
Tất cả
Những đêm Sài Gòn
Ngày nay
Đêm giang mai
Tẩu mã
Đang mưng
Cấp cứu gấp vạn lần
Những đêm xưa Hà Nội
“10$ 1 cốc cà-phê
100$ 1 con gái…”
Quảng cáo đóng đầy
Ngực đêm
Như áo ngủ Sài Gòn
Đêm Hà Nội
Ngày nay
Như em nhỏ nằm tròn
Ru trong nôi chế độ
Những đèn dài đại lộ
Như những tràng hoa đêm
Nở long lanh
Trong giấc ngủ
Bình yên”
Sau
1954, những thi sĩ, nhà văn cùng thời như, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, hay Nguyễn
Tuân… đều phải đảo bút, úp mặt quay lưng vì cuộc sống là điều dễ hiểu. Song với
Hữu Loan một nhà thơ thẳng thắn, và can trường là một điều thật khó lý giải. Do
vậy, cần lắm một sự nghiên cứu của các bậc tiền bối từ trong nước ra đến hải
ngoại, để làm sáng tỏ một cách chân thật nhất về nhà thơ tài năng, đáng kính
Hữu Loan.
--------
(Một số dẫn chứng của bài viết,
trích từ những bài thơ sưu tầm của nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân - Xin cảm ơn
ông)
-----------
Nguồn: HỮU LOAN: TÀI NĂNG VÀ MÂU THUẪN TRONG
TƯ TƯỞNG CŨNG NHƯ THI CAm
Tác
giả: Khuyết Danh
HỮU LOAN VÀ NHỮNG
ĐỒI HOA SIM ...
Mấy
năm trước mình có kể cho các bạn nghe chuyện về nhạc sĩ Văn Cao tài hoa nhưng
một đời đau đớn. Hôm nay mình kể tiếp cho các bạn nghe một mảnh đời nữa cũng
rất mực tài hoa và cuộc đời cũng đớn đau không thua gì Văn Cao cả, đó là nhà
thơ Hữu Loan.
I.
TUỔI TRẺ
Hữu
Loan có tên cúng cơm là Nguyễn Văn Dao sinh ngày 2 tháng 4 năm 1916, đồng niên
với Xuân Diệu. Ông sinh ra ở làng Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, Thanh
Hóa. Người ở vùng này vẫn lưu truyền câu chuyện rằng mẹ Hữu Loan khi đang đi
làm đồng thì đẻ rớt đứa con trai ngay trên ruộng và được các nhà sư ở ngôi chùa
gần đó cắt dây rốn cho. Dù sinh ra trong gia đình con nhà nghèo nhưng cha mẹ
Hữu Loan vẫn cố lo cho cậu con trai ăn học thành tài. 20 tuổi, Hữu Loan thi đỗ
tú tài và về dạy học ở tỉnh nhà. Năm 1938, ông tham gia Mặt trận bình dân, năm
1943 gia nhập Việt Minh. Khi Cách mạng Tháng 8 nổ ra, Hữu Loan làm phó chủ tịch
Ủy ban khởi nghĩa huyện Nga Sơn. Sau đó, ông được cử làm Ủy viên Văn hóa trong
Ủy ban hành chính lâm thời tỉnh Thanh Hóa, phụ trách các ty: Giáo dục, Thông
tin, Thương chính và Công chính. Kháng chiến chống Pháp nổ ra, Hữu Loan tham
gia quân đội Nhân dân Việt nam, phục vụ trong Đại đoàn 304 (sau này được biên
chế lại thành Sư Đoàn, là một trong những sư đoàn bộ binh cơ giới đầu tiên của
Quân đội nhân dân Việt Nam).
Cũng
trong thời kỳ làm giáo viên tại Thanh Hóa, Hữu Loan đã có cơ duyên gặp người vợ
đầu tiên trong đời mình. Hồi đó ở số 48 Phố Lớn (Trần Phú, Thanh Hóa ngày nay),
là nhà ông bà Tổng thanh tra nông lâm xứ Đông Dương Lê Đỗ Kỳ, bà Tham Kỳ (tức
bà Đái Thị Ngọc Chất) có mở một cửa hiệu tạp hóa bán nhiều loại giấy bút, sách
vở. Bà Tham Kỳ là con ông Đái Xuân Quảng (một cử nhân Hán học, từng làm tri
huyện), nên giỏi Hán ngữ lẫn Pháp ngữ, đam mê thơ phú, thuộc nhiều tác phẩm văn
học cổ như Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm khúc ...Thời gian ở Thanh Hóa học tú tài,
Hữu Loan vẫn thường xuyên lui tới cửa hiệu của bà Chất để thỏa mãn niềm đam mê
sách vở. Bà Chất rất quý mến chàng trai con nhà nghèo hiếu học, đã mời Hữu Loan
về kèm dạy học cho ba người con trai của mình. Lần đầu tiên Hữu Loan về nhà bà
Chất, con gái thứ tư của bà vẫn còn là một cô bé còn rất nhỏ. Bẵng đi một thời
gian, khi đã là thầy giáo đang dạy Trường dòng Alexandre de Rhodes ở Thanh Hóa,
Hữu Loan lại được bà Chất mời về nhà dạy cho chính người con gái này, lúc đó đã
là cô bé Lê Đỗ Thị Ninh 8 tuổi. Một thời gian sau, Hữu Loan bỏ nhiệm sở tham
gia kháng chiến.
Tuy
nhiên, không bao lâu sau đó, cô Ninh có dịp gặp lại anh gia sư ngày nào. Đó là
một ngày nhà thơ Hữu Loan nhận lệnh đi vận động nhân dân ủng hộ tài chính cho
chính phủ lâm thời Việt Minh - đó chính là sự kiện "tuần lễ vàng".
Vốn đang đi chợ, thấy người ta xúm lại nghe diễn thuyết, cô Ninh hiếu kỳ cũng
đến xem và nhận ra diễn giả chính là anh thầy ngày nào. Và cô Ninh đã ... tháo
sạch vòng vàng trên người ủng hộ chính phủ ngay tại chỗ. Về nhà cô kể hết với
bà Tham Kỳ, bà nghe chuyện, hiểu rằng con gái đã có ý trung nhân. Vài hôm sau,
Hữu Loan cũng đến nhà tìm gặp lại cố nhân để nói lời cảm ơn, ông Loan và bà
Ninh bén duyên từ đấy. Kháng chiến chống Pháp bùng lên, bà Tham Kỳ đưa cả nhà
về sơ tán ở ấp Thị Long, Nông Cống (cách thành phố Thanh Hóa chừng 30km), năm
1949 Hữu Loan đã xin về phép và có một đám cưới giản đơn nhưng đầy hạnh phúc.
Một đám cưới chân thật như lời thơ của ông:
"Ngày
hợp hôn
Nàng không đòi may áo cưới
Tôi mặc đồ quân nhân
Đôi giày đinh bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
Bên anh chồng độc đáo.
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi!".
Có một
điều mà mãi sau này Hữu Loan mới biết được: Ông bà Kỳ rất quý mến ông nên đã có
ý gả cô em gái ông Kỳ tên là Nga cho ông, nhưng do cô Nga không muốn vương vấn
chuyện đời mà muốn xuất gia theo đạo nên bà lại chuyển sang muốn gả con gái
mình. Ông bà Lê Đỗ Kỳ không thổ lộ điều này nhưng bắt đầu bí mật để ý đến nhà
thơ. Khi Hữu Loan đi tham gia kháng chiến, làm chính trị viên tiểu đoàn ở Đại
đoàn 304 ông ở cùng đơn vị với một người tên Quốc, là em họ với cô Ninh. Mãi
cho đến một hôm, Quốc mới tiết lộ cho ông biết là bà Kỳ cử Quốc "giám
sát" Hữu Loan để đề phòng ông có tình ý với những phụ nữ khác.
II.
NGÀY HỢP HÔN ... NÀNG KHÔNG MAY ÁO CƯỚI
Nhưng
chỉ mấy tháng sau, bà Ninh giặt áo ngoài sông Chuồn thì sẩy chân ngã xuống. Lúc
bấy giờ ở cạnh bà chỉ có người em út lúc ấy còn quá nhỏ, chỉ có thể nhìn chị
chìm dần ... chìm dần theo dòng nước. Từ ngày cưới 16 tháng 2 đến ngày 29 tháng
5 cô Ninh mất là hơn 3 tháng. Số ngày cô sống bên chồng chỉ đếm trên đầu ngón
tay. Cô Ninh hay mặc áo tím và ông cũng đã có lần dẫn cô đi chơi lên những đồi
hoa sim tím và ngẫu nhiên là dọc bờ sông nơi cô chết cũng mọc đầy những hoa sim
tím. Khi Hữu Loan về nhà lần thứ hai để thăm vợ thì chiếc bình đựng hoa trong
ngày cưới hôm nào giờ đã thành bình cắm hoa ngoài mộ. Chiếc bình đó, đến mãi
sau này Hữu Loan vẫn giữ và để trên bàn thờ cô Ninh, ngay trong nhà mình.
Nhiều
chi tiết trong bài thơ là những chi tiết rất sát với thực tế, ngay từ những câu
mở đầu:
Nàng
có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh
Thực
tế, đúng là trên bà Ninh còn ba người anh nữa, họ đều đi bộ đội và dưới bà Ninh
còn ba em trai và hai em gái nữa. Rất chân thực với hoàn cảnh nhà vợ Hữu Loan.
Chưa hết, trong bài thơ còn có đoạn:
Một
chiều rừng mưa
Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc
Được tin em gái mất
trước tin em lấy chồng
Đây
cũng là một sự thật hết sức đau buồn: Do đám cưới em gái được ông bà Kỳ biên
thư tay gửi cho các con trai lớn nên thư phải qua nhiều chặng. Còn việc em gái
mất thì lại truyền miệng nhanh hơn, mà thậm chí, các anh cô Ninh cũng chỉ biết
là em đã mất vậy thôi chứ không thể về nhà được... cả bài thơ là một màu tang
tóc đượm buồn, màu tím thủy chung ngày cưới phút chốc hóa ra màu tím chiều
hoang biền biệt ... Người em trai bà Ninh sau này kể lại rằng suốt mấy chục
năm, mọi người trong gia đình không ai dám đọc, dám nghe trọn bài thơ Màu tím
hoa sim vì nó đúng quá, buồn quá và ... tội quá.
Bài
thơ được sáng tác trong bao lâu thì không biết, chỉ biết theo lời kể của Hữu
Loan thì ông đã chép bài thơ này lên một chiếc quạt và để nó lại cho một người
họ hàng bên nhà bà Ninh. Sau đó thì nó râm ran lan truyền trong quần chúng. Đến
năm 1955 Nguyễn Bính mới cho in trên tạp chí Trăm Hoa và lập tức tạo được tiếng
vang lớn. Nhưng đó cũng là nguồn cơn cho những trù dập, đau thương đeo bám Hữu
Loan đến nửa đời còn lại sau này.
III.
NỬA ĐỜI LẬN ĐẬN
Bài
thơ Màu tím hoa sim được in trên tập san Trăm Hoa và qua đó đến với đông đảo
quần chúng, nhưng ngay lập tức bị chụp cái mũ là "ủy mị", "tiểu
tư sản". Thật khó mà nói được người ta dựa vào đâu, vào tiêu chí nào mà
nhận định như vậy, nhưng thời đó, khi vụ án Nhân Văn - Giai Phẩm nổ ra, một loạt
các nhà văn, nghệ sĩ đã bị dính chưởng, phải mang cái mác là tiểu tư sản, là
xét lại suốt cuộc đời, mà tiêu biểu là Trần Dần và đáng buồn nhất là Văn Cao.
Và Hữu Loan cũng bị quy kết trong nhóm này.
Thật
ra là do ông cũng có phần bất mãn với thời cuộc khi đó. Phải bắt đầu từ khi còn
trong quân ngũ, lúc đó Hữu Loan công tác ở Đại Đoàn 304 thuộc Liên khu IV dưới
quyền của Lưỡng Quốc Tướng Quân - Nguyễn Sơn (hôm khác sẽ nói về ông này sau).
Tướng Nguyễn Sơn cũng là một ông tướng mà nếu nói theo ngôn ngữ bây giờ là rất
... chịu chơi: Ông nghiện thuốc lá, nhưng chỉ "chơi" đúng loại
Phillip Morris, thuốc tây. Trong lãnh vực văn hóa - nghệ thuật, chính Nguyễn
Sơn là ngưòi bênh vực, bảo vệ, cho khôi phục các hình thức sân khấu tuồng, chèo
vì sau Cách mạng tháng Tám bị những người hữu khuynh toan dẹp bỏ. Ông chi tiền
để nhân dân Thanh Hóa dựng lại Hội Múa dân gian cổ truyền. Ông mời Đinh Ngọc
Liên – còn gọi là Quản Liên vốn chỉ huy đội kèn Bảo an của Bảo Đại, trao nhiệm
vụ khôi phục lại đội kèn, là tiền thân của đoàn quân nhạc của quân đội hiện
nay.
Chưa
hết, có một dạo vô tình nghe Trương Tửu lên lớp giảng truyện Kiều cho học sinh
với quan điểm phê phán Thúy Kiều là bị bệnh “ủy hoàng” (bệnh lý về sinh dục),
Nguyễn Sơn cho tập trung tất cả học sinh lớp lớn, trong đó có lớp chuyên khoa Văn,
rồi suốt một ngày hôm đó Nguyễn Sơn say sưa giảng lại Truyện Kiều, ông làm cho
học sinh hiểu rõ Truyện Kiều là một áng văn chương tuyệt tác của dân tộc mà bất
kỳ người dân Việt Nam nào khi đọc cũng thông cảm và rung động sâu sắc. Ông kịch
liệt phê phán quan điểm của Trương Tửu. Chuyện đến tai nhà nghiên cứu văn học
nổi tiếng Đặng Thai Mai, trước đó, nghe danh ông tướng cả một quân khu mà giảng
về kịch Lôi Vũ suốt mấy buổi liền vẫn hấp dẫn người nghe, ông Mai đã tò mò lắm.
Trùng hợp thay, Đặng Thai Mai chính là người dịch Lôi Vũ từ tiếng Trung qua
Việt ngữ – thế nên ông đã ghé qua lớp học để nghe Nguyễn Sơn giảng Kiều. Sau
khi dự xong, chính ông Mai đã phải khâm phục: Ông tướng bình Truyện Kiều còn
hay hơn cả tôi!
Thế
nhưng đến năm 1950, do đường lối thiên Trung Quốc nên Nguyễn Sơn bất đồng quan
điểm với nhiều người trong chính phủ khi ấy và ông lựa chọn ra đi. Nguyễn Sơn
trở lại Trung Quốc và cũng được phong tướng ở đó, trở thành một trong hai người
Việt Nam vừa được phong tướng ở trong nước lẫn nước ngoài đến tận bây giờ vẫn
chưa có người thứ ba. Chính thời gian còn nắm lệnh Liên Khu IV, nhiều văn nghệ
sĩ được Nguyễn Sơn "biệt đãi" nên họ có phần phóng khoáng, tự do hơn
so với những "ông" khác, tiêu biểu có thể kể đến: Hữu Loan, Phạm Duy,
Hoàng Cầm...
Trở
lại với Hữu Loan, sau khi tướng Nguyễn Sơn ra đi, ông cũng đâm chán nản với
những hoạt động văn nghệ đương thời. Đặc biệt, năm 1951, người bạn thân thiết
của ông, nhạc sĩ Phạm Duy Cẩn - tức Phạm Duy lừng danh, không chịu nổi cảnh gò
bó về tinh thần, đã quyết định quay về vùng tạm chiếm. Sau khi chống Pháp thắng
lợi, Hữu Loan cũng giải ngũ và tham gia làm báo, làm văn nghệ đến năm 1956 thì
xảy ra vụ Nhân văn - Giai phẩm. Gần hai năm đi cải tạo, khi được thả, ông dắt
vợ con (vợ sau) về quê ở Thanh Hóa đi cấy và đẽo đá bán kiếm tiền. Bấy giờ
Thanh Hóa quê ông nghèo lắm, dắt theo vợ con và bắt đầu với nghề thợ đá. Ông
nạy từng khối đá đưa lên chiếc xe cút kít thô sơ đem đi bán ở các lò thợ làm
cối, làm thớt, làm kê chân cột và làm vật liệu xây dựng. Bán cả chục xe đá mới
kiếm đủ ngày hai bữa cơm dưa muối cho đàn con nhỏ.
Một
năm, hai năm, ba năm … Hữu Loan trở thành người thợ đá da đen như sừng, chân
tay sần sẹo, tua tủa tóc rễ tre, đi đứng nói năng mạnh mẽ. Cặm cụi thân sương
gió để nuôi đàn con thơ. Mười người con lần lượt lớn lớn và trưởng thành nhờ có
một người cha kiên cường và một người mẹ chắt chiu, tần tảo. Vợ chồng Hữu Loan,
bận bịu với cuộc sống mưu sinh, nuôi đàn con khôn lớn. Ban ngày, mòi vai thồ
đá, ban đêm vác te vó nuôi con. Ngoài việc thiếu thốn về vật chất, các con của
ông cho biết 10 anh em chưa một lần trách móc, hờn giận gì về những lựa chọn
của ông. Ngược lại, họ còn rất tự hào vì phần nào trong con người mình ít nhiều
của được thừa hưởng từ sự tài hòa và tính cách thẳng thắn của ông để trưởng
thành.
Người
con trai Nguyễn Hữu Đán kể: “Hồi đó xe đạp còn được quản lý kỹ, có bảng số.
Cụ chế chiếc xe đi thồ được thời gian thì các cán bộ xã đòi thu giữ vì chiếc xe
của cụ bị xem là chế hàng lậu”. Chuyện là chiếc xe thồ đá nặng quá khiến
cái phuộc bị vẹo, Hữu Loan đã lấy xà beng bằng sắt Liên Xô chế lại. Chiếc “xe
Thống Nhất, phuộc sắt Liên Xô” bị tịch thu lên xã vì lý do chế xe. Nguy cơ mất
“cần câu cơm”, nhà thơ Hữu Loan đã lên gặp cán bộ phản ứng rất dữ. “Cụ bảo
chiếc xe để cụ thồ đá nuôi con, nếu cán bộ bắt xe thì cụ sẽ dẫn cả bầy con lên
giao cho cán bộ, rồi cụ ra giữa chợ ăn xin. Lúc đó, người ta xì xào cán bộ để
ông Hữu Loan phải đi ăn mày thì đừng trách”, ông Đán kể.
Biết
tính Hữu Loan từ xưa hễ nói là làm, không nói đi nói lại, việc bắt xe sau đó
được “cho qua”. Có lại xe nhưng trở về bãi đá, có lẽ sợ rắc rối với chính quyền
nên những người nổ mìn phá đá không bán cho ông nữa. “Từ đó, cụ phải tự mình
kiếm chỗ đá mồ côi, tự tay dùng xà beng bẩy, rồi đục cho lên xe thồ bán. Cụ vẫn
tiếp tục làm đến khi sức khỏe không thể thồ đá được nữa và khi con cái đã lớn
mới thôi".
IV.
BÀI THƠ 100 TRIỆU
Ở Hữu
Loan có một điều bất thường, cũng giống như Văn Cao, tác phẩm của ông sau 1954
lại được đón nhận rộng rãi ở miền nam cho dù chính tác giả cũng ... cóc biết
gì. Bài Màu tím hoa sim của Hữu Loan có lẽ vì nói quá đúng hoàn
cảnh chia ly - tử biệt trong thời loạn ly của đất nước nên được rất nhiều các
nhạc sĩ miền nam phổ nhạc.
-
Người đầu tiên phổ nhạc bài thơ này, tất nhiên là Phạm Duy, người bạn thân
thiết của Hữu Loan thời còn kháng chiến. Bản nhạc của Phạm Duy lấy tên là Áo
anh sứt chỉ đường tà, theo Phạm Duy thì ông phổ nhạc từ năm 1949, có lẽ
ngay sau khi bài thơ ra đời, nhưng đến tận năm 1971 thì mới đem ra trình diễn
trước công chúng và được đón nhận nồng nhiệt. Ca từ bài hát bám khá sát bài thơ
gốc, bài hát này được các ca sĩ Thái Thanh và Elvis Phương thể hiện thành công,
về sau còn có Trần Thái Hòa, Bích Liên, Ý Lan, Đức Minh...
- Những
đồi hoa sim - ra đời vào khoảng những năm 1960s, đây là bản phổ nhạc
đầu tiên của bài thơ mà công chúng được biết tới. Bài hát này do nhạc sĩ Dzũng
Chinh sáng tác phần nhạc, lời bài hát là dựa trên một phần và lấy ý chính của
bài thơ. Bài này được ca sĩ Phương Dung trình bày trước đây, sau đó là các ca
sĩ hải ngoại sau này như Hương Lan, Hoàng Oanh, Duy Quang, Sơn Tuyền, Tuấn Vũ,
Phi Nhung ... đều có hát qua.
- Chuyện
Hoa Sim - của Anh Bằng cũng lấy một phần lời bài thơ, nhưng sát nguyên
gốc nhất phải là bản Màu tím hoa sim của Duy Khánh (nhưng nói
thật, tôi không thích bài này, chắc tại vì nó lai lai giữa tân nhạc và cổ
nhạc). Ngoài ra bài thơ này còn là đề tài gợi hứng cho các nhạc sĩ soạn các bài
như: "Tím cả chiều hoang" (Anh Bằng), "Tím
cả rừng chiều" (Thu Hồ), Chuyện tình Mộng Thường
(Trần Thiện Thanh)... có cái lạ là nội dung nghe na ná nhau, mà sao ko ai tố
nhau đạo lời, đạo nhạc như bây giờ? Có lẽ ngày xưa báo chí, truyền thông dễ
tính hơn bây giờ chăng?
...
Một ngày khoảng năm 198x, một ông già tóc hoa râm đang thả bộ trên đường phố
Sài Gòn bỗng nghe lời ca tiếng nhạc phát ra từ một người đàn ông cụt chân với
cái đàn guitar cũ kỹ hát dạo xin tiền:
Những
đồi hoa sim ôi những đồi hoa sim tím chiều hoang biền biệt.
Vào chuyện ngày xưa nàng yêu hoa sim tím khi còn tóc búi vai.
Mấy lúc xong pha ngoài trận tuyến ai hẹn được ngày về.
Rồi một chiều mây bay...
Từ nơi chiến trường đông bắc đó lần ghé về thăm xóm hoàng hôn tắt sau đồi…
Lời ca
nghe sao quen quá! Ông lão mới mon men đến hỏi. Thì ra là bài hát “Những
Đồi Hoa Sim” và đó lần đầu tiên ông già được nghe bài này. Ông yêu cầu
người hành khất hát lại một lần nữa. Nghe hát xong, ông vét sạch tiền trong túi
bỏ hết vào chiếc ca nhựa rồi định đi. Người què kia gọi ông lại và hỏi sao ...
ông cho nhiều vậy, ông già nhìn xa xăm, rồi nói: “Tôi là tác giả bài thơ
được phổ nhạc” – Rồi bước đi với đôi mắt ngấn lệ … đó là lần đầu tiên Hữu
Loan vô miền nam. Sau đổi mới, cái án Nhân văn - Giai phẩm treo trên đầu ông
ngót 30 năm tự nhiên được bỏ, khoảng năm 1986, ông được mời vào nam dự một hội
thơ ở Lâm Đồng, rồi từ đó nhận tiếp lời mời của các nhà thơ trẻ, vào thăm Sài
Gòn và có cuộc gặp gỡ tình cờ kia... Đến năm 1990, bài thơ được in lần đầu
trong một tập thơ, đó cũng là tập thơ đầu tiên được xuất bản của Hữu Loan: Màu
tím hoa sim.
Vào
tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, đột nhiên công ty ViTek VTB đưa ra đề nghị
mua bản quyền bài “Màu Tím Hoa Sim” của ông với gía 100 triệu
đồng để được ... in bài thơ trên hộp đầu máy VCD của hãng. Đây là một sự kiện
được coi chưa từng xảy ra. Từ trước tới nay chưa có bài thơ nào được mua tác
quyền với giá cao đến như vậy (mà thật ra là cả Châu Á luôn). Có nguồn tin cho
rằng đây là một sự sắp xếp để đền bù những mất mát thiệt thòi trong mấy chục
năm của ông. 100 triệu đồng đó đủ để ông trang trải cuộc sống, bớt đi những khó
khăn về vật chất trong những năm cuối đời, 100 triệu đồng trừ thuế còn 90
triệu, ông chia cho 10 người con hết 60 triệu, trích một ít để in tập thơ
khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan và ông giữ lại 30 triệu phòng đau ốm lúc
tuổi già. Sau đó cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy bài thơ
khác nhưng ông từ chối: “Thơ tôi làm ra không phải để bán!”
Ngày
18 tháng 3 năm 2010, sau 95 năm tồn tại nhọc nhằn nhưng rắn rỏi giữa cuộc đời,
Hữu Loan đã nằm xuống, nhẹ nhàng và thanh thản, để lại cho đời một pho chuyện
kể, thật nhưng lạ kỳ như huyền thoại, để lại cho hậu thế không chỉ di sản thơ
ca mà cả một nhân cách sống. Huyền thoại một nhà thơ bất khuất.
----------
Nguồn: HỮU LOAN VÀ
NHỮNG ĐỒI HOA SIM9
Tác
giả: Cung Tích Biển
NHÀ THƠ HỮU LOAN,
LẦN GẶP MẶT
Sau tháng Tư 1975, tôi có dịp gặp gỡ các văn nghệ sĩ từ
miền Bắc vào Nam. Những cuộc “gặp” lẫn “gỡ” này, cái đinh đóng vô đầu, vui ít
buồn nhiều. Vui, là gặp được những người mình từ lâu mong đợi gặp. Lại khá bàng
hoàng khi đụng phải những nhà văn nhà thơ từng là các tác gia được “vang bóng
một thời”, nay trở thành những cán bộ tuyên truyền, “Nói mãi không thôi những điều dân miền Nam nghe muốn ói”.
Thật hạnh ngộ khi chúng tôi được gặp nhà thơ Hữu Loan, tác
giả bài thơ Màu Tím Hoa Sim, cùng một số vị trong vụ án Nhân văn - Giai phẩm,
những năm từ 1957 về sau, trên đất Bắc.
Những người bị chế độ đương thời bắt bớ, tù đày là hầu hết
những trí thức, văn nghệ sĩ có chủ trương, qua tác phẩm công khai của mình trên
báo chí, mục đích chống lại đường lối cai trị độc đoán, đàn áp tư tưởng, thủ
tiêu quyền tự do sáng tác.
Nhớ, hôm gặp nhạc sĩ Văn Cao trong một đêm nhạc Sài-gòn
chào mừng ông. Ông sinh năm 1923, lúc chúng tôi gặp ông, ông chỉ vừa độ tuổi
60, nhưng quá gầy yếu, mái tóc đã trắng phau, lưng còng, trông như một cụ già
gần chín mươi tuổi. Ông rất vui, lại đầy nước mắt, khi nghe - nhạc - của – mình
- được - hát, khi được trao những bó hoa với đầy lòng thương yêu và kính trọng
của người Sài-gòn.
Lại gặp quý ông Phùng Quán, Hoàng Cầm, Đoàn Phú Tứ tác giả
Màu Thời Gian… mỗi ấm áp, cùng uống cốc cà phê, nghe chuyện. Hóa ra, quý vị ấy
rất “giàu chuyện”, tuy dài dặt cuộc đời bị quản chế tư tưởng, cơ cực về đời
sống, gian lao trong hành xử một xã hội bị bao vây, tưởng đã “hết chuyện”.
Nhà thơ Phùng Quán gầy ốm nhưng khí lực chừng rất mạnh mẽ.
Ông rất trân quý những gì là tài sản văn hóa, trí tuệ, tinh thần của Miền Nam.
Nhưng ông có cái thói quen gần như một quán tính, lúc ngồi trò chuyện ông thỉnh
thoảng đảo mắt nhìn quanh, lo lắng. “Chừng
như sau lưng, hay bàn kế cạnh có ai đó theo dỏi lời nói, tư tưởng, hành tung
của mình”.
Phùng Quán, ông lớn hơn tôi bốn tuổi. Tôi đã thuộc nằm lòng
bài thơ Lời Mẹ Dặn của ông từ 1960, khi thơ văn của Nhân văn – Giai phẩm được
phổ biến rộng rãi tại Miền Nam:“Bút giấy
tôi ai cướp giật đi / Tôi sẽ dùng dao
viết văn lên đá”.
LỜI MẸ DẶN
Tôi mồ
côi cha năm hai tuổi
Mẹ tôi thương con không lấy chồng
Trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải
Nuôi tôi đến ngày lớn khôn.
Hai
mươi năm qua tôi vẫn nhớ
Ngày ấy tôi mới lên năm
Có lần tôi nói dối mẹ
Hôm sau tưởng phải ăn đòn.
Nhưng
không, mẹ tôi chỉ buồn
Ôm tôi hôn lên mái tócCon ơi trước khi nhắm mắt
Cha con dặn con suốt đời
Phải làm một người chân thật.
Mẹ ơi,
chân thật là gì?
Mẹ tôi hôn lên đôi mắt
Con ơi một người chân thật
Thấy vui muốn cười cứ cười
Thấy buồn muốn khóc là khóc.
Yêu ai
cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù ai
cầm dao doạ giết
Cũng không nói ghét thành yêu.
Từ đấy
người lớn hỏi tôi: Bé ơi, Bé yêu ai nhất?
Nhớ lời mẹ tôi trả lời:
Bé yêu
những người chân thật.
Người
lớn nhìn tôi không tin
Cho tôi là con vẹt nhỏ
Nhưng không! những lời dặn đó
In vào trí óc của tôi
Như trang giấy trắng tuyệt vời.
In lên vết son đỏ chói.
Năm
nay tôi hai mươi lăm tuổi
Đứa bé mồ côi thành nhà văn
Nhưng lời mẹ dặn thuở lên năm
Vẫn nguyên vẹn màu son chói đỏ.
Người
làm xiếc đi dây rất khó
Nhưng chưa khó bằng làm nhà văn
Đi trọn đời trên con đường chân thật.
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét
Dù ai cầm dao doạ giết
Cũng không nói ghét thành yêu.
Tôi
muốn làm nhà văn chân thật
Chân thật trọn đời
Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã
Bút giấy tôi ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá.
*
PHÙNG QUÁN
Và, lúc đối diện ông tôi cũng liên tưởng, ngỡ ra nỗi lòng
đau, qua lời thơ của nhà thơ Trần Dần:
“Tôi
đi giữa trời mưa đất Bắc
Đất hôm nay tầm tã mưa phùn
Bỗng nhói ngang lưng
Máu rỏ xuống bùn
Lưng tôi có tên nào chém trộm?”
Sau tháng Tư 1975, trước khi nhà thơ Hữu Loan có dịp vào
Nam, đã có một số thân hữu từ miền Nam ra Bắc thăm ông. Khó thể mô tả cảnh
nghèo khó của gia đình ông thuở ấy, lại khó thể hình dung ra cái tình cảnh cô
đơn của một Hữu Loan bị chính quyền cô lập trong bao nhiêu năm.
Ông vào thăm Sài-gòn khá muộn màng, có thể do điều kiện
kinh tế quá khó khăn. Anh em chúng tôi có dàn xếp một ngày để tiếp ông. Cà phê
sáng, dùng cơm trưa, buổi chiều đưa ông đi dạo chơi đó đây. Thuở ấy chỉ toàn xe
đạp, sang trọng tí chút là xe gắn máy. Ông rất hồi hộp khi ngồi yên sau xe gắn
máy. Ông bảo, “Đèo nhau xe đạp, chậm rãi,
thì bình an hơn”.
Quán cà phê vườn khá rộng. Khi Duy Th. đưa Hữu Loan tới,
quanh bàn chúng tôi đã có Tô Kiều Ngân, Bùi Giáng, mấy anh em văn nghệ, có cả
một lúc có hai cô, Huyền Tr. và Thúy V. một cô là ca sĩ, một kia đang là diễn
ngâm thơ cho đài phát thanh, trong các chương trình thi ca.
Bùi Giáng ngạo nghễ. Hữu Loan, thoạt nhìn như một pho
tượng. Sạm một màu đất nung. Khuôn mặt chữ điền, tóc dài, trán rộng, sống mũi
thẳng, cao.
Tôi nghiêng người chào ông. Ông nở nụ cười. Một nụ cười cẩn
thận, nói rằng thân thiện là chưa đúng. Một cái bắt tay của giao tế, dè chừng.
Sống ở miền Nam, sau cơn dâu bể, nay gặp anh trở về, gặp chị ngoài kia vô, chào
một nhà văn xứ Bắc vừa chạm mặt, tôi nhận ra tất cả họ đều có một hành xử khá
giống nhau.
Luôn nhìn quanh, ưa quay nhìn lui sau lưng. Nói ít, nói nho
nhỏ. Cẩn trọng, đề phòng. Lâu ngày thành thói quen, trong một chế độ không thể
“Trong bụng có gì ta có thể nói ra thế ấy”.
“Khó thể thật tình tỏ
lòng với nhau, thì phải nói khéo, nói dối để che chắn sự thật, đậy nắp cái cốt
lõi sự việc”. Mèo phải nước sôi phải biết sợ cả nước lạnh.
Hữu Loan có khác. Ông chừng là một bậc tiên đang bị đọa đày
xuống cõi trần. Trong đau đớn tột cùng hãy còn phảng phất cái thanh cao. Bắt
tay nhau, tôi chạm phải một bàn tay thô tháp. Những ngón to, cứng. Gân nổi trên
lưng bàn tay. Sau này biết, đôi bàn tay ấy từng đẽo đá, từng đẩy xe cút kít, xe
thồ, ròng rã mấy mươi năm, để sống qua ngày, nuôi vợ con trong tình thế một nhà
thơ bị vây khổn, bị khủng bố, cái giá treo cổ là không vô hình. Tất cả là bóng
tối, thất nghiệp cả nhà, đói khát, cơ cực. Là cả hoạn nạn thời thế, cách ly,
nghiệt ngã.
Hữu Loan, dù gặp mặt ngay đây, cầm bàn tay ấm áp giữa lòng
tay, ông vẫn là một huyền hoặc, với tôi.
Như một truyện kể xa lơ, từ thưở tôi còn trẻ thơ, thời
chiến tranh Việt-Pháp. Chín tuổi, tôi học thổi sáo, đàn mân-đô-lin từ người anh
ruột, học thêm lý thuyết từ thầy Lê Khắc Bạc, học ghi-ta với anh Hàn Vĩ, về sau
tập kết ra bắc anh là một phó khoa tại Nhạc viện Hà Nội. Theo các anh chị đánh
đàn ca hát, tôi ngây thơ mê muội, nhỏ nhoi như con tằm trong nong nia, lẫn lộn
với lá dâu xanh. Nhưng thuở ấy tôi đã nghe, chỉ biết nghe, chưa đủ hiểu để cảm
bài thơ Màu Tím Hoa Sim của ông.
https://www.youtube.com/watch?
v=cqkVjSBwXp4
Thời ấy, những năm đầu khởi chiến, mọi thứ còn hoang mộng.
Cả thảy một tình yêu nước nồng nàn, toàn dân một tình cảm ngây thơ trước những
mưu đồ chính trị. Sinh hoạt xã hội, ý thức hệ đối kháng, chưa từng cay nghiệt
như tháng ngày nội chiến về sau. Thưở ấy, ảnh hưởng một nền văn hóa cũ hãy còn.
Văn thơ, là Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo của Tự Lực văn đoàn, là Xuân Diệu,
Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính… âm nhạc với Thiên Thai, Suối Mơ, Giọt Mưa
Thu, Trăng mờ bên suối, Trương Chi…
Cách sống văn hoa lãng mạn của một lối sống trí thức tiểu
tư sản hãy còn in đậm. Những cụm từ ngày nay đã trở nên sáo mòn cũ rích, nhưng
buổi ấy là những “thanh âm” gợi cảm, gây mê cho bao thanh niên nam nữ trên
đường trường chinh, những “Chiều biên khu, trấn thủ lưu đồn, sương biên thùy,
chinh phu, chiến bào, sơn khê…”
Thấp thoáng dưới ánh trăng thôn dã là những bản nhạc chép
tay chuyền cho nhau, Dư âm, Nụ cười sơn
cước. Tiếng hát Sông Lô, Cung Đàn Xưa, Làng Tôi… Những thơ, Tây Tiến, Đôi Bờ..Và, đã có Màu Tím Hoa Sim.
Quê tôi, nơi tôi chào đời, làng Văn An, những đồi nương
thuở ấy hãy còn man mác rừng nối rừng sim. Hữu Loan, tác giả Màu Tím Hoa Sim,
đã bồng bềnh hình bóng, đã vang động rất xa tình thơ trong tôi. Một sưởi ấm
xanh lơ.
Bây giờ ông đang trước mặt. Với ly cà phê đen.bữa nay tôi
có cái để mà Nhớ Lại, để được Ngắm Nhìn. Hữu Loan, Ông từ đâu tới!
Cùng một bàn. Những tách cà phê đã vơi. Sắp mời ông đi tiệc
tùng buổi trưa đây. Nhưng cuộc trò chuyện càng lúc càng gần gũi hơn, dù ông chỉ
lắng nghe, ít phát biểu. Ít cả nụ cười. Ông được đón tiếp nồng hậu. Bùi Giáng
khinh bạc nhưng rất mực yêu mến những tài năng, từng rất mê đắm Nguyễn Du, Cao
Bá Quát, Tản Đà. Lúc này, Bùi Giáng nhìn Hữu Loan một cái nhìn trôi nổi, một
ánh mắt có thể gọi là thơ dại, trong ngần như ánh trăng.
Thường khi ngồi uống rượu hay cà phê cùng anh em ,Bùi Giáng
chỉ ngồi một lúc rồi đứng dậy đi nghêu ngao, ra đường chặn xe cộ, đùa chơi. Có
khi biến mất luôn chẳng chào chia tay một ai. Hôm nay, Sáu Giáng ngồi rất lâu.
Bùi Trung Niên Thy Sỹ một thời trẻ chăn dê nơi núi đồi Quảng Nam, là rất đắm
đuối với “Lá hoa cồn”, cùng “Đồi sim trái chín”.
Trò chuyện với Hữu Loan, mến ông là một người khá hiểu biết
về văn chương, học thuật. Dễ là chốn tri âm, tương phùng. Có thể do ông là
người có học hành tử tế, trưởng thành vào thời kỳ nước nhà còn lưu giữ những
nền móng đạo lý, những thứ vốn văn hóa quý hiếm của giống nòi.
Gặp ông, ngoài những chia nhau nỗi oan giữa đời, còn là một
điều khá thú vị, vì chúng tôi có một cái thói, rất “thoái trào” trong thời đại
“cơm áo gạo tiền”, là lúc chung trà chén rượu cùng nhau, chỉ rặt bàn luận văn
chương, triết học, âm nhạc nghệ thuật..
Một ngày gặp gỡ. Bữa trưa uống một trận bia. Chiều đưa ông
thăm chơi đó đây. Buổi tối ghé một quán vườn, rất đông anh em. Sáng hôm sau ông
ghé tôi. Chúng tôi cùng uống cà phê, ăn sáng. Nhà tôi ngay đường Nguyễn Huệ nên
nhà hàng Givral cũng gần.
Xem thực đơn, ông nói, “Tôi
không biết gọi gì, anh gọi dùm”.
Tôi gọi cho ông ly cà phê sữa, bánh mì vuông, một đĩa thịt
nguội, patê, xúc xích. Lúc này chúng tôi cũng đang túng thiếu, nhưng tiếp ống
phải “bề thế” tí chút. Chẳng lẽ mấy mươi năm ông nhai củ mì ngoài Bắc, giờ này
tôi mời ông mấy củ khoai lang trộn bo bo!
Tôi nhường ông ngồi ghế bên trong, nhìn ra đường, quang
cảnh góc đại lộ Lê Lợi và Tự Do. “Sài-gòn
nó to rộng thế đấy”. Bên kia là Continental khách sạn thuộc loại cổ nhất
Sài-gòn, nhà Hát Tây [tòa nhà Hạ nghị viện thời Cộng Hòa], khách sạn Caravelle.
Ông mãi nhìn cảnh đẹp bên ngoài, lại nhìn đĩa thịt nguội. Chừng không muốn ăn.
Tôi giục ông ăn chút gì kẻo đói bụng. Ông nói:
“Anh cho tôi nhìn một
hồi đã. Bao nhiêu năm tôi mới thấy cái món lạ lùng này”.
Ông ăn một cách khó khăn. Chừng từ lâu không quen với dao
nĩa. Tôi gọi một đĩa tương tự rồi bốc mà ăn, ý hô hào ông cùng bốc mà ăn.
Nhìn ông, tôi lại nhớ nước mắt của ông buổi sáng hôm qua.
Lúc trò chuyện, tôi nói nhỏ với Thúy V. “Em
nên ngâm bài Màu Tím Hoa Sim của chính Hữu Loan để tặng ông”..
Trong quán có cây đàn ghi-ta. Vũ D. đệm đàn. Tô Kiều Ngân
rút cây sáo trúc “nhà nghề”, dìu giọng người ngâm thơ. Giọng Thúy V. mượt mà,
khá trử tình. Nghe ngâm thơ của mình, từ mấy mươi năm bị chế độ cấm hát trên
đất Bắc, Hữu Loan ngậm ngùi. Bất ngờ ông bật tiếng khóc.
Khuôn mặt như một phiến đá chỗ lòng suối cạn. Khó lòng thấm
nước. Nhưng những hạt trong vắt cứ trôi xuống má. Ông có vẻ sờ soạng. Một bàn
tay thò vào túi. Không có gì. Hai bàn tay thô tháp chỉ run run, ông kéo cái
chéo áo ka-ki màu chàm, vải nhám, chừng cũng bẩn do mặc lâu ngày, đưa lên lau
nước mắt.
Từ rất lâu, ông không có khăn tay. Nghe rằng lúc đẽo đá,
những khi lao động cực nhọc, ông chỉ có một tấm áo cũ, rách không còn dùng được
nữa, giờ dùng làm tấm khăn quàng vai, để lau “cái suối mồ hôi thân mình”.
Những giọt nước mắt hiếm hoi ấy, là của ai vậy? Của một
người yêu nước, từng tham gia cách mạng rât sớm. Mặt trận Bình dân 1936. Phong
trào Việt Minh từ 1943. Là Phó Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa huyện Nga Sơn, tháng
8-1945. Rồi, Ủy viên văn hóa tỉnh Thanh Hóa. Là, anh bộ đội trong Đại đoàn 304.
Về Hà Nội 1954, đất nước tuy chia đôi, nhưng buổi ấy là thời ngưng tiếng súng
đôi bên, Hữu Loan lại cầm bút, tại báo Văn Nghệ.
Là ai khóc vậy? Là tác giả một bài thơ khá nổi tiếng. Ngay
trên đất Bắc, nơi tác giả của nó đang dâng cả một đời mình cho đất nước, đang
tận tụy phục vụ, thì bài thơ ấy bị cấm hát, cấm lưu hành dưới bất cứ hình thức
nào. Lý do, một tác phẩm tiêu cực, ủy mị, thiếu tính chiến đấu, chẳng Hồng
không Chuyên.
Lại lạ lùng, ngay tại Miền Nam Cộng Hòa, đất thù của phương
Bắc, bài thơ được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc qua nhiều tựa đề khác nhau, năm này
tháng khác, đã hàng triệu người nghe. Dzũng Chinh [Những đồi hoa sim], Phạm Duy
[Áo anh sứt chỉ đường tà], Anh Bằng [Chuyện hoa sim]. Duy Khánh – Song Ngọc
[Màu tím hoa sim], Thu Hồ [Tím cả rừng chiều]…
Lịch sử, Người nước tôi, như tự sơ nguyên đã cài lắp những
triền miên nội tình thù nghịch lẫn nhau, chẳng phép màu nào có thể hòa/ hóa
giải. Cho tới nay, vẫn là một chờ đợi khó khăn: “Giờ phán xét cuối cùng”.
Nhân văn – Giai phẩm. Nhà thơ Hữu Loan qua đời vào trung
tuần tháng 3 năm 2010 tại quê nhà, hưởng thọ 94 tuổi. Phùng Quán ra đi ngày 22
tháng 1 năm 1995. Trần Dần mất ngày 17 tháng 1 năm 1997. Cùng những ngày của
mùa xuân. Phan Khôi, Văn Cao, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, và nhiều
nữa…những thành phần trụ cột của Phong trào “Đi Tìm tự do tư tưởng, đòi hỏi
nhân quyền”, là đỉnh cao của văn hóa, cội nguồn, nay đã ra người thiên cổ.
Thiên cổ, là Bên Kia của hiện thực bên này ư? Bên kia, ai
có nhớ về. Hoài niệm, bảo tôi nghĩ và viết những dòng này.
----------
Nguồn:
NHÀ THƠ HỮU
LOAN, LẦN GẶP MẶT/
Tác
giả: Trần Mạnh Hảo
HỮU LOAN - GƯƠNG
MẶT ĐẼO TỪ ĐÁ
Năm 2005 tôi về quê, ghé qua thôn
Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh (nay là xã Nga Phượng) huyện Nga Sơn, Thanh Hóa thăm nhà
thơ Hữu Loan.
Râu tóc ông bạc phơ, cười nói hết
ga, nói không hề biết kiêng nể ai, không hề sợ hãi dù tôi cười bảo:
- “bác à, cháu là công an ngầm đấy, không sợ bị bắt à?”
Ông cười phá lên:
-“Mày là công an à, ông càng chửi tợn, cho mày ghi âm đấy,
bí thư huyện ủy về tao còn chửi cha thằng nào mang chủ nghĩa chó chết về làm
hại quê hương và dân tộc tao …”
- “Bác có
tin cháu thuộc thơ bác không?”
- “Không, Trần Mạnh Hảo là công an làm sao thuộc thơ? Cái
mặt mày không thể làm chó săn được con ạ!”
Tôi đọc thuộc lòng cho ông Hữu
Loan (có bà Hữu Loan ngồi cạnh), đọc hết “Màu tím hoa sim”, “Đèo
Cả”, đọc đến bài “Hoa Lúa”…thì
ông can:
-“thôi thôi, tao nhớ mày rồi!”
- “Nhớ sao?”
- ”Mày viết bài thơ “Khóc Nguyên Hồng” phải không?”
- “Thưa phải!”
- “Thế mày đọc bài này cho tao nghe lại nhá!”
Tôi đọc bài thơ “Cho một nhà văn nằm xuống” (tức bài
thơ “Khóc Nguyên Hồng)…
Đọc xong, Hữu Loan im lặng, không
nói gì, mắt ông hình như rơm rớm. Ngồi một lúc ông nói rất khẽ:
- “Ở đây ăn cơm uống tí rượu với bác nha. Này, bà nó bảo
thằng con sang bắt gà làm thịt đãi khách quý…”
Sợ làm phiền ông bà, tôi thác
cháu phải sang bên Hà Trung có anh bạn hẹn trưa nay rồi…
Ông khen Nguyên Hồng tài năng
nhân cách số một:
- “Hồng
kém tao 2 tuổi, nhưng chưa đầy 17 tuổi đã thành thiên tài với tiểu thuyết “Bỉ Vỏ”.
Tuổi đời Hồng là em tao, nhưng tuổi văn, tuổi nghề nó là hạng đàn anh. Nó đã bỏ
nhà Hà Nội, bỏ lương lậu, chức vụ về thẳng rừng Yên Thế sống như một nông dân.
Trước khi bỏ đi, nghe nó chỉ vào cơ quan Hội nhà văn nói, ông đếch chơi với
chúng mày nữa, chúng mày đểu lắm… Tao thương thằng Hồng mất sớm, đi lúc mới 64
tuổi.“
Mắt Hữu Loan ngấn vài giọt sương.
Ông không thương mình mà lại đi thương bạn!
Lần đầu tiên tôi gặp ông Tú Loan
trong buổi tờ mờ sáng khoảng năm 1961 khi theo mẹ sang chợ Hói Đào Nga Sơn.
Hữu Loan mang cái vó đã cụp gọng,
lưng đeo chiếc giỏ đựng cá, áo cộc tay, quần đùi đều rách vá. Hình như ông đi
cất vó đêm về…
- “Chào bác Tú”.
- “Sao cháu biết ta là Tú Loan”.
- “Bác Tú thì ai trong cái tỉnh Thanh Hóa này chả biết”
Tôi bèn đọc thuộc bài “Màu tím hoa sim” do mình chép trộm
trong sổ tay ông anh con bác học cấp 3. Ông Tú ngạc nhiên, bỏ vó xuống, ngồi
bên gốc cây bàng bên đường nói chuyện với tôi - một thằng nhóc 13 tuổi…
- “Sao bác về sớm thế, cất vó suốt đêm à?”
- “Không, từ 10 giờ đêm đến 5 giờ sáng là về”
- “Sao
không cất vó dạo ban ngày ?”
- “À, bị
quản thúc tại gia, nên sông của đảng, cá của đảng, mình cất vó kiếm con cá sông
cá ngòi là mình ăn trộm của đảng, công an biết thì toi …Thôi cháu đi đi, công
an thấy thì rầy rà cho cháu đấy !”
Từ đó, tôi không còn gặp ông Tú
Loan đi cất vó trộm về nữa. Nghe đồn ông làm nghề thồ đá kiếm tiền mua gạo nuôi
vợ con suốt 30 năm…
Sau năm 1986 đổi mới cởi trói cho
văn học, đảng nhà nước đã phục hồi hội tịch cho các nhà văn thơ từng bị quy
“nhân văn giai phẩm” trong đó có Hữu Loan…
Tôi đã gặp ông Hữu Loan, Trần
Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Phùng Quán…hai lần đại hội…
Các ông ngồi góc cuối, bên ngoài,
chào bắt tay thì cười cho qua chuyện, như thể các ông vẫn bị ai đó cầm tù linh
hồn, còn sợ hãi dù ngay khi gặp mấy gái xinh hội viên đến bắt chuyện…
- “Tôi
chào bác Tú.”
Ông cười nói: “hàng thần lơ láo…”. Hữu Loan không nhận
ra thằng bé ngày nào tờ mờ sáng gặp ông ở Nga Sơn đi cất vó về, đọc thơ ông cho
ông nghe…
Hôm nay được ngồi trò chuyện với
ông hai tiếng đồng hồ. Người ông như đẽo ra từ đá. Suốt 30 năm ông bị quản
thúc tại thôn làng về tội “nhân văn giai phẩm”, đi thồ đá cũng là đi thồ trộm,
đi cất vó sông ngòi cũng là đi cất vó trộm. Sống cũng trộm, nghĩ cũng trộm,
buồn vui trộm…
Chế độ mà ông tham gia xây dựng,
đổ xương máu 9 năm đánh Pháp, để cuối cùng ông không hề
có độc lập và tự do… Chế độ
đã biến ngôi nhà ông thành nhà tù tại gia, giam một con người gần suốt cả cuộc
đời trong đói nghèo, rách rưới, chỉ vì ông dám viết ra một phần ý nghĩ thật của
mình…
Bây giờ già lắm rồi, ông đếch sợ
nữa, ông chửi từ cụ tiên chỉ nhà chúng nó xuống, mà không thằng nào đến bắt
ông:
- “Tao thèm ở tù thật lắm. 30 năm nay tao đã ở tù tại gia,
sống mà bị quản thúc từ con buồi đến tư tưởng, thì sống làm đếch gì, bắt và bắn
tao đi…”
Tôi hỏi ông về bài thơ “Màu tím hoa sim” thì ông bảo:
- “Chúng
nó thù bài thơ này, thù nhất là từ khi Phạm Duy phổ nhạc. Nó bảo bài thơ kích
động bi kịch cá nhân trong kháng chiến. Vợ người lính chết đuối ở hậu phương
lãng nhách, có gì mà làm thơ khóc. Tưởng là đi du kích bị địch giết hóa ra sảy
chân chết đuối…Bao cô du kích anh hùng xông vào đồn giặc hi sinh sao không
viết, lại đi khoe vợ mình bị chết đuối là sao? Tiểu tư sản, vớ vẩn, thi ca gì
tủn mủm hạ đẳng thế, làm mất nhuệ khí anh bộ đội Cụ Hồ…”
Vâng, cái tội mà đảng vu cho “Màu
tím hoa sim” lại chính là cái công lớn của thi pháp Hữu Loan đi vào cái bi kịch
cuộc đời. Bi kịch, ô là la, cái mà bút pháp văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa
kỵ nhất, ghét nhất…
Ngày 18-3-2010 Hữu Loan đã đi vào
bất tử với hai bài thơ hay nhất đời ông: “Đèo Cả” và “Màu tím
hoa sim”… Và cái dáng người gan lì, dũng mãnh, hiên ngang của ông thợ
thồ đá, thợ cất vó trộm, thợ sống trộm và nghĩ trộm… như tạc ra từ đá núi Ngỗng
(Nga Sơn) quê hương…
----------
Nguồn: HỮU LOAN
GƯƠNG MẶT ĐẼO TỪ ĐÁ/
Tác
giả: Lưu Hà
NHÀ THƠ HỮU LOAN VÀ
DI SẢN
ĐỂ LẠI CHO CON CHÁU
Sau 95 năm tồn tại nhọc nhằn
nhưng rắn rỏi giữa cuộc đời, “cây gỗ vuông chành chạnh của” đất Nga Sơn đã nằm
xuống, nhẹ nhàng và thanh thản, để lại cả một pho chuyện kể, thật nhưng lạ kỳ
như huyền thoại, về một lão thi nhân luôn “bận làm người”.
Dưới đây là câu chuyện về tác
giả Màu tím hoa sim từ những ký ức sống động của anh
Nguyễn Hữu Đán – con trai nhà thơ.
Sinh năm 1969, kiến trúc sư
Nguyễn Hữu Đán là con trai thứ tám trong số 10 người con của thi nhân. Tuy sinh
sau đẻ muộn, nhưng trong trí nhớ của anh, tuổi thơ khốn khó và
hình ảnh người cha lầm lụi kiếm gạo nuôi con vẫn là những ám ảnh khôn nguôi.
Anh Đán kể: “Thời đó, nhà nào cũng khổ, nhưng bố mẹ tôi rơi vào hoàn cảnh ngặt nghèo
hơn, vì gia đình sống ngoài hợp tác, hầu không có tem phiếu, gạo thịt”. 10
đứa con của vợ chồng thi nhân lần hồi lớn lên bằng những chuyến xe kĩu kịt đá
của bố và những mớ bánh chui nhủi của mẹ – bà Phạm Thị Nhu. Chính sách hồi đó cấm
nghiêm ngặt việc chế biến, buôn bán, giết mổ. Để có mỡ làm bánh, gia đình nhà
thơ từng phải nuôi chui một con lợn trong chuồng kín. Lúc giết thịt, để ngăn
tiếng kêu của con vật, ông phải trộn tro và ớt đổ cho lợn bị sặc, rồi cho vào
bao tải, ngâm xuống ao cho đến lúc chết hẳn rồi mới giết. Làm ra mớ bánh, gánh
bún là bao nhiêu nhọc nhằn, lam lũ của hai vợ chồng nhưng không phải lúc nào
gánh quà của bà Nhu cũng đông buổi chợ.
“Những hôm phòng thuế bắt chợ, cũng như người ta, gánh bún của mẹ tôi bị
hắt xuống hào. Thương con, xót của, mẹ tôi lội xuống, bốc về. Bố tôi đãi nước
cho hết cát để cả nhà ăn trừ bữa. Nhà đông miệng ăn, gạo thường phải trộn thêm
rau, nấu thành cháo, ưu tiên chia phần theo thứ tự từ đứa bé đến đứa lớn. Nhà
tôi giờ vẫn còn giai thoại về những người anh húp cháo nóng rất nhanh”, kể
đến đây, anh Đán miệng cười, nhưng mũi ửng đỏ, đôi mắt, sau cặp kính trắng,
dường như không dám chớp mi. Người đối diện, chỉ còn cách cũng vờ nhìn quanh
quất, để giúp anh ngăn dòng nước mắt, bước qua một trong muôn vàn đoạn ký ức
khó nhọc chưa chịu phai mờ.
10 đứa con đã lần lượt lớn lên,
tưởng như trời sinh voi, hẳn phải sinh cỏ. Nhưng theo anh Đán, anh chị em anh
đã thành người bởi họ có một người cha kiên cường và một người mẹ biết chắt
chiu, tần tảo. Thi sĩ Nga Sơn, ban ngày mòn vai, chai chân thồ đá, ban đêm còn
vác te vó, xiếc tép nuôi con. Đất nhiều, vườn rộng, ông chịu khó trồng rau,
trồng sắn, để tháng ba ngày tám, phòng lúc đói có sẵn cái để đào lên cho các
con ăn.
Ngoài sự thiếu thốn, cực nhọc về
vật chất, nhà thơ Hữu Loan, theo con trai ông, còn phải chịu đựng nỗi khổ về
tinh thần, trước sự nhiếc móc của họ hàng vì cách sống thẳng thắn và khẳng khái
của ông. Tuy vậy, anh Đán khẳng định, 10 anh em anh chưa từng trách móc, hờn
giận bố về lựa chọn của ông. Ngược lại, họ tự hào vì trong mỗi đứa con, dù ít
dù nhiều đều thừa hưởng sự tài hoa và tính cách trung thực, thẳng thắn để
trưởng thành.
Nghèo khổ, vất vả nhưng con cái của nhà thơ Hữu Loan đều có
tư chất và năng lực. Sự đỗ đạt của
những đứa con là niềm hạnh phúc của mọi bậc cha mẹ, nhưng với riêng nhà thơ Hữu
Loan, mỗi lần con đỗ đạt là một lần ông nhọc lòng, day dứt. Khi con trai cả của
nhà thơ – anh Nguyễn Hữu Cương – đủ điểm đi học ở Liên Xô nhưng không nhận được
giấy báo, nhà thơ đành bất lực để con bỏ dở đường học hành, đi làm thợ. Đứa con
gái thứ hai đỗ Sư phạm, cũng không nhận được giấy báo. Lần này, thương con, ông
quyết tìm ra ngọn ngành. Nhà thơ lên Ty giáo dục huyện, huyện bảo xuống xã. Về
xã, xã bảo lên huyện. Năm lần bảy lượt như thế. Cuối cùng ông xông thẳng vào Ty
giáo dục huyện tìm bằng được giấy báo cho con. Nay con gái thứ hai của nhà thơ
là giáo viên dạy học ở quê.
Trong số 10 người con của Hữu
Loan, anh Nguyễn Hữu Đán là người thành đạt nhất. Tốt nghiệp Phổ thông Trung
học, anh ở nhà mở xưởng cơ khí đỡ đần bố mẹ và các anh em. Sau 5 năm làm thợ,
anh ôn thi và đỗ vào trường kiến trúc. Bây giờ, anh đã có cả một cơ ngơi và là
chủ tịch hội đồng quản trị Công ty cổ phần bảo tồn di sản văn hóa kiến trúc
Việt.
Khi đã có điều kiện, anh muốn làm
mua sắm mọi thứ, để bù đắp cho cả cuộc đời thiếu thốn của bố mẹ. Nhưng những
con người đã quen dành dụm, chắt chiu, đã quen khổ cực dường như vẫn không muốn
thay đổi nếp sống của mình. “Bố tôi vẫn
vậy, ăn uống rất thanh cảnh. Ông hầu như không ăn thịt, chỉ ăn ít cá và rất
thích rau, dưa, hay chuối xanh chấm mắm tôm. Mẹ tôi đến giờ vẫn cặm cụi giữ
từng chiếc đũa sờn, vá từng chiếc thúng rách”, anh Đán kể.
Theo đuổi công tác bảo tồn di
sản, anh Đán ý thức rất rõ, nhiệm vụ lớn nhất của anh là bảo tồn di sản của bố
mình. Hiện tại, anh đã sưu tầm được một số bản thảo, gồm câu đối, thơ, trường
ca và thơ dịch. Anh dự định xuất bản một tuyển tập, viết hồi ký về bố và xây
một nhà lưu niệm nhỏ về nhà thơ tại chính nơi ông đã gắn bó gần như cả cuộc đời
mình.
Trở lại với cái chết của nhà thơ,
anh Nguyễn Hữu Đán cho biết, thi nhân ra đi rất thanh thản. Trước đó vài hôm,
ông còn âu yếm đùa vui với người vợ hồn hậu. “Vài ngày trước khi mất, bố gọi mẹ vào ngồi cạnh giường. Mẹ tôi lóng
ngóng ngồi cả vào chân bố bị khuất dưới lớp chăn. Ông trìu mến càu nhàu: ‘Sao
đã sống với tôi cả 50 - 60 năm mà bà còn đè cả vào chân tôi thế này”. Khi
mẹ tôi hỏi: ‘Ông có thương tôi không?’,
bố tôi trả lời: ‘Tôi không thương bà thì
thương ai'”, anh Đán kể.
Nhà thơ Hữu Loan gọi mình là “cây gỗ vuông chành chạnh”. Nhà thơ Hoàng
Phủ Ngọc Tường gọi Hữu Loan là “Ông Từ
Thức Nga Sơn”. Còn với các con của nhà thơ, ông trước hết và trên tất cả,
là người chồng, người cha, đã để lại cho vợ cùng 10 người con, 37 đứa cháu
không chỉ di sản thơ ca mà cả một nhân cách sống.
--------------
Nguồn: NHÀ THƠ HỮU
LOAN VÀ DI SẢN ĐỂ LẠI CHO CON CHÁU/
Tác
giả: Đoàn Thanh Liêm
KỶ NIỆM VỚI NHÀ THƠ
HỮU LOAN
Hai nhà thơ Hữu Loan và Hà Thượng
Nhân là bạn cùng lứa tuổi và cùng xuất thân từ quê hương Thanh Hóa, nên rất gắn
bó thân thiết với nhau. Hai ông vẫn xưng với nhau là “Mày/ Tao” như cái hồi còn
nhỏ tuổi có đến trên dưới 80 năm rồi. Ngày nay cả hai đã ở vào cái tuổi “cửu
thập’ sắp sửa bước tới “bách tuế” rồi. Trước năm 1945, tại Thanh Hóa người ta
vẫn gọi hai ông là Tú Loan (Nguyễn Hữu Loan), Tú Trinh (Hoàng Trinh = Phạm Xuân
Ninh sau này) với sự trọng nể kính phục, vì vào thời đó những người có bằng Tú
tài ở địa phương thì rất hiếm, có thể đếm trên đầu ngón tay được.
Sau 1954, Hữu Loan ở lại miền
Bắc, còn Hà Thượng Nhân thì vào miền Nam. Và cả hai đều có sự nghiệp thơ văn
đáng kể, mỗi người mỗi vẻ.Tôi có cái duyên được gần gũi quen biết với cả hai
nhà thơ nổi danh này. Năm ngoái 2008, tôi đã viết về nhà thơ Hà Thượng Nhân,
năm nay tôi xin viết về những kỷ niệm vui vui với nhà thơ Hữu Loan. Vì đã có
nhiều tác giả phân tích chi tiết về các bài thơ của Hữu Loan, nên tôi sẽ không
lạm bàn về lãnh vực văn chương thơ phú, mà chỉ ghi lại cái kỷ niệm riêng tư khó
quên giữa nhà thơ và tôi ở Sài Gòn vào năm 1988-1989.
Sau năm 1975, qua Trương Hùng
Thái (chú Thái) là một nhà thơ trẻ ở miền Nam, tôi có dịp gặp gỡ làm quen được
với mấy nhà thơ ở miền Bắc như Trần Dần, Hữu Loan. Các bạn trẻ ở Sài Gòn hay tổ
chức những buổi sinh họat văn nghệ tại tư gia, vừa gọn gàng kín đáo mà lại vừa
thân mật ấm cúng như trong phạm vi một gia đình. Anh Trần Dần hồi đó đã đau
bệnh nên đi lại khó khăn. Nhưng anh Hữu Loan dù đã ở tuổi “thất thập” rồi, mà
vẫn còn tráng kiện lắm, anh cỡi xe đạp rong ruổi khắp nơi trong thành phố, ra
cả ngọai ô. Tôi thường dẫn anh đi ăn phở nơi các quán “Phở gánh” trong mấy
đường hẻm khu Ngã Ba ông Tạ hay khu Nhà ga Phú Nhuận. Cũng như dẫn anh đi uống
cà phê ở mấy quán bình dân, khuất nẻo như quán cóc trong lối xóm. Anh Loan rất
thích cái phong cách cởi mở, hồn nhiên của người miền Nam, mặc dầu họ đã phải
sống dưới chế độ xã hội chủ nghĩa trên 10 năm rồi. Nhiều gia chủ khi được giới
thiệu anh là tác giả bài thơ nổi danh “Màu
tím hoa sim”, thì đã vui vẻ khoản đãi món ăn, thức uống, mà không hề
lấy tiền của Hữu Loan. Dịp này, anh tâm sự với tôi: “Bà con miền Nam thật là cởi mở hào phóng, đày ắp tình người…”
Và trong nhiều buổi tối, chú Thái
và cô Tú còn hay tổ chức bữa nhậu để khoản đãi Hữu Loan, dịp này bằng hữu tha
hồ chuyện trò tâm sự với nhà thơ được tiếng là “bất cần đời”, chuyên môn đi thồ
những phiến đá đẽo từ khu đồi núi tại vùng quê Thanh Hóa.
Có lần chúng tôi tổ chức cho mấy
bạn trẻ đi thăm mấy địa điểm khảo cổ về văn minh “Óc Eo Phù Nam” tại quận lỵ
Đức Hòa hồi đó đã được sát nhập vào tỉnh Long An, thì Hữu Loan cũng tham gia và
anh rất phấn khởi được biết nơi đây hồi trên 1.500 năm trước đã là thủ phủ của
Vương quốc Phù Nam. Chuyến đi này được thực hiện là do sự sắp xếp của anh Võ Sĩ
Khải là một chuyên gia khảo cổ, trước kia là một môn sinh của vị Giáo sư nổi
danh Nghiêm Thẩm. Phái đoàn đi tham quan gồm nhiều Bác sĩ, Nha sĩ, Y tá trẻ vốn
tham gia công tác thiện nguyện để chăm sóc y tế cho bà con người thiểu số tại
miệt Túc Trưng, Định Quán. Có cả cựu Dân biểu Phan Xuân Huy cùng mấy tu sĩ Phật
giáo, Công giáo và một số nhà giáo cũng đi theo nữa. Là một chuyên gia lâu năm
trong ngành khảo cổ, anh Khải đã giải thích tường tận cho chúng tôi về những
khám phá những cổ vật tại một số địa điểm được đào bới, mà xưa kia là các đền
thờ của người thuộc Vương quốc Phù Nam theo đạo Bà La Môn, rồi bị người Khmer
từ phía Cambodia đến chiếm đóng và xua đuổi họ tản mát đi lên phía rừng núi hay
ra biển khơi mất dạng luôn.
Nhà thơ Hữu Loan rất tò mò ngắm
nghía các cổ vật còn được lưu trữ tại Bảo tàng viện tạm thời ở thị xã Long An,
mà trên đường về lại Sai Gòn, chúng tôi lại được anh Võ Sĩ Khải hướng dẫn đến
thăm viếng để hiểu biết chi tiết hơn về cái nền văn minh Óc Eo Phù Nam đã bị
sụp đổ từ trên 14 – 15 thế kỷ trước. Anh Khải cho biết, theo ý kiến của Linh
mục Trần Tam Tỉnh vốn là một Giáo sư về Khảo cổ học lâu năm ở Canada, thì nên
xây dựng Viện bảo tàng chính thức ngay tại Đức Hòa là nơi được xác nhận trước
kia là thủ phủ của vương quốc Phù Nam, vì xung quanh đó tập trung rất nhiều di
tích đền đài, dinh thự của nhà vua.
Và đặc biệt là còn tìm thấy được
tấm lắc bằng vàng có chạm trổ “Lệnh rút quân” của nhà vua ban ra, lúc quân
Khmer kéo tới rất đông để chiếm đóng lãnh thổ của Vương quốc vào thế kỷ thứ VI
sau Công nguyên. Cổ vật này là một bằng chứng xác thực nhất về sự tồn tại của
Vương quốc Phù Nam, mặc dầu nó đã bị xóa sổ từ gần 1.500 năm nay rồi. Anh Loan
cứ tấm tắc khen ngợi công trình nghiên cứu khoa học của anh Khải và các chuyên
viên khảo cổ trong khu vực miền Nam ở đây.
Vào thời gian đó, nhà thơ Hữu
Loan còn được Báo Tuổi trẻ tặng cho một Giải thưởng về một bài báo mới nhất do anh viết, với
số hiện kim lên đến mấy trăm ngàn là một món tiền lớn lúc bấy giờ. Nhưng không
may cho anh, là sau đó anh bị kẻ bất lương tước đoạt gần hết món tiền này, khi
tụi chúng giật được cái cặp da anh cột ở phía sau yên xe đạp mà anh vẫn chạy đi
trong thành phố. Đây quả là cái mặt trái đen tối của cái thành phố xô bồ, vàng
thau lẫn lộn. Chúng tôi thật thông cảm bùi ngùi xót xa với anh trước cái tai
nạn thật đáng tiếc ở dọc đường phố Sài Gòn như thế ấy.
Nhân tiện cũng xin nhắc lại là
trong dịp vào thăm miền Nam năm 1988 - 1989, Hữu Loan đã tham gia với phái đoàn
của mấy “Dũng sĩ Đà Lạt” gồm nhà thơ Bùi Minh Quốc, nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự đi
khắp các tỉnh từ Nam ra Bắc để vận động các văn nghệ sĩ cùng ký thư thỉnh
nguyện yêu cầu phải có tự do sáng tác, tự do xuất bản, báo chí theo tinh thần
“đổi mới - mở rộng dân chủ” mà Nhóm văn nghệ Đà Lạt đã chủ trương và công bố
trong một Bản Tuyên ngôn, khiến gây chấn động dư luận khắp nơi hồi đó. Quả thật
nhà thơ lão thành Hữu Loan đã tiếp sức thật đúng lúc, đúng chỗ cho các bạn dũng
sĩ trẻ ở miệt cao nguyên Langbian vào cái thời hé mở “đổi mới” sau năm 1986.
Chi tiết vụ này đã được nhà văn Bảo Cự ghi đầy đủ trong cuốn sách Hành trình cuối Đông xuất bản ở hải ngọai mươi năm trước đây.
Hôi cuối năm 1989, tôi có việc
phải đi từ Sai Gòn ra Hà Nội và nhân tiện ghé thăm anh chị Trần Dần tại nhà ở
gần Ga Hàng Cỏ. Anh Dần cũng cho biết Hữu Loan mới ra đây, đang đi thăm bạn hữu
ở Hà Nội. Đúng lúc đó thì xảy ra Đại hội Nhà văn và có sự tranh luận sôi nổi về
tự do sáng tác văn nghệ theo trào lưu đổi mới. Anh Dần phấn khởi cho tôi hay
là: “Nhìn chung, thì phe tiến bộ dân chủ
đã thắng thế trong Đại hội này”. Nhưng tôi lại không được gặp lại Hữu Loan
trong dịp cả hai chúng tôi cùng ở Hà Nội vào cuối tháng 11 năm 1989 đó. Theo
tôi biết thì Hữu Loan đã tự ý rời bỏ cả Đảng Cộng sản, cũng như bỏ hết mọi sinh
họat với Hội Nhà văn, nên đã không hề tham dự đại hội này. Nhưng chắc chắn là
anh cũng như anh Trần Dần đã rất phấn khởi trước sự can đảm bày tỏ ý kiến của
một số bạn văn nghệ sĩ của các anh trong dịp đại hội vừa kể.
Nhân tiện cũng xin ghi lại một
câu đối mà chính Hữu Loan đã đọc cho tôi ghi lại như sau: Đã lâu có một văn
nghệ sĩ (hình như là Chu Thành [Tú Sót - Nghệ An], vì tôi không nhớ rõ Hữu Loan
xác định tên tác giả này) ra câu đối:
“Bác
bôi tôi không bằng tôi bôi bác”;
thì Hữu Loan đối lại là:
“Mày ăn dân hết nước dân ăn mày”.
Tôi mới được đọc trên internet là
Hữu Loan còn làm rất nhiều câu đối vào lọai khó đối đáp, như câu:
“Da trắng vỗ bì bạch” [1]
Chính tôi thì chưa được biết câu
đối lại của Hữu Loan riêng cho vế này ra sao. Mong có bạn nào sưu tầm được các
câu đối này để cho bạn đọc bốn phương được thưởng thức, thì hay lắm vậy.
Và kể từ đầu năm 1990 lúc tôi bị
công an bắt giữ cho đến khi qua định cư ở Mỹ năm 1996, thì tôi không có dịp
trực tiếp liên lạc với anh Hữu Loan nữa. Nhưng qua nhà thơ Hà Thượng Nhân ở San
Jose và mới đây qua nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự cũng qua thăm bà con ở Mỹ, thì tôi
lại được biết thêm chi tiết về cuộc sống của anh Loan. Ông lão nay đã ngoài 90
tuổi rồi, mà vẫn còn minh mẫn, cương nghị như hồi nào. Đọc trên internet, tôi
thật phấn khởi được biết anh vẫn sống thanh thản nơi quê hương Thanh Hóa cùng
với đại gia đình rất đông con, cháu, chắt và đặc biệt người vợ đã tận tình chia
sẻ cay đắng, ngọt bùi với anh trên nửa thế kỷ nay.
Đối với tôi, Hữu Loan là một nhân
cách thật lớn lao, kiên cường đã giữ vững được tiết tháo liêm sỉ của người sĩ
phu trí thức theo đúng với truyền thống tốt đẹp của dân tộc chúng ta. Tôi thật
may mắn được quen biết thân thương với những bậc đàn anh vừa có tài năng, vừa
có tư cách đáng quý, đáng trọng như Hữu Loan, như Hà Thượng Nhân, như Doãn Quốc
Sĩ …
Xin cầu chúc Anh và Gia quyến
luôn được mọi sụ An Lành Tốt Đẹp./
--------------
Nguồn: KỶ NIỆM VỚI
NHÀ THƠ HỮU LOAN/
Tác
giả: Mặc Lâm
HỮU LOAN: NHÀ THƠ
BẤT KHUẤT
Chương trình Văn hóa Nghệ thuật
tuần này Mặc Lâm xin gửi đến quý vị bài viết về cố thi sĩ Hữu Loan, tác giả bài
thơ Màu Tím Hoa Sim bất hủ vừa
từ trần vài hôm trước tại quê nhà của ông.
Hôm nay chúng tôi xin được trình
bày một ít chi tiết về cuộc đời nhà thơ Hữu Loan, từ khi ông bước vào lãnh vực
thi ca để rồi sau đó không lâu chạm trán với những nghiệt ngã mà ông phải chịu
đựng suốt hơn 50 năm trong chế độ mà ông từng hết lòng thiết tha phục vụ.
Không
hề cúi đầu
Hữu Loan sinh năm 1916 tại thôn
Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, Thanh Hóa. Ông học thành chung ở Thanh
Hóa sau đó đi dạy học tư kiếm sống. Tham gia cách mạng từ năm 1936, hoạt động
phong trào Mặt trận Bình dân tham gia Việt Minh ở thị xã Thanh Hóa.
Năm 1943, Hữu Loan về Nga Sơn gây
dựng phong trào Việt Minh ở quê ông. Giữ chức Phó Chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa
huyện Nga Sơn, sau đó làm Ủy viên văn hóa trong Ủy ban lâm thời tỉnh Thanh Hóa
phụ trách các ty: Giáo dục, Thông tin, Thương chính và Công chính trong kháng
chiến chống Pháp.
Trong khoảng thời gian 1956-1957,
Hữu Loan tham gia Phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm. Ông sáng tác những tác phẩm
lên án thẳng thắn và quyết liệtđến những tiêu cực của các cán bộ nịnh hót, đố
kỵ, tham nhũng hay ám hại lẫn nhau để thăng quan tiến chức.
Sau khi phong trào Nhân Văn Giai
Phẩm bị dập tắt vào năm 1958, nhà thơ Hữu Loan bị cải tạo vài năm, tiếp đó bị
giam lỏng tại địa phương suốt nhiều chục năm không được góp tiếng nói hay tác
phẩm với đời. Ông kiên cường chịuđựng nghèo khó mà không hề cúi đầu trước thế
lực của những người trước đây là đồng chí nhưng nhìn ông với đôi mắt thù hằn
lẫn ngờ vực.
Tác phẩm của Hữu Loan không nhiều
trong đó gồm Màu tím hoa sim, Đèo Cả, Yên mô, Hoa lúa, Tình Thủ đô… và tập Thơ
Hữu Loan.
Người không biết ông thì “Màu Tím Hoa Sim” là cầu nối dẫn họ
tới nhà thơ. Với người biết ông thì bài thơ này chưa phải là đáng nói so với
nhân cách của ông, một nhân cách trung thực đến cứng cỏi đáng làm tấm gương soi
cho trí thức trong nhiều giai đoạn.
Hữu Loan sống và đồng hành với
Cách mạng từ lúc thành công cho tới khi cũng chính Cách mạng tiêu diệt niềm
tin, tính tự trọng và đau đớn hơn hết là đã làm nhiều người trở thành vô cảm
trước các nỗi đau của xã hội.
Người
đi bộ ngược chiều
Tuy chỉ là một nhà thơ nhưng Hữu
Loan đứng bật dậy không khoan nhượng với chế độ.Nói theo cách nói của nhà thơ
Nguyễn Thụy Kha thì Hữu Loan là người đi bộ ngược chiều. Chiều của dòng chảy
thuần tính xã hội chủ nghĩa, chiều của a dua hay im lặng. Chiều của muôn vàn
cái ác cái xấu nay đã trở thành bình thường và được nhiều người dửng dưng chấp
nhận.
Hữu Loan không chấp nhận. Hơn thế
ông còn lớn tiếng phê phán, thậm chí mạt sát và sau đó chấp nhận về nhà còng
lưng gánh đá nuôi con. Ông chấp nhận oằn lưng dướiđá nhưng không chấp nhận cúi
đầu trước những con người mà ông cho là điếm nhục, khi ngày ngày đếm đồng tiền
vấy bẩn bằng mồ hôi, nước mắt của nhân dân do vị thếmà họ nắm giữ.
Nhà thơ Bùi Minh Quốc ngậm ngùi
kể lại lần ông gặp Hữu Loan đầu tiên tại Lâm Đồng. Lần gặp đó cũng là lần đầu
nhà thơ của chúng ta rời khỏi Nga Sơn Thanh Hóa sau nhiều chục năm câm nín.
“Lần đầu tiên tôi gặp anh Hữu Loan trong một giờ phút rất đặc biệt. Đó
là lúc khai mạcđại hội Hội Văn Nghệ Lâm Đồng. Khi tôi đang ngồi trên chủ tịch
đoàn thì anh em bên ngoài đưa vào một ông già tóc bạc trắng, gầy gò ốm yếu và
giới thiệu là nhà thơ Hữu Loan đến thăm đại hội. Tôi đến chào đón anh bằng cách
ôm anh. Sau đó tôi có làm một bài phỏng vấn anh về Nhân Văn Giai Phẩm.”
Hào
khí “Đèo Cả”
Bài thơ “Đèo Cả” được Hữu Loan sáng tác vào năm 1946 cho thấy tài năng
của ông đã phát lộ rất sớm. Ông nhìn bạn chiến đấu đồng hành cùng với mình bằng
một đôi mắt nhân bản nhưng lời thơ hùng tráng như tiếng kèn thúc quân xóa nhòa
đi tất cả nỗi thường tình nhi nữ.
Hữu Loan không ca tụng chiến
tranh nhưng thơ ông có sức công phá mãnh liệt của lòng yêu nước. Hình ảnh những
chàng trai hiên ngang “râu ngược chào
nhau bên vách núi” ý thơ cổ điển lồng trong khung cảnh hiện thực đã tăng
thêm hào khí cho bài thơ lên nhiều lần.
ĐÈO CẢ
Đèo Cả!
Núi cao ngất!
Mây trời Ai Lao
Sầu đại dương
Dặm về heo hút
Đá bia mù sương!
Bên quán hồng quân
Người
Ngựa
Mỏi
Nhìn dốc
Ngồi than
Thương ai
lên đường
Chầy ngày
Lạc giữa núi
Sau chân
Lối vàng xanh tuôn
Dưới cây
Bên suối độc
Cheo leo
Chòi canh
Như biên cương.
Tức
Râu trùm vai rộng
Không nhận ra người làng
Rau khe
Cơm vắt
Áo phai màu chiến trường
Ngày thêm
Vượn hú
Đêm canh
Gặp hùm
Lang thang!
Gian nguy
Lòng không nhạt
Căm thù trăm năm xa
Máu nghiêng sôi dào dạt
Từ nguồn thiêng
Ông cha.
– Cầu xây chiến lũy ngất
Đây hình hài thiên hoa!
– Xâm lăng!
– Xâm lăng!
Súng
Thèm
Gươm
Khát
– Ai ngâm
Lung lay
Đêm quê nhà!
Nhớ về thăm Đèo Cả
Hậu phương từ rất xa
Ăn với nhau
Bữa heo rừng
Công thui
Chấm muối
Ngủ với nhau
Sạp rừng
Nửa tối
An Bình.
Biệt nhau
Rừng hoang
Canh gà
Râu ngược
Chào nhau
Bên vách núi
Giặc từ Vũng Rô bắn tới
Giặc từ trong tràn ra
Nhưng Đèo Cả
Vẫn
Giữ
Vững
Chân đèo Nam
Máu giặc
Mấy lần
Nắng khô
Sau mỗi lần thắng
Những người trấn Đèo Cả
Về bên suối
Đánh cờ
Người hái cam rừng
Ăn nheo mắt
Người vá áo
Thiếu kim
Mài sắt
Người đập mảnh chai
Vểnh cằm
Cạo râu…
Suối mang bóng người
Soi
Những
Về
Đâu?!
“Trời
có mắt”
Sau năm 75, mặc dù trôi dạt nhiều
nơi, người Việt vẫn không quên Hữu Loan. Không những vì bài thơ “Màu tím hoa sim” bất hủ mà còn vì
nhân cách sốngđáng ca tụng của ông nữa. Khi quyết định trao giải Văn Chương
Toàn Sự Nghiệp do tạp chí Khởi Hành khởi xướng cho nhà thơ Hữu Loan, chủ biên
tạp chí này là nhà văn Viên Linh kể lại:
“Năm sáu tháng trước và sau khi trao giải thưởng cho nhà thơ Hữu Loan
thì chúng tôi có liên lạc trước hết là những thân nhân sau đó là những bạn bè
từ Paris về liên lạc với anh Hữu Loan, sau đó là gọi điện thoại. Một trong
những điều tôi nhớ nhất trong cuộc nói chuyện với anh là khi nói rằng tạp chí
Khởi Hành quyết định trao giải cho anh thì anh nói chỉ ba chữ: Trời có mắt!”
Nhà phê bình văn học Phạm Xuân
Nguyên kể lại những lần thăm viếng nhà thơ Hữu Loan mới đây và ông cũng không
dấu được ngậm ngùi khi nghe tin nhà thơ qua đời.
“Khoảng tháng 10 năm 2008 cho đến cuối năm vừa rồi tôi có nhiều dịp đến
thăm nhà thơ. Như một sự ngưỡng mộ, như một sự tìm kiếm. Ấn tượng ban đầu khi
gặp nhà thơ thì ông rất cương cường, cả về thể xác lẫn tinh thần. Người ông gầy
sắt seo lại nhưng rất cứng cỏi và trí nhớ thì vẫn rất tuyệt vời. Ông sẵn lòng
đọc thơ cho những ai đến thăm có yêu cầu…”
Hữu Loan sinh ra và lớn lên tại
miền Bắc nhưng tôn vinh và nhận thức cái hay trong thơ ông lại là dân chúng
miền Nam. Trước năm 1975, bài thơ “Màu
tím hoa sim” hình như không ai ở miền Nam mà không biết tới. Tính chất
bi kịch gây xúc động của câu chuyện có thực, lồng trong ngôn ngữ trữ tình lãng
mạn của thi ca đã làm biết bao thanh niên miền Nam say đắm.
Giờ đây người dân miền Bắc đã
biết đến Hữu Loan qua những nhạc phẩm phổ từ bài thơ của các nhạc sĩ Dzũng
Chinh, Phạm Duy hay Anh Bằng. Miền Bắc biết và yêu ông hơn cả người miền Nam
khi xưa vì vừa cảm động bởi bài thơ bất hủ vừa chia sẻ sâu sắc nỗi thống khổ
của một người bị guồng máy trù dập như thế nào. Rất nhiều người trong họ đã nếm
qua những gì mà nhà thơ từng trải nghiệm.
Tuy vẫn quay trong sự im lặng
nhưng hình ảnh bất khuất của nhà thơ hình như cũng khiến cho guồng máy chững
lại trong giờ phút ông ra đi. Ra đi nhưng để lại trong lòng những người yêu mến
ông biết bao thổn thức.
Quý vị vừa theo dõi các văn nghệ
sĩ nói về sự kính trọng của mình đối với nhà thơ Hữu Loan. Kỳ tới Mặc Lâm sẽ
gửi đến quý thính giả lịch sửc của hai bài thơ: “Màu tím hoa sim” và “Hoa
Lúa”, hai tuyệt tác mà nhà thơ Hữu Loan sáng tác cho hai người bạn tri
kỷ của mình đã và sẽ mãi mãi nằm trong lòng người yêu thơ nước Việt.
--------------
Nguồn: HỮU LOAN: NHÀ THƠ
BẤT KHUẤT/
Tác
giả: Nguyễn Bàng
HAI NGƯỜI VỢ CỦA
NHÀ THƠ HỮU LOAN
Mình
rất kính nể nhà thơ Hữu Loan về nhiều mặt, rất yêu thích bài thơ Màu Tím hoa Sim bất tử của ông và
cũng rất thích những bản nhạc được phổ theo bài thơ đó. Đây là một bài thơ được
phổ nhạc nhiều nhất, tất cả là 8 bài; Áo
Anh Sứt Chỉ Đường Tà (Phạm Duy) Chuyện
Hoa Sim (Anh Bằng), Chuyện Người Con
Gái Hái Sim (Hồng Vân), Màu Tím Hoa
Sim (Duy Trá), Màu Tím Hoa Sim
(Song Ngọc), Những Đồi Hoa Sim (Dũng
Chinh), Tím Cả Chiều Hoang (Anh
Bằng), Tím Cả Rừng Chiều (Thu Hồ).
Mình
có cách nghe nhạc hơi khác người, nghe bản nào thì nghe đủ các giọng ca hoặc đủ
các bản không lời trình bày về bản nhạc đó. Chẳng hạn như nghe Nhạc Nga Đôi bờ thì nghe đủ tiếng hát của
Thảo Vân, Lê Cát Trọng Lý, Lê Dung, Ngọc Anh, Maya Kristalinskaya (Ca sĩ
Nga trình bày đầu tiên bản nhạc này), Minhhankiev, Dva Begara … Hoà âm
thì nghe Hoàng Cường (Pianist), Đức Thao (Tiêu - Sáo), Bossa Band…, nghe cả mp3
đến nghe và xem video,
Hôm
nay, để thư giãn, nghe lại mấy bài hát phổ thơ Màu Tím Hoa Sim, xong bài Áo Anh Sứt Chỉ Đường Tà, của “phù thủy âm nhạc” Phạm Duy, bỗng
nhớ tới những lời nhạc sĩ Phạm Duy nói khi nghe tin nhà thơ Hữu Loan mất; “Anh Hữu Loan mất thì mình tiếc thương cái
tài của anh ấy. Chứ còn anh ấy 95 tuổi, mà chết đi thì mình mừng chứ! Bởi nếu
như tôi không nhầm thì lúc này anh ấy đã bị lẩm cẩm rồi. Mà người già, như tôi
chẳng hạn, năm nay cũng đã 90 rồi, chỉ thua anh Hữu Loan vài tuổi thôi, đều sợ
nhất một điều là về già mà bị lẩm cẩm”.
Trong
lòng mình hiện lê hình ảnh nhà thơ Hữu Loan, rất thi nhân nhưng cũng rất quắc
thước can trường và bất khuất, chép lại mấy dòng từ chính những lời ông thổ lộ.
Như
chính nhà thơ Hữu Loan thổ lộ: “Tôi sinh
ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có cơ may cắp sách đến trường như
bọn trẻ cùng trang lứa, chỉ được cha dạy cho dăm chữ bữa có bữa không ở nhà…
Đến năm 1938, lúc đó cũng đã 22 tuổi, tôi ra Hà Nội thi tú tài, để chứng tỏ
rằng con nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai”.
Có
bằng tú tài, nhà thơ Hữu Loan về Thanh Hóa dạy học. Ông làm gia sư ở nhà của
ông Lê Đỗ Kỳ - Tổng thanh tra canh nông Đông Dương và dạy đọc, dạy viết cho cô
bé Lê Đỗ Thị Ninh. Kháng chiến chống Pháp bùng lên, nhà thơ Hữu Loan vào quân
đội và làm công tác tuyên truyền. Ông hành quân qua những ngả đường và làm
những bài thơ thời sự để phục vụ cách mạng.
Đầu
năm 1948, nhà thơ Hữu Loan nghỉ phép về Thanh Hóa, và gặp lại cô bé Lê Đỗ Thị
Ninh mà mình đã dạy học thuở nào, giờ đã thành một thiếu nữ 17 tuổi xinh đẹp.
Họ cưới nhau ngày 6/2/1948, rồi nhà thơ Hữu Loan ra Nghệ An làm chủ nhiệm Báo
Chiến sĩ của Sư đoàn 304. Chỉ ba tháng sau, nhà thơ Hữu Loan nhận được tin vợ
mất.
Theo
hồi ức nhà thơ Hữu Loan: “Hôm đó là ngày
25/5 âm lịch, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồn thuộc ấp Nhị Long - Nông
Cống, vì muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn trôi nên trượt chân chết đuối! Con
nước lớn đã cướp em vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn lòng tri kỷ, để lại
cho tôi nỗi đau không gì bù đắp nổi!”
Nước
mắt nhà thơ Hữu Loan khóc vợ, đã trào ngược vào tâm can mà thành “Màu tím hoa sim” cay đắng: “Má tôi ngồi bên mộ con/ Đầy bóng tối/ Chiếc
bình hoa ngày cưới/ Thành bình hương/ Tàn lạnh vây quanh”. Sau hình thức
phổ biến bằng cách chép tay và đọc cho nhau nghe, “Màu tím hoa sim” chính thức được Nguyễn Bính in trọn vẹn trên
Báo Trăm Hoa vào năm 1956. Nửa thế kỷ vừa qua, “Màu tím hoa sim” là một trong những bài thơ được nhiều người
tán tụng nhất trong thi ca Việt Nam! Và “Màu tím hoa sim” cũng là bài thơ đầu
tiên được mua bản quyền như một hình thức bảo tồn văn hóa, với giá 100 triệu
đồng, vào năm 2004.
Niềm
xót xa “những đồi hoa sim dài trong chiều
không hết/ màu tím hoa sim/ tím cả chiều hoang biền biệt”, sau này đã trở
lại trong thơ Hữu Loan qua bài “Thánh
mẫu hài đồng” day dứt: “Em đi tím
đất chiều hoang/ Ta như mất mẹ khóc tang hai lần”.
Ngày
16/11/1953, nhà thơ Hữu Loan cưới vợ lần thứ 2. Năm ấy, bà Phạm Thị Nhu cũng 17
tuổi như Lê Đỗ Thị Ninh thuở nào “tóc
nàng xanh xanh, ngắn chưa đầy búi”. Họ sống bên nhau gieo neo và đầm ấm đến
cuối đời, có chung 10 đứa con, 6 trai 4 gái. Bà Phạm Thị Nhu cũng được Hữu Loan
viết tặng bài thơ “Hoa lúa”
vào năm 1955: “Em ca giữa đồng xanh bát
ngát/ Anh nghe quê ta sống lại hội mùa… Xa em năm nhớ, gần em mười thương/ Còn
bàn tay em, còn quê hương mãi”
--------------
Nguồn: HAI NGƯỜI VỢ
CỦA NHÀ THƠ HỮU LOANl
Tác
giả: Trần Việt Trình
HỮU LOAN - HUYỀN
THOẠI MỘT NHÀ THƠ
Một
ngày sau năm 1975, sau khi hai miền Nam Bắc “được” giao thông, một ông già tóc
râm đang thả bộ trên đường phố Sài Gòn bỗng nghe lời ca tiếng nhạc phát ra từ
một người đàn ông cụt chân với cái đàn guitar cũ kỹ hát xin tiền:
Những đồi hoa sim ôi những đồi hoa sim
Vào chuyện ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
khi còn tóc buối vai
Mấy lúc xong pha ngoài trận tuyến ai hẹn được
ngày về
rồi một chiều mây bay
Từ nơi chiến trường đông bắc đó lần ghé về
thăm xóm
hoàng hôn tắt sau đồi
Lời
ca nghe sao quen quá! Ông lão mới mon men đến hỏi. Thì ra là bài “Những Đồi Hoa Sim” và đó lần đầu
tiên ông được nghe. Ông yêu cầu người hành khất hát lại một lần nữa. Nghe hát
xong, ông vét sạch tiền trong túi bỏ vào chiếc ca nhựa và nói: “Tôi là tác giả
bài thơ được phổ nhạc” rồi bước đi với đôi mắt ngấn lệ …
Ông
lão già tóc râm đó là Hữu Loan.
Nhắc
đến nhà thơ Hữu Loan là chúng ta nhắc đến bài thơ “Màu Tím Hoa Sim” đã làm say
lòng không biết bao nhiêu thế hệ yêu thơ. Bài thơ chân thực và xúc động ấy có
một sức sống kỳ lạ. Bài thơ kể lại mối tình của chính nhà thơ với người phụ nữ
đầu tiên trong đời đầy bi kịch. Bài thơ được làm để khóc người vợ mà nhà thơ
hằng yêu quý vừa bị chết thảm.
Nỗi
đau vợ chết thảm ông phải giấu kín trong lòng, không được cho đồng đội biết để
tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Ông như một cái xác không hồn.
Càng đè nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. Một buổi trưa năm 1949, trong thời kỳ
theo kháng chiến, lúc đang đóng quân ở Nghệ An, cơn đau trong lòng ông được
bung ra, ông ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt ông đẫm ướt, ông lấy bút ra ghi
chép. Không cần phải suy nghĩ nhiều, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra:
Tự chiến khu xa
nhớ về ái ngại
Lấy chồng đời chiến binh
mấy người đi trở lại !
Nhỡ khi mình không về
thì thương
người vợ chờ bé bỏng chiều quê
Nhưng không chết
Người trai khói lửa
Mà chết
Người gái nhỏ hậu phương
Tôi về
Không gặp nàng
Mẹ tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
Thành bình hương
Tàn lạnh vây quanh…
Viết
bài thơ vào cái quạt giấy để lại cho người bạn, người bạn này đã chép lại và
truyền tay nhau trong suốt những năm chiến tranh. Bài thơ “Màu Tím Hoa Sim” ra
đời như vậy đó. Người vợ hiền của nhà thơ mất đi, đứa con tinh thần này của nhà
thơ ra đời.
Tuy
không ấn hành, nhưng bài thơ đã được truyền miệng rộng rãi và sau đó được
Nguyễn Bính đăng trên tờ “Trăm Hoa”. Rồi bi kịch chiến tranh trong bài thơ đã
góp phần trở thành bi kịch của đời nhà thơ.
“Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi
khóc, vậy mà họ cho tôi là phản động. Tôi phản động ở chỗ nào? Cái đau khổ của
con người, tại sao lại không được khóc? Bọn họ xúc phạm đến tình cảm thiêng
liêng của tôi đối với người vợ mà tôi hằng yêu quý, cho nên vào năm 1956, tôi
bỏ đảng, bỏ cơ quan, về nhà để đi cày. Họ không cho bỏ, bắt tôi phải làm đơn
xin. Tôi không xin, tôi muốn bỏ là bỏ, không ai bắt được! Tôi bỏ tôi về”.
Đó
là lời ông tự thuật. Năm 1988, khi có sự “Đổi mới”, ông đã viết bài “Lời Tự
Thuật” gửi cho báo Lao động Chủ nhật nhưng không được đăng. 19 năm sau, nhà thơ
lúc ấy đã 91 tuổi, đồng ý để Talawas công bố bài trên.
“Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời, chán
kháng chiến, bỏ đồng đội, từ giã văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng vì
tính tôi' hay cãi, thích chống đối, không thể làm gì trái với suy nghĩ của
tôi'. Bọn họ chê tôi ủy mị, hoạch hoẹ đủ điều, không chấp nhận đơn từ bỏ kháng
chiến của tôi. Mặc kệ! Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi quá ! với lại
tôi cũng chán ngấy bọn họ quá rồi!”. Đó cũng là tâm tình của ông trong
“Lời Tự Thuật”.
Những
năm 1955-1956, phong trào văn nghệ sĩ miền Bắc bùng lên với sự xuất hiện của
nhóm Nhân Văn Giai Phẩm chống chính sách độc tài, đồng thời chống những bồi bút
cam tâm lừa thầy phản bạn, ca ngợi này kia để kiếm chút cơm thừa canh cặn. Làm
thơ lúc bấy giờ là phải ca tụng, trong khi đó thì ông lại đề cao tình yêu, khóc
vợ, bị cho là tình cảm tiểu tư sản, phản động. Bất mãn, Hữu Loan bỏ đảng, bỏ cơ
quan, bỏ về quê để trút bỏ mọi phiền muộn, làm công việc của một người thồ đá,
nặng nề về thể xác nhưng thanh thản cho đầu óc.
Về
quê cũng không yên, “bọn họ” (từ ông dùng) tịch thâu xe của ông, ông phải đi xe
cút kít, loại xe bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước và 2 cái
càng ở phía sau để đủn hay kéo. Xe cút kít họ cũng không cho, nên ông phải gánh
bộ. Gánh bằng vai, ông cũng cứ gánh, không chịu khuất phục. Họ theo dõi, ngăn
cản. Đi đến đâu cũng có công an theo dõi, cho người hại ông. Nhưng lúc nào cũng
có người cứu ông. Thơ của ông đã có lần cứu sống ông. Có một tên công an mật
được giao nhiệm vụ theo dõi để ám sát ông, nhưng tên ấy đã tìm gặp và nói với
ông rằng, hắn sinh ở Yên Mô, rất thích bài thơ Yên Mô của ông viết về tỉnh Yên
Bình quê hắn. Hắn thường đem bài thơ Yên Mô của ông ra đọc cho đỡ nhớ, và mỗi
lần định giết ông, hắn lại nhớ đến quê mình nên lại thôi, không nỡ giết ông, từ
bỏ ý định ám sát.
Lúc
còn là chính trị viên của tiểu đoàn, chứng kiến tận mắt những chuyện đấu tố,
ông đâm ra chán nản, không còn hăng hái kháng chiến nữa. Kháng chiến khiến
chán. Ông thú thật, lúc đó ông thất vọng vô cùng.
Ông
thuật lại chuyện một trường hợp một địa chủ bị đấu tố có liên quan trực tiếp
đến đời ông như sau:
Lúc
ấy, trong một xã thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá, gần nơi ông ở, có một gia
đình địa chủ rất giàu. Ông địa chủ đó rất giàu lòng nhân đạo và rất yêu nước.
Ông địa chủ thấy bộ đội sư đoàn 304 của Hữu Loan thiếu ăn, nên ông thường cho
tá điền gánh gạo đến chỗ đóng quân để ủng hộ. Lúc đó Hữu Loan là trưởng phòng
tuyên huấn và chính trị viên của tiểu đoàn nên phải đại diện cám ơn tấm lòng
tốt của ông, đồng thời đề nghị lên sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen để vinh
danh ông. Thế rồi, một hôm, Hữu Loan được tin gia đình ông địa chủ bị đấu tố.
Hai vợ chồng ông địa chủ bị đem ra đình làng cho dân xỉ vả, rồi chôn xuống đất,
chỉ để lòi ra hai cái đầu, xong họ cho trâu kéo bừa qua bừa lại hai cái đầu,
cho đến chết. Gia đình ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ có một cô con gái 17
tuổi được tha chết nhưng bị đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ rách. Tàn
nhẫn hơn nữa, họ còn ra lệnh cấm không cho ai được liên hệ, nuôi nấng hoặc thuê
cô ta làm công. Thời đó, dân chúng còn bị cấm đoán cả việc lấy con cái địa chủ
làm vợ làm chồng.
Biết
chuyện thảm thương của gia đình ông bà địa chủ, biết cô bé lúc còn nhỏ, Hữu
Loan trở về xã để xem tình trạng cô con gái của họ sinh sống ra sao. Ông về bắt
gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt mày lem luốc, đang lom khom nhặt những củ
khoai mà dân bỏ sót, nhét vào túi áo, chùi vội một củ rồi đưa lên miệng gặm, ăn
khoai sống cho đỡ đói. Quá xúc động, nước mắt muốn ứa ra, ông đến gần hỏi thăm
và được cô kể lại rành rọt hôm bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc nức
nở và cho biết ai cũng xua đuổi, không dám gần gũi cô. Cô cho hay hằng ngày cô
đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về ngủ trong miếu hoang. Hữu Loan mủi lòng,
bất chấp lệnh cấm, lấy cô làm vợ.
Đó
là bà Phạm Thị Nhu, sống cùng ông từ đó cho đến ngày ông qua đời, có với nhau
10 người con: 6 trai, 4 gái và hơn 30 cháu nội ngoại.
Cuộc
đời ông trải qua quá nhiều thăng trầm. Trong mấy chục năm dài, ông về quê an
phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, vậy mà “bọn họ” vẫn trù dập, không chịu
để ông yên. Ông chỉ còn biết đổ đau thương lên đá. Ông tưới rượu lên mặt đá và
thề sẽ bám đá mà sống. Ngày ngày, ông nạy từng khối đá đưa lên chiếc xe cút kít
thô sơ đem đi bán ở các nơi làm vật liệu xây dựng. Bán cả chục xe đá mới kiếm
đủ ngày hai bữa cơm dưa muối cho đàn con. Nhiều khi ế ẩm, đá chất đầy vườn, cả
tháng không ai hỏi mua. Thời gian trôi qua, Hữu Loan trở thành người thợ đá da
đen đúa, chân tay chai sần, rắn rỏi, tua tủa tóc rễ tre, đi đứng nói năng mạnh
mẽ hơn xưa. Cặm cụi vật lộn với núi đá, ông nuôi cả mười đứa con khôn lớn. Hơn
mười năm sau cùng, tuổi đã lớn, Hữu Loan thôi không còn sức để bám núi đá nữa.
Ông lui về nhà, trải chiếu trên thềm, ngày ngày ngồi nhâm nhi rượu và ngóng đợi
con cháu về thăm, ngóng đợi những chuyển động đổi thay phận mình, đổi thay cho
gia đình, cho làng xóm, cho nước nhà.
Vào
tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, công ty ViTek VTB đột nhiên đề nghị mua
bản quyền bài “Màu Tím Hoa Sim”
của ông với gía 100 triệu đồng VN. Đây là một sự kiện được coi chưa từng xảy
ra. Từ trước tới nay chưa có bài thơ nào được mua tác quyền với giá cao đến như
vậy. Vì sao một doanh nghiệp thương mãi lại đi mua bản quyền một bài thơ? Có
nguồn tin cho rằng đây là một sự sắp xếp, mua chuộc, để đền bù những mất mát
thiệt thòi trong mấy chục năm của ông. 100 triệu đồng đủ để ông trang trải cuộc
sống, bớt đi những khó khăn về vật chất trong những năm cuối đời, và mong ông
“tái xuất giang hồ”. 100 triệu đồng trừ thuế còn 90 triệu, ông chia cho 10
người con hết 60 triệu, trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ
Hữu Loan và ông giữ lại 30 triệu phòng đau ốm lúc tuổi gìa. Sau đó cũng có một
số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy bài thơ khác nhưng ông từ chối “Thơ tôi
làm ra không phải để bán!”
Đó
là con người và bản tính bất khuất của một nhà thơ nổi tiếng của văn học Việt
Nam.
Màu Tím Hoa Sim là màu tang thương
của một tình yêu định mệnh, một tình vợ chồng ngắn ngủi. Màu Tím Hoa Sim còn là
một nỗi ám ảnh khôn nguôi của cả dân tộc về chiến tranh, về những bi kịch trong
chiến tranh. Điều đó giải thích vì sao bài “Màu Tím Hoa Sim” ngay từ khi đất
nước còn bị chia cắt đã được độc giả cả hai miền Bắc-Nam cùng yêu thích.
Bài
thơ “Màu Tím Hoa Sim” đã được
nhiều nhạc sĩ phổ nhạc, như “Những đồi
hoa sim” của Dzũng Chinh, “Áo
anh sứt chỉ đường tà” của Phạm Duy và “Chuyện hoa sim” của Anh Bằng. Mỗi ca khúc một vẻ, tất cả đều
đều tôn vinh thi phẩm.
Hữu
Loan đi qua chín năm kháng chiến với mười bài thơ. Đó là toàn bộ sự nghiệp sáng
tác của ông. Thơ của ông có niềm khát khao cháy bỏng cho một đất nước được tự
do.
Thi
sĩ Hữu Loan ra đi vào ngày 18 tháng 3 năm 2010, cách đây đúng 2 năm, nhưng bài
thơ “Màu Tím Hoa Sim” và khí
phách của ông còn ở lại mãi mãi với chúng ta và sẽ còn tím mãi màu hoa sim trên
dương thế. Sau 95 năm tồn tại nhọc nhằn nhưng rắn rỏi giữa cuộc đời, Hữu Loan
đã nằm xuống, nhẹ nhàng và thanh thản, để lại cho đời một pho chuyện kể, thật
nhưng lạ kỳ như huyền thoại, để lại cho hậu thế không chỉ di sản thơ ca mà cả
một nhân cách sống. Huyền thoại một nhà thơ bất khuất.
--------------
Nguồn: HỮU LOAN: HUYỀN
THOẠI MỘT NHÀ THƠl
Mời nghe Khề Khà Truyện đọc truyện ngắn
CHUYỆN CỦA GÃ KHỜ của Đặng Xuân Xuyến:
0 comments:
Đăng nhận xét