- Tác giả Đặng Xuân Xuyến - |
MỘT SỐ THUẬT NGỮ THƯỜNG DÙNG
TRONG TỬ VI
Lần đầu
tiếp xúc với khoa Tử Vi, không ít người sẽ bỡ ngỡ với những thuật ngữ như thủ,
chiếu, lâm, tọa, giáp ... nên mỗi lần xuất hiện một thuật ngữ chưa biết hoặc
không nhớ rõ lại mất thời gian tra cứu nghĩa của thuật ngữ khiến việc học bị
ngắt đoạn, tản mạn, khó nhớ... trong khi những kiến thức của Tử Vi vốn dĩ đã
khó học, khó thuộc.
Để thuận
tiện cho bạn đọc khi tham khảo khoa Tử Vi, người viết tổng hợp những thuật ngữ
thường dùng trong Tử Vi để bạn đọc làm quen với tiêu đề: MỘT SỐ THUẬT NGỮ
THƯỜNG DÙNG TRONG TỬ VI.
Sao chủ Mệnh - sao
chủ Thân: Mỗi tuổi có 1 sao chủ Mệnh và 1 sao chủ Thân, được ghi ở
khoảng giữa lá số, dưới những thông số: tên, tuổi, mệnh, cục. Không có sách nào
nói tới ảnh hưởng của 2 loại sao này tới số kiếp của con người, nhưng tất cả
các sách tử vi đều khuyên người coi số nên ghi để biết.
Cũng có
sách cho rằng: Sao chủ Mệnh, sao chủ Thân được xem như chính tinh tọa thủ tại
Mệnh hoặc Thân khi cung Mệnh hoặc cung Thân vô chính diện, nhưng không ghi rõ
là nên luận giải như thế nào? Tóm lại, quan điểm này cũng chưa cụ thể, cũng như
quan điểm các tác giả khác: nên ghi để biết.
Xung chiếu: Là cung đối diện trực tiếp với cung cần xem. Vì là chiếu
trực tiếp nên cung xung chiếu quan trọng hơn hai cung tam chiếu và cung nhị
hợp. Tùy trường hợp, có khi sao xung chiếu lại quan trọng, tốt đẹp hơn là tọa
thủ, chẳng hạn như Thái Dương - Thái Âm tọa thủ không đẹp bằng khi chính chiếu
hoặc hợp chiếu. (Theo quan điểm của
cụ Thiên Lương thì cung xung chiếu là “đối thủ” của “ta”, vì thế
cung chính chiếu cần cân nhắc thật kỹ khi luận giải.)
Chính
tinh ở cung xung chiếu càng đặc biệt hơn khi cung chính vô chính diệu. Trường
hợp này, để luận giải cung chính, Tử Vi phần lớn thường lấy chính diệu ở cung
xung chiếu làm chính tinh cho cung chính, tuy nhiên sự luận giải chỉ ở mức
tương đối vì chính tinh lúc này không khác gì là của vay của muợn, của “sỹ hão”
nên ảnh hưởng của chính tinh đó sẽ giảm thiểu đi khá nhiều, vì thế, rất
cần cẩn trọng khi đưa ra lời luận giải trong trường hợp này.
Hợp chiếu: Là 2 cung trong tam hợp với cung chính, ví dụ: Dần, Tuất
hợp chiếu Ngọ; Thân, Thìn hợp chiếu Tý; Hợi, Mùi hợp chiếu Mão...
Các sao
ở các cung hợp chiếu (còn gọi là tam
chiếu, tam hợp chiếu) có giá trị bổ túc rất nhiều cho các sao ở cung
chính. Thậm chí, có trường hợp các sao hợp chiếu lại có giá trị quyết định hơn
hẳn so với các sao ở cung chính.
Tam hợp: Một lá số tử vi được chia làm 12 cung theo thập nhị chi
là Tý, Sửu, Dần , Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Khi tính các
sao ở mỗi cung phải tính theo tam hợp của 3 cung hội họp lại.
Cụ thể,
có 4 bộ tam hợp:
Tỵ - Dậu - Sửu
Thân -
Tý -Thìn
Hợi -
Mão - Mùi
Dần -
Ngọ -Tuất
Nhị hợp: Là những cung không thuộc xung chiếu, tam chiếu
nhưng có giá trị ảnh hưởng tới cung cần xem. Thế nhị hợp cũng không thay đổi,
được quy định như sau:
Tý - Sửu
Dần -
Hợi
Mão -
Tuất
Thìn -
Dậu
Tỵ -
Thân
Ngọ -
Mùi.
Âm Dương thuận lý: Đó là trường hợp tuổi Dương mà Mệnh đóng ở cung Dương,
tuổi Âm mà Mệnh đóng ở cung Âm. Việc thuận lý này là lợi điểm đầu tiên của
đương số để độ số được gia tăng.
Âm Dương nghịch lý: Đó là trường hợp tuổi Âm mà Mệnh đóng ở cung Dương, tuổi
Dương mà Mệnh đóng ở cung Âm. Sự nghịch lý này chính là một dấu hiệu trục trặc,
bất lợi đầu tiên của lá số.
Ngũ hành tương sinh: Đó là sự tương sinh giữa Cục và Mệnh. Có thể Cục sinh
Mệnh, có thể Mệnh sinh Cục nhưng tốt nhất là trường hợp Cục sinh Mệnh. Hoặc sự
tương sinh giữa hành bản Mệnh với cung an Mệnh, giữa cung an Mệnh với sao tọa
thủ, giữa bản Mệnh với sao tọa thủ... Tương tự, khi xem các cung khác, chẳng
hạn như cung Quan Lộc, Thiên Di... phải cân nhắc kỹ mối tương quan Ngũ hành
(sinh, khắc, bình hòa) của sao với cung, cung với bản Mệnh...
Ngũ hành tương khắc: Đó là trường hợp Cục và Mệnh khắc nhau. Có thể Cục khắc
Mệnh, có thể Mệnh khắc Cục. Xấu nhất là trường hợp Cục khắc Mệnh (Mệnh bị thiệt
thòi lớn), xấu ít hơn là Mệnh khắc Cục (Mệnh đỡ hao). Hoặc sự tương khắc giữa
Mệnh với sao, cung an Mệnh với sao... Tóm lại, nếu xem ở cung nào thì xét kỹ về
sự tương khắc của cung đó chứ không hẳn chỉ xét tương sinh, tương khắc của
Mệnh, Cục, Sao và cung an Mệnh, an Thân.
Hung tinh: Là những sao gây: tai nạn, bệnh tật, tán tài, buôn bán
thua lỗ, tù tội, tang thương, loạn trí... Tóm lại là những đau khổ, bất hạnh
lớn lao cho cuộc sống con người.
Hung
tinh bao gồm các sao được gọi là sát tinh, hình tinh, bại tinh...
Hung
tinh đắc địa có ý nghĩa tốt, nhưng vẫn còn tiềm ẩn cái xấu. Hung tinh hãm địa
gieo nhiều tai hoạ, nhất là hung tinh khắc Mệnh hay khắc Can năm sinh.
Hung
tinh chỉ chịu lép vế, giảm sự tác oai tác quái khi gặp Khoa, Tuần - Triệt, Tài
- Thọ, Quan Phúc.
Hung - Sát tinh ngộ
chế: Hung tinh là bộ chính tinh THẤT SÁT - PHÁ QUÂN -
THAM LANG, còn sát tinh gồm có: Kình Dương, Đà La, Hoả Tinh, Linh Tinh, Địa
Không, Địa Kiếp, Thiên Không, Kiếp Sát, ngoài ra còn phải kể đến Thiên Hình,
Hoá Kỵ, Lưu Hà...
Gặp các
hung sát tinh không có sao giải thì rất nguy hiểm. Nếu có sao giải mạnh, các
hung sát tinh sẽ được hóa giải ác tính thành ra ngộ chế tức chế biến, cải trang
lại, không còn nguy hiểm như ý nghĩa nguyên thủy nữa mà có khi còn tốt lên.
Những
sao cứu giải mạnh gồm Tuần - Triệt, Thiên Tài, Hoá Khoa, Quan Phúc.
Sát tinh: Là những sao gây ra tai họa lớn tới đời sống con người
như: chấm dứt sự nghiệp, tài sản, gia đạo, thậm chí còn mất mạng...
Được xem
là sát tinh hạng nặng gồm: Địa Không - Địa Kiếp - Thiên Không - Kình Dương - Đà
La - Kiếp Sát - Hỏa Tinh và Linh Tinh
Càng hội
tụ nhiều sao sát tinh thì mức độ hoạ hại càng dễ xảy ra và xảy ra trên nhiều
bình diện của cuộc sống. Đặc biệt, càng nhiều sát tinh hãm địa tụ tập thì những
thiệt hại, những tai biến về gia đạo, tài sản, công danh, tính mạng ... càng
xảy ra nhanh chóng và nặng nề, bất khả kháng.
Sự hội
tụ của các sát tinh ở cung nào thì cung đó bị ảnh hưởng nhiều nhất về những tai
họa do sát tinh gây ra. Cho dù các sát tinh có đắc địa thì tai hoạ vẫn ẩn nấp,
liền kề, có chăng chỉ được hưởng sự bộc phát trong một thời gian ngắn.
Tất cả
các sao khác như: hình tinh, bại tinh, hao tinh... đều do các sao sát tinh góp
phần tăng cường hiệu lực.
Lục sát tinh: Gồm sáu sao: Địa Không, Địa Kiếp, Kình Dương, Đà La, Hỏa
Tinh, Linh Tinh.
Ngoài ra
các sao Kiếp Sát (còn gọi là Địa
Kiếp thứ 2), Lưu Hà, Phá Toái, Thiên Hình, Hoá Kỵ, Thiên Không, Thương Sứ,
La Võng cũng được kể như sát tinh vì đặc tính sát hại, phá phách của
chúng.
Hình tinh: Là những sao ảnh hưởng đến sự tự do của cá nhân, hoặc uy
tín và danh dự của cá nhân, thậm chí bị kiện tụng, tù đày...
Hình
tinh được xem là các sao: Thiên Hình, Quan Phù, Quan Phủ, Thái Tuế, Thiên La,
Địa Võng
Bại tinh, hao tinh: Là những sao làm cho con người bị lụn bại, hao tán về tài
sản, sự nghiệp, thậm chí về cơ thể.
Được coi
là hao tinh, bại tinh là những sao: Tang Môn, Bạch Hổ, Đại Hao, Tiểu Hao, Thiên
Khốc, Thiên Hư.
Ám tinh: Là những sao gây trở ngại, trục trặc cho con người về
công danh, sự nghiệp, hạnh phúc gia đạo, uy tín và danh dự của cá nhân.
Ám tinh
gồm các sao: Hóa Kỵ, Cự Môn, Phục Binh, Thiên Riêu, Thiên Không, Phá Quân, Thái
Tuế, Tử phù, Suy, Tử, Trực Phù, Tuần, Triệt, Cô Thần, Quả Tú, Tuế Phá, Thiên
Thương, Thiên Sứ.
Văn tinh: Là những sao chủ về sự học hành, trình độ, bằng cấp, hợp
với “quan văn”, như: Thiên Khôi, Thiên Việt, Hóa Khoa, Văn xương, Văn Khúc,
Thiếu Âm, Thiếu Dương, Tấu Thư. Càng hội tụ nhiều văn tinh ở Mệnh (Thân) càng
chỉ tài năng, học vấn uyên thâm và “quyền uy” của đương số.
Võ tinh: Là những sao chủ sự uy quyền, võ nghệ, xa hơn là sự mạnh
mẽ, cứng rắn về tính cách của đương số.
Đựơc xem
là võ tinh gồm những sao như: Thất Sát, Phá Quân, Thiên Tướng, Hóa Quyền, Tướng
Quân, Quốc Ấn, Thiên Mã, Thanh Long, Thiên Hình..
Dâm tinh: Là những sao ảnh hưởng đến đời sống sinh lý của con
người, nhẹ thì là người sống lãng mạn, nặng thì đa dâm, sa đọa, đĩ điếm, thậm
chí còn mất danh dự, thiệt mạng vì tính trăng hoa, dâm loạn.
Những
sao tình dục (dâm tinh) rất nhiều, chiếm tỉ lệ 20/111 sao trong hệ thống các
sao của Tử Vi (Tử Vi Việt Nam), nhưng tiêu biểu nhất cho sự dâm tính gồm các
sao: Tham Lang, Thiên Riêu, Mộc Dục, Đào Hoa, Thai, Mộ, Liêm Trinh (hãm
địa), Thái Âm (hãm địa), Hoa Cái ....
Nhìn
chung, về cơ bản các Chính tinh khi hãm địa đều có thể được coi là người có
nhiều ham muốn về tình dục, tuy nhiên sự ham muốn đó chỉ ở mức bình thường,
không nặng nề như những sao kể trên.
Lộc tinh: Là những sao chủ về tài sản, tiền bạc mà đương số sẽ được
hưởng hoặc không được hưởng, hoặc sự kiến tạo ra tài sản, tiền bạc khó hay dễ,
nhiều hay ít...
Được xem
là lộc tinh gồm các sao: Hóa Lộc, Lộc Tồn, Vũ Khúc, Thiên Phủ.
Những
lộc tinh chỉ đem đến tài lộc cho đương số khi đắc địa và không gặp sát tinh,
hoặc Tuần, Triệt án ngữ.
Phúc tinh: Là những sao chủ về sự hưởng ít hay nhiều? Được hưởng hay
không được hưởng phúc đức của tổ nghiệp, của số phận?
Được coi
là phúc tinh gồm các sao như: Ân Quang, Thiên Quý, Thiên Tài, Thiên Thọ, Thiên
Đức, Nguyệt Đức, Phúc Đức, Thiên Phúc, Quý Nhân, Thiên Quan, Giải Thần, Thiên
Giải.
Cũng như
các tinh đẩu khác, Phúc tinh chỉ thật sự hữu ích, đem lại may mắn về phúc đức,
tài lộc khi đắc địa và không gặp sát tinh hoặc Tuần, Triệt án ngữ.
Trợ tinh: Còn gọi là Hộ tinh. Là những sao khi đi cùng sao xấu sẽ
làm tăng ác tính của sao xấu, đi với sao tốt sẽ làm đẹp thêm những điều tốt của
sao tốt.
Được xem
là trợ tinh gồm các sao như: Thiên Tài, Tả Phù, Hữu Bật.
Sao thiện căn: Là những sao chủ về thiện tâm, vọng đạo, đó là các sao:
Thiên Lương, Thiên Đồng,Thiên Quan, Thiên Phúc, Ân Quang, Thiên Quý, Hóa Khoa,
Tứ Đức.
Thiên La - Địa Võng: Thiên La ở Thìn, Địa Võng ở Tuất được gọi là lưới trời.
Mệnh cư ở đây ví như số mệnh bị lưới Trời bó chặt lại, không thể vùng vẫy được.
Nhưng có sách nói chỉ khi nào có Đà La ở hai cung Thìn, Tuất và Mệnh cũng ở đó
thì mới bị ảnh hưởng của La - Võng. Khi Mệnh ở La - Võng rất cần có Kình hội
họp, nhất là Kình đồng cung để phá thế La - Võng.
Trong 14
chính tinh thì Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương là bộ sao mềm dẻo, ôn hòa nên không ngại
lắm khi Mệnh ở La - Võng, còn các chính tinh khác nên tránh xa, nhất là Tử,
Phủ, Sát, Phá, Tham.
Chính diệu: Là các chính tinh trong hệ thống các sao của khoa Tử Vi.
Tại sao lại gọi 14 sao là chính tinh (chính diệu) bởi theo quan điểm của Tử Vi
thì đó là 14 sao quan trọng, quyết định số kiếp của con người. Các cung có sao
chính tinh thì gọi là chính diệu tọa thủ.
Vô chính diệu: Cung vô chính diệu là cung không có chính tinh tọa thủ.
Cung nào không có chính tinh thì gọi cung đó là cung vô chính diệu, chẳng hạn:
Mệnh vô chính diệu, Tài vô chính diệu... Những cung vô chính diệu rất cần có
sát tinh đắc địa như Không - Kiếp đồng cung, hoặc Tam Không, Tứ Không hội chiếu
mới mong số kiếp được suôn sẻ, khấm khá lên được.
Cung vô
chính diệu khi ở Tứ Mộ mới tốt, mới được hưởng những cách hay của các sao
tam hợp chiếu. Còn tại các cung khác thì chịu ảnh hưởng của các sao ở cung trực
chiếu.
Mệnh vô
chính diệu thì cần Hỏa mệnh và Kim mệnh vì mệnh vô chính
diệu như nhà không nóc, cần bản mệnh có hành khá mạnh mẽ cứng cỏi làm nồng
cốt. Các mệnh khác như Thổ, Thủy, Mộc thì không tốt.
Nữ Mệnh
vô chính diệu thì đỡ xấu hơn là Nam Mệnh vô chính diệu
Mệnh vô
chính diệu mà cung Tử cũng vô chính diệu thì cả đời
không con hoặc vất vả về vấn đề con cái
Phụ Mẫu
vô chính diệu thì cha mẹ thường thọ nhưng cha mẹ không giúp đỡ con cái
được bao nhiêu, hoặc con cái không báo hiếu được cha mẹ nhiều.
Bào vô
chính diệu thì anh em không cậy nhờ được nhau.
Tật ách vô
chính diệu thì ít bệnh tật
Điền vô
chính diệu thì khó giữ nhà đất bền vững, cho dù có sao giữ của như Quả Tú.
Cũng có quan điểm cho rằng: Điền vô chính diệu là khi đương số ra đời, kinh tế
của bố mẹ đang gặp cảnh khó khăn, sau đó mới giàu có dần.
Tử vô chính
diệu thì khó có con, hoặc có con nhưng không nhờ được con cái.
Phúc vô
chính diệu thì lại tốt.
Phu Thê
vô chính diệu thường lập gia đình một cách bất ngờ.
Tam không - Tứ
không: Đó là những sao: Địa Không, Thiên Không, Tuần trung không
vong và Triệt lộ không vong. Đây là bộ sao có ảnh hưởng rất mạnh tới số phận
của con người, làm đảo lộn giá trị của các sao đồng cung hoặc hợp chiếu. Vì
vậy, bộ sao này cần được cẩn trọng khi xem lá số, nhất là 2 sao Triệt lộ không
vong (Triệt) và Tuần trung không vong (Tuần).
Địa
Không - Địa Kiếp là 2 phụ tinh nhưng ảnh hưởng tới số phận con người lại ngang
ngửa với chính tinh, thậm chí còn làm cho chính tinh trở nên mờ nhạt khi Không
- Kiếp hãm địa. Nhắc tới lũ sát tinh này, mọi người đều e ngại, thế nhưng khi
có Triệt tại bản cung thì khụôg sợ tai họa do Không - Kiếp chiếu về. Tuần cũng
có tác dụng như vậy nhưng sức cản phá yếu hơn. Mệnh Thân có Không - Kiếp thủ
chiếu mà gặp Triệt - Tuần thì không sợ tai nguy.
Tuỳ theo
sự hội tụ của các sao đó mà gọi là đắc Nhị không, Tam không hay Tứ không.
Sự hội
tụ của các sao này rất cần thiết cho các cung không có chính tinh toạ thủ.
Tứ Mộ, tứ Chính, tứ
Sinh: Đây là thuật ngữ dùng để chỉ khi Mệnh nằm tại 1 cung nào
đó trên lá số.
Mệnh ở tứ Sinh gồm: Dần, Thân, Tỵ, Hợi
Khi Mệnh
an tại tứ Sinh là người có lòng tự hào, tính khoe khoang, thích được đề cao, có
sức khỏe, ít bệnh tật mặc dù thường có tầm vóc nhỏ.
Mệnh ở tứ Chính gồm: Tý, Ngọ, Mão, Dậu.
Khi Mệnh
an tại tứ Chính là người cứng rắn, cương trực, khảng khái và khó ai làm thay
đổi được quan điểm. Người có Mệnh an tại tứ Chính thường hay được hưởng Đế
Vượng nên có sức khỏe tốt.
Mệnh ở tứ Mộ gồm: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi
Khi Mệnh
an tại tứ Mộ thì thường là người mềm dẻo, biết thân phận, không muốn phiền
nhiễu ai, hay bị bệnh và sức khỏe yếu.
Trong
các cung Sinh, Chính, Mộ đó đều có cung Âm, cung Dương. Các cung Dương thường
kiên quyết, cẩn thận và chu đáo. Các cung Âm thì thường rộng rãi, bao dung và
hòa hợp hơn.
Tọa thủ - Đồng cung: Chính tinh đóng ở một cung cụ thể thì gọi là tọa thủ. Hai
chính tinh cùng đóng tại một cung thì gọi là đồng cung. Chẳng hạn khi Liêm
Trinh đóng tại cung Mệnh thì nói Liêm Trinh tọa thủ tại cung Mệnh, nhưng nếu
tại cung Mệnh có 2 chính tinh là Liêm Trinh và Tham Lang cùng đóng ở đó thì gọi
là Liêm - Tham đồng cung tại Mệnh...
Sự ảnh
hưởng của các sao đồng cung tới số mệnh con người sẽ không như nhau mà phải căn
cứ vào mối quan hệ Âm Dương - Ngũ hành giữa cung, chính tinh và bản Mệnh như
thế nào. Đặc biệt trong trường hợp sao đó đi cùng với các sao khác để tạo thành
bộ, thành cách.
Tuy vậy,
khi coi lá số, không nhất thiết chỉ chính tinh mới dùng các thuật ngữ này, mà
trong nhiều trường hợp người coi tử vi vẫn thường dùng thuật ngữ đồng cung để
nói về các sao (cả chính tinh, phụ tinh) khi cùng đóng trong một cung.
Độc thủ: Là một sao duy nhất đóng tại cung chính, không có
sao khác để tạo thành đôi, thành cách (cục).
Lâm - Nhập: Hai thuật ngữ trên đều mang một nghĩa là sao đó đóng ở
1/12 cung của lá số. Sự khác nhau chỉ ở chỗ: Sao tốt đóng ở đâu thì gọi là lâm,
sao xấu đóng ở đâu thì gọi là nhập. Tuy nhiên, thuật ngữ này ít được dùng khi
coi lá số.
Hội họp: Thuật ngữ này dùng để chỉ các sao cùng chiếu về cung
chính ở các thế xung chiếu, tam hợp chiếu, nhị hợp, giáp... (Duy cụ Thiên Lương lại không tính các sao ở
cung xung chiếu vì cụ cho rằng cung xung chiếu là cung của “đối
thủ” nên không thể tính là sao "hội họp" được.) Sự hội
họp của các sao càng có giá trị quyết định tới số phận của đương số khi chúng
tạo thành cách cục.
Trên lý
thuyết thì các sao ở tam hợp chiếu sẽ mạnh hơn các sao nhị hợp, càng mạnh hơn
các sao giáp nhưng thực tế khi các sao hội họp tạo thành cách thì sự phân biệt
đó trở thành vô nghĩa.
Cách: Khi các tinh đẩu kết hợp lại với nhau làm thành một bộ
sao thì gọi là cách. (Riêng với phụ tinh thì có người gọi là cách, có người gọi
là cục.)
Với
chính tinh, có 6 cách sau:
- Tử,
Phủ, Vũ, Tướng
- Sát,
Phá, Liêm, Tham
- Cơ,
Nguyệt, Đồng, Lương
- Cự,
Nhật
- Nhật,
Nguyệt
- Vô
chính diệu (không có chính tinh tọa thủ)
Thường
thì người ta cho cách Tử, Phủ, Vũ, Tướng là đẹp nhất, còn cách vô chính diệu là
xấu nhất, nhưng thật ra 6 cách trên đều tốt đẹp như nhau nếu chúng được thập
toàn. Để được thập toàn thì phải hội đủ các sao để tạo thành cách và các sao
đều phải đắc địa. Nếu sao nào đó hãm địa cần phải có Tuần, Triệt làm cho sáng
lại, tuy nhiên cũng không thể toàn mỹ được.
Trường
hợp Vô chính diệu, để thập toàn phải đáp ứng một số điều kiện sau:
- Tuần,
Triệt án ngữ tại bản cung
- Hội đủ
4 hoặc chí ít là 3 sao không: Tuần, Triệt, Địa Không, Thiên Không.
- Nhật,
Nguyệt sáng sủa hội chiếu
Với các
phụ tinh thì sự kết hợp của các sao tạo thành bộ thì cơ bản thành các cách: Phú
cách (giàu có), Quý cách (sang trọng), Thọ cách (sống lâu), bần tiện cách
(nghèo hèn), Tạp cách (xấu nhất)
Tuy
nhiên, các cách của phụ tinh chỉ có giá trị tốt đẹp khi đáp ứng đầy đủ các điều
kiện sau:
- Đầy
đủ: Hội tụ đầy đủ các sao để tạo thành cách.
- Đắc
địa: Các sao đều phải đắc địa
- Đông
đảo: Hội nhiều cách hay về bản cung
- Thuần
tuý: Các cách của phụ tinh phải phù hợp với các cách của chính tinh.
Cục: Là yếu tố ghi ở giữa khoang lá số dùng để cứu xét tương
quan giữa Cục và bản Mệnh, giữa Cục và cung Thân.
Miếu địa: Mỗi sao phải cần đứng tại vị trí của mình thì mới phát
huy sức ảnh hưởng vào số kiếp của con người, làm cho cuộc sống của đương số tốt
đẹp may mắn hơn. Trong những trường hợp đó gọi là miếu địa. Tuy nhiên, cũng
thường thấy sách tử vi dùng các từ như đắc địa, vượng địa để diễn đạt sự đúng
chỗ của các sao nhưng 2 trường hợp này không đẹp bằng miếu địa.
Hãm địa: Là sao đứng không đúng chỗ của mình nên vô ích hoặc bất
lợi cho cuộc sống con người thì gọi là hãm địa. Lẽ đương nhiên khi sao hãm địa
rơi vào những cung chính mà các sao đó lại thuộc nhóm hung sát tinh thì sức phá
hại của chúng tới số kiếp con người tàn bạo hơn nhiều khi những sao đó nằm đúng
chỗ.
Giáp: Giáp là một cung mà có các sao bộ đôi như Khôi Việt,
Xương Khúc, Tả Hữu, Không Kiếp, mỗi sao nằm một bên. Có giáp cung và giáp góc.
Giáp
cung là cung có bộ sao kèm hai bên, nhưng trên một hàng thẳng thí dụ cung
Sửu giáp Tí và Dần.
Giáp
góc là giáp ở góc thí dụ các cung Dần, Thân, Tỵ, Hợi. Giáp góc ít hiệu quả
hơn giáp cung.
Có sách
cho rằng: Sao giáp có khi còn mạnh hơn cả sao toạ thủ, cũng như sao chiếu có
khi mạnh hơn sao đồng cung. Chẳng hạn khi Mệnh giáp Không - Kiếp chắc chắn sẽ là người nghèo khổ cho dù Chính tinh
thủ Mệnh có đắc địa, phù sinh cho bản Mệnh...
………………………………………………………………………………..
- Trích
trong TỬ VI KIẾN GIẢI của Đặng Xuân Xuyến ; xuất bản năm 2009.
- Vui
lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
Cảm ơn anh rất nhiểu về bài viết.
Trả lờiXóaEm đang lang thang google để tìm hiểu về lá số.
Em xem lá số của em mà không biết giải như thế nào, không biết bắt đầu từ đâu.
Cảm ơn anh
Trả lờiXóaThầy cho em hỏi tại sao các chính tinh thì có xét âm dương nhưng em không thấy phụ tinh xét tính âm dương ạ? E chỉ tìm thấy ngũ hành của các phụ tinh. Xin cảm ơn thầy nhiều ạ.
Trả lờiXóa